Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Mộng Du Tập: Trích Quyển Mười


~Trích Quyển Mười~
Dạy Thiền – Nhân Liễu Tế
       Tôi trung hưng Tào Khê, trùng tu Thiền đường Bảo Lâm để tiếp nạp-tử từ bốn phương đến. Thời Lượng thiền nhân phát nguyện đi xin vật thực để cúng đại chúng. Ngay lúc bắt đầu kiết chế, thiền nhân niêm hương thỉnh ích. Tôi nhân đó dạy:
       Diệu Hạnh lợi sanh của chư Phật nguyên chẳng phải một loại. Diệu môn thành Phật của Bồ Tát cũng vốn không phải một đường. Xưa, Đại Sĩ Duy Ma dùng một bát cơm mà làm Phật sự, có khoảng ba vạn hai ngàn chúng độ thức ăn này đều vào luật hạnh. Hãy nói đến nay, chén bát vẫn như cũ, cơm thơm như xưa mà người ăn cơm, luật hạnh ở đâu? Người mang cơm thần thông chỗ nào? Nếu ở đây thấu được chính là chỗ nói “ư thực đẳng giả, ư pháp diệc đẳng” (đối với thức ăn bình đẳng, đối với pháp cũng bình đẳng). Nếu thấu chẳng được, lại phải tham phỏng tri thức, quyết trạch nghi tình, thẳng đến chỗ chẳng nghi, mới cùng bổn địa có chút phần tương ưng. Nếu chưa được thế thì chưa khỏi theo đuổi sóng mòi. Do đó, tăng tham vấn Triệu Châu nói: “Học nhân mới vào tòng lâm xin sư chỉ dạy”.
       Triệu Châu hỏi: “Ăn cháo chưa?”
       Tăng thưa: “Ăn rồi!”
       Triệu Châu nói: “Rửa chén bát đi!”
       Tăng ấy có tỉnh. Thiền nhân nếu ở chỗ nói của Triệu Châu, chỗ tỉnh của tăng mà hội được liền cùng các thượng thiện nhân trong phương trượng của Duy Ma nắm tay cùng đi.

Dạy Đường Chủ Kính - Sơn
Thiền Nhân Huyễn - Hữu Hải
       Phật, Tổ một tâm; Giáo, Thiền một chí. Tông môn giáo ngoại biệt truyền chẳng phải lìa ngoài tâm riêng có một pháp có thể truyền. Chỉ là muốn người lìa hẳn ngôn ngữ văn tự, riêng ngộ ý chỉ ngoài lời vậy. Nay người tham thiền, động một chút liền quở trách kinh giáo, chẳng biết giáo hiển bày nhất tâm là gốc của thiền. Nhưng Phật thuyết nhất tâm là thuyết thấu hai đường mê ngộ, còn tông môn chỉ thẳng một tâm, chẳng thuộc mê ngộ, muốn người ngộ thấu, kỳ thực cứu cánh không hai. Trong Như Lai tạng, cầu việc đến, đi, mê, ngộ, sanh, tử trọn chẳng thể được. Đây há thuộc mê, ngộ sao? Nhị Tổ nói: “Tìm tâm trọn chẳng thể được”. Lục Tổ nói: “Bổn Lai vô nhứt vật” tức là Bát-nhã không có ngũ uẩn, căn, trần, thức, giới và pháp xuất thế tam thừa, vì không sở đắc nên Bồ Đề, cùng “tìm tâm trọn chẳng thể được”, há là hai pháp sao? Thì biết kinh nói nhất tâm chỗ nhiều là phàm tình thánh giải vậy. Tham thiền chóng phá vô minh là tuyệt tình phàm, ngộ cũng mửa bỏ là tuyệt thánh giải vậy. Đó là thiền quở tri giải, mà giáo cũng chưa từng không quở. Nay người tham thiền từ giáo hồi tâm, chẳng thể quên tri tuyệt giải, đề thoại đầu chẳng thể quên tình tuyệt tích, đều nằm trong chỗ bị quở, sao lại hủy giáo cho là chẳng đủ lưu tâm? Nay người bỏ giáo tham thiền, quả có thể trước tiên hiểu vốn không phàm thánh, chẳng thuộc mê ngộ, đó là kiến địa, y theo đây tham cứu. Đương nhân một niệm nếu còn một tơ hào tình kiến và tri giải huyền diệu đều là chưa thấu, đều là việc bên bờ sanh tử. Há có thể liền cho là đắc ư? Nay bậc tri thức mắt chưa sáng mà ấn chứng, nếu không dùng giáo ấn tâm, rốt cùng sẽ rơi vào tà ma ngoại đạo. Chỉ cần không nên đem ngôn ngữ văn tự của Phật thuyết và ngữ cú huyền diệu của Tổ sư cho là tri kiến của chính mình, thì chắc chắn sự tham cứu sẽ đến chỗ tương ưng. Như kinh nói: “Tất cả phiền não, ứng với niệm liền hóa thành tri giác vô thượng”. Như thế là hình thức đốn ngộ. Chẳng được đem tập khí phiền não, tri kiến tạp nhạp cho là diệu ngộ. Cũng chẳng phải có gì khác, chỉ là tiêu hết tập khí phiền não, lòi ra bộ mặt xưa nay. Nên nói: “Ngộ rồi lại đồng lúc chưa ngộ”. “Vẫn như cũ, chỉ là người thuở xưa. Chẳng đổi chỗ dẫm bước ngày cũ”. Há chẳng thấy Giáp Sơn lúc chưa gặp Thuyền Tử, thượng đường có tăng hỏi:
       - Thế nào là pháp thân?
       Sơn nói:
       - Pháp thân vô tướng.
       Lại hỏi:
       - Thế nào là pháp thân?
       - Pháp nhân không vết.
       Đạo Ngô ở tại tòa bất giác cười.
       Lúc đã gặp Thuyền Tử rồi, Đạo Ngô sai tăng đến hỏi:
       - Thế nào là pháp thân?
       Sơn vẫn đáp:
       - Pháp thân vô tướng.
       Lại hỏi:
       - Thế nào là pháp nhãn?
       Sơn vẫn đáp:
       - Pháp nhãn không vết.
       Tăng trở về kể lại Đạo Ngô, Ngô nói:
       - Gã này bây giờ mới triệt.
       Đây bèn là tọa chủ lanh lợi. Là hình thức bỏ giáo tham thiền. Đường chủ Hải từ lâu gần gũi giáo thừa, nay bỏ thói quen, riêng cầu một đường hướng thượng, hãy xem Giáp Sơn hai chuyển ngữ giống nhau, Đạo Ngô vì sao chịu sau mà chẳng chịu trước, thử xem chẳng chịu chỗ nào? Chịu chỗ nào? Ở đây nhận ra, chẳng kể Giáo ý, Tổ ý, nhất tề mửa hết. Ngày khác liền đem một đại tạng kinh, một miệng nuốt hết, chữ chữ hóa thành tạng quang minh Cát đằng chẳng ít. Trân trọng, trân trọng.

Pháp Ngữ
Dạy Thiền Nhân Bổn Hoài Ấn
       Xưa đức Phật ở trên hội Linh Sơn muốn đem kinh Diệu Pháp Hoa phó chúc lại cho đời sau thọ trì, lưu bố rộng rãi, chẳng kể Trời người, hàng trăm hàng vạn đều được thọ ký. Các vị đệ tử không có một ai dám ở cõi Ta-bà lưu truyền pháp này mà phải đợi chúng Bồ Tát ở dưới đất vọt lên gánh vác việc gìn giữ pháp này. Há là chuyện dễ dàng sao? Vì chúng sanh ở cõi ác ngũ trược phước mỏng tánh nết cang cường rất khó điều phục, cho nên đức Phật dạy người trì kinh lấy nhẫn nhục làm hạnh đệ nhất. Nên nói: “Như Lai diệt độ rồi, người muốn vì tứ chúng thuyết kinh này, phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai mới có thể rộng nói kinh này”.
       Nhà Như Lai tức là tâm đại từ bi trong tất cả chúng sanh, áo Như Lai là tâm nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như Lai là tất cả pháp không. An trụ ở đây rồi sau dùng tâm không lười biếng mới có thể vì chúng thuyết kinh Pháp Hoa này. Nên Phật tự thuật hạnh cầu pháp ngày xưa. Như Đề Bà Đạt Đa oán hại nhiều đời và Thường Bất Khinh lễ bái tứ chúng dù bị nhục mạ, hoặc bị dao gậy đánh đập, ngói đá liệng ném, đủ mọi việc khổ đều hoan hỷ chịu đựng, không một ý chán nản lui sụt. Đây chính là dạy pháp Bồ Tát, là hạnh tối thắng để trì kinh đời mạt pháp. Chúng ta là đệ tử Phật, nếu không hành nhẫn nhục thì lấy gì để gìn giữ huệ mạng Phật khiến cho không dứt mất? Rồi đến Bồ Tát nhận sự phó chúc trì kinh đã thề rằng: “Mọi việc khổ đều sẽ nhẫn được”, thế nên Phật thuyết: “Quán ba ngàn đại thiên thế giới không có một chỗ nào nhỏ bằng hột cải mà không phải là chỗ Bồ Tát vì cầu Bồ Đề mà bỏ thân mạng, cho đến đầu, mắt, tủy, não không hề lẫn tiếc”. Nên dạy người trì kinh trước hết hạnh nhẫn thương xót đời mạt pháp này. Nếu không có sức nhẫn lớn làm sao có thể hộ trì Phật pháp?
       Lão nhân mỗi mỗi lấy hạnh nhẫn khai thị thiền nhân. Thiền nhân nếu có thể dốc lòng tin Lão nhân, cũng có thể lấy sức nhẫn tự trì, thì nay chẳng những gìn giữ trọn vẹn đạo trường, cũng còn thành tựu hạnh của mình nữa. Cần yếu chẳng được dùng mắt tầm thường thế tục mà quán, ngoài điều này ra, lại cầu pháp sanh tử khác. Hơn nữa, kinh này đức Thế Tôn chúng ta vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện ở đời. Đại sự đó là tri kiến Phật sẵn có của chúng sanh. Tri kiến Phật là có thể thấy thực tướng của các pháp. Vì chúng sanh mê mất chân tri kiến, chỉ nhận ngũ uẩn huyễn vọng làm thân tâm mà chẳng thấy tướng chân thật. Nếu thấy thực tướng thì ba cõi trên dưới, trọn không một pháp. Lại còn sanh tử nào có thể gá nữa? Như thế há chỉ tham thiền mới có thể thoát sanh tử còn trì kinh không thể thoát sanh tử sao? Như Nam Nhạc, Thiên Thai, các đại tông sư đều ngộ thực tướng. Nếu các pháp lữ đọc tụng kinh này có một người như ngài Thiên Thai ngộ nhập Pháp Hoa Tam Muội, thì một hội Linh Sơn này nghiễm nhiên chưa tan. Như thế thì người hộ trì đầy đủ hằng sa công đức chẳng thể nghĩ lường. Phật vì pháp này đời đời kiếp kiếp xả bỏ thân mạng. Thiền nhân nếu có thể bỏ một đời này, thành ích lợi lớn cho pháp, thì đâu có còn mong cầu Phật pháp nào bên ngoài nữa? Nay dù chẳng thể thoát sanh tử cũng nương pháp này làm thuyền bè, nguyện lực gìn giữ trong biển sanh tử thì ắt cũng có lúc đến được bờ kia, vẫn hơn sống rỗng chết lãng như trước kia. Thiền nhân đã tin lời lão nhân từ đây phát khởi sức nhẫn lớn, sức tinh tấn lớn, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai để thành đại hạnh của Phổ Hiền. Cần yếu chẳng được khởi tâm sanh diệt, lập cái thấy nhân ngã mà sanh ý lui sụt.

Dạy Thiền Nhân
Bổn-Nguyên Giác
Ở Ngưỡng Sơn – Tân An
       Bổn Nguyên Giác trùng hưng lại đạo tràng Ngưỡng Sơn hơn 30 năm, huyễn bày các thứ trang nghiêm đều tự tâm lực, tụng hai kinh Viên Giác, Phạm Hạnh cũng hơn 20 năm, gìn giữ tịnh hạnh tinh nghiêm, đều từ trong Bát Nhã đã huân tập từ trước. Nay làm lễ Khuông Sơn (Hám Sơn) cầu thọ đại giới, đốt hương thỉnh giảng đại nghĩa Viên Giác. Lão nhân do đó dạy:
       Phật nói các pháp trong ba cõi chỉ do tâm tạo, nghĩa là Viên Giác lưu xuất tất cả thanh tịnh chơn như, bồ đề, Niết Bàn và Ba-la-mật dạy dỗ Bồ Tát. Vì thế là đệ tử Phật, nếu đạt được pháp môn duy tâm thì tất cả nhân quả nhiễm tịnh đều hiện tiền, niệm niệm chuyển biến. Nên nói: “tâm tịnh cõi Phật tịnh”. Ngay như nhân duyên ở Ngưỡng Sơn, ngày xưa đều là núi đá cheo leo cỏ cây rậm rạp. Nay một sớm huyễn thành đạo tràng này như từ Trời rơi xuống, đều từ một niệm tối sơ, lòng tin bền chắc nên làm được Phật sự to lớn như thế. Lấy đây mà quán thì Tịnh Độ Tây Phương há từ ngoài tâm mà được? Lão nhân nay vì thiền nhân, truyền bảo giới Phạm Võng kim cương. Giới này gọi là pháp môn tâm địa của Phật Tỳ Lô Giá Na. Kinh nói: “Nếu thọ giới Phật, tức vào địa vị Phật”, thì biết một niệm tin tâm là mở tri kiến Phật, tất cả cõi Phật ứng niệm hiện tiền. Nên Tịnh Độ của chư Phật đều từ tâm địa kim cương mà kiến lập.
       Thiền nhân nếu quả có thể liễu tri pháp môn này, từ đây tiến tới, tất cả mọi việc hằng ngày rõ ràng liễu tri đều từ tự tâm lưu xuất, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm chẳng mờ, niệm đến động, tĩnh, không hai, thức ngủ như một, thì hiện tiền bước bước đều đạp trên Tịnh Độ, kinh hành trên đất báu. Ngay thân tâm này đã ngồi trong thai hoa sen, đến lúc mạng chung vừa bỏ thân này là hoa nở thấy Phật, như từ mộng thức dậy. Đến đây mới biết sanh tử như mộng, Tịnh Độ như huyễn, trong một niệm ở mãi chẳng lui sụt. Ngoài đây ra, lại còn có pháp nào vượt khỏi sanh tử nữa? Thiền nhân tu phạm hạnh đã lâu, mà chưa được nghe thiện tri thúc phá cho giấc mộng vọng tưởng từ trước. Nếu rõ pháp pháp do tâm, đâu cần cầu Phật pháp nào khác! Hãy nỗ lực. Trân trọng.

Dạy Trần Thiện Nhân
       Quận Sở Miện là nước văn hiến, nhưng thiện tri thức mang pháp môn qua đây giáo hóa rất hiếm. Thiền nhân Quán Trí dừng lại ở đây, đóng cửa 1 năm, tạm thời giáo hóa chúng. Vừa may Thiện Nhân là đệ tử tín tâm quy y cũ từ xa đến tham vấn Khuông Sơn Lão Nhân, cầu khai thị để bạch lại đại chúng. Lão nhân nhân đó dạy rằng:
       Nam nữ tại gia có thể giữ gìn 5 giới là chẳng giết hại, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu ăn thịt. Lúc Phật còn ở đời, họ thường ở trong pháp hội được gọi là ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, đây gọi là cận sự nam, cận sự nữ vì kham thân cận phụng sự Tam Bảo vậy. Tu tập tinh trì ngũ giới thì khỏi đọa 3 đường khổ, đó là phước của Trời, người. Nên nói: “Năm giới chẳng giữ thì đường Trời người dứt”. Nếu trì ngũ giới, quan trọng thứ nhất là tin rõ nhân quả, thiện ác báo ứng, như bóng theo hình, nghĩa là làm nhân lành được quả phước, nhất định sanh trong Trời, người. Nếu tạo nhân ác thì quả xấu, ắt đọa 3 đường khổ. Lại xem quan cao chức trọng ở đời, phú quý vinh hoa, hạng này chắc là do đời trước tu phước, cúng dường Tam Bảo, trai tăng, bố thí, in kinh, tạo tượng, sửa chùa, dựng tháp cứu giúp kẻ nghèo khổ nên chiêu cảm. Còn người sống lâu đông con, cha hiền con hiếu chồng xướng vợ theo, anh thương em kính, nhất định do không sát sanh mà phóng sanh, giữ trai giới mà được. Người ở tại nhà mà có thể giữ ngũ giới này tức đủ ngũ thường, nghĩa là bất sát là nhân, bất đạo là nghĩa, bất tà dâm là lễ, bất vọng ngữ là tín, bất ẩm tửu là trí. Nhà nho nếu được thế, là bậc quân tử thành tựu mỹ đức. Trì trai há là việc ngoài bổn phận ư? Trong đó có bậc thượng trí cao minh đã giữ giới này, lại nghĩ cuộc đời vô thường như đèn trước gió, sợ sanh tử, một lần mất thân này, muôn kiếp khó được. Như thế suy nghĩ nhớ khổ sanh tử mong cầu xa lìa, tâm đã tha thiết nên phát tâm trì niệm Phật A-Di-Đà, đem một câu Phật này để nằm lòng, tâm tâm chẳng dứt, niệm niệm chẳng quên, sớm tối lễ Phật tụng kinh, hồi hướng Tây Phương, cầu sanh Tịnh Độ. Nếu niệm Phật đến một niệm thuần thục, nhất tâm chẳng loạn, lúc sắp mạng chung thấy Phật A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn, đầu thai trong hoa sen, hoa sen là cha mẹ, đến lúc nở hoa thấy Phật, từ đây trọn ra khỏi khổ sanh tử luân hồi, thoát ngoài 3 cõi, gọi là Bồ Tát. Công phu niệm Phật này, xưa nay nam nữ tại gia hành trì, một đời làm xong, người sanh Tây Phương chẳng ít. Nên nói: “Chỉ có đường tắt tu hành là niệm Phật A-Di-Đà, ngoài đây cầu gì khác đều là tà kiến, tà hạnh. Thiền nhân trì như thế là chuyển hóa đồng loại, một người, một nhà, cho đến một làng, một quận thông suốt đều là nước Phật vậy. Nếu nguyện nỗ lực tu hành, chỉ cần lòng tin chân thiết, một lòng vâng làm, chẳng cần cầu Phật pháp huyền diệu nào khác.

Dạy Thanh Liên Sinh
       Lão Tử nói: “Ta có hoạn lớn vì ta có thân. Nếu ta không thân đâu có hoạn gì!”. Kinh Viên Giác nói: “Nay thân này của ta, do 4 đại hợp thành, nên quán trong thân: chất cứng ngại thuộc đất, ẩm ướt thuộc nước, hơi nóng thuộc lửa, động chuyển thuộc gió. Lúc tứ đại phân lìa, thân hư vọng này sẽ ở đâu? Như thế quán kỹ, tâm này lâu dần thuần thục, tướng của thân bỗng chợt thành không. Các thứ phiền não đều từ vọng tưởng điên đảo mà sanh, như mộng điên đảo xưa nay chẳng có. Nên lúc phiền não quán ngay tâm vọng tưởng này từ chỗ nào mà sanh? Truy mãi đến chỗ vốn vô sanh, thì vọng tưởng chẳng sanh. Vọng tưởng chẳng sanh thì phiền não không, thân tâm liền không, thì tất cả phiền não ngay đó tiêu diệt. Ứng niệm liền vào nước Cực Lạc mát mẻ. Quán cho miên mật chính là thuốc hay để thoát khổ. Nhưng sơ tâm chưa phải dễ thành. Chỉ đem “Phật A-Di-Đà” xét làm thoại đầu chân thật, tha thiết chẳng quên. Nếu lúc vọng tưởng khởi, liền đề khởi thoại đầu thì vọng tưởng tự diệt. Vì bình thường không có chánh niệm, chuyên chạy theo vọng tưởng lưu chuyển, phan duyên chẳng dừng làm thêm khổ. Tất cả các pháp đều từ tâm sanh, ngoài tâm không pháp. Nếu không quán tâm mà cầu đường thoát khổ cũng giống như bỏ nước đi mà cầu tiến tới trước. Chỉ cần phát tâm dũng mãnh, không được nói là “không thể làm được”, nói thế là tự gây họa.

Dạy Ngô Khải Cao
       Khải Cao quy y Tam Bảo đã lâu, giữ tâm trai cả năm, nay đến Khuông Sơn cầu thọ giới pháp, làm đệ tử của pháp môn để kết duyên xuất thế đời sau. Nhân đó tôi đặt tên là Phước Thường, hiệu là Định Tâm Cư Sĩ, và truyền cho giới ưu-bà-tắc; ông lại đốt hương thỉnh ích. Lão nhân nhân đó dạy rằng:
       Tất cả thế gian, đủ mọi nghề nghiệp đều là vô thường, đều là nhân khổ, nên cảm sanh quốc độ ta bà. Chúng sanh tụ họp gọi là kham nhẫn. Người ngu mê cho khổ là vui, càng thêm tham ái, lại tăng gốc khổ. Chẳng biết cái cốt yếu ra khỏi khổ là vì điên đảo. Nên người ở đời nếu có một niệm biết là vô thường, khổ, không, phát tâm cầu xa lìa tức là người đại trí tuệ. Nếu có một niệm phản tỉnh, phát khởi tâm ghét khổ liền là đường thoát khổ. Nếu có một niệm mong cầu sanh Tịnh Độ tức là gốc thành Phật. Do đó Phật nói giới pháp dạy người dừng ác tu thiện; vì ác dừng thì tâm tịnh, tu thiện thì khổ diệt, khổ diệt thì phước tăng. Tâm tịnh là nhân của Tịnh Độ, khổ diệt là gốc của Cực Lạc, phước tăng là quả của thường lạc. Như vậy biết một niệm phát khởi tâm thọ giới là có thể đoạn các khổ; có thể nhóm các phước, có thể ra khỏi sanh tử, có thể sanh Tịnh Độ, tất cả đều từ một niệm phát tâm tối sơ làm nhân địa. Cư sĩ hôm nay đã có thể biết việc này, phát tâm này, nên hễ làm việc gì tức là hạnh xuất thế; tuy chưa xuất thế đã gọi là Phật tử. Từ nay nếu quả đem tâm trì giới niệm Phật, trừ sạch những cấu nhiễm xưa ở trong tâm: tham, sân, si, ái, các thứ phiền não thì tâm địa thanh tịnh. Đem tâm tịnh này niệm Phật, niệm niệm chẳng quên, niệm niệm chẳng dứt tức nhật dụng hiện tiền, sự sự đều là nhân Tịnh Độ. Nghĩa là bố thí các thứ tứ sự cúng dường Tam Bảo đều là vốn liếng trang nghiêm tịnh độ. Chỗ nói “tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”, duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà” nguyên chẳng lìa một niệm của đương nhân. Đó là pháp hạnh chơn thật. Nghĩa là “phước chân thường từ trong tâm tịnh” vậy.
       Cư sĩ quả có thể tin chắc không nghi đâu cần cầu Phật pháp khác. Chỉ chẳng được làm việc thế gian tầm thường. Xem đó thì đạo niệm tự bền chắc, tín tâm ngày càng tăng trưởng. Trân trọng, trân trọng.

Dạy Thiền Nhân Vô Tri Giám
       Người xuất gia, trước phải cần thiết xuất gia cắt ái từ thân, vốn vì cầu ra khỏi sanh tử. Nếu vì việc lớn sanh tử, cần biết tất cả các pháp thế gian đều là gốc khổ, thân là nơi chứa nhóm sự khổ. Cần phải phát tâm tu hành, cầu đạo thoát khổ. Trước phải thấy cho ra tâm cảnh giới hiện tại, hãy quán thân này là đất nước gió lửa, tứ đại giả hợp thành hình. Tứ đại rời ra thì thân hư vọng này sẽ ở đâu? Nhìn cho ra như thế thì chẳng vì thân này mưu cầu các thứ vui thích thụ hưởng, kế đến phải nhìn ra hiện tiền, sự thấy nghe hiểu biết toàn do vọng tưởng, đều chẳng phải chơn tâm. Vị vọng tâm này tạo các thứ nghiệp, không gì chẳng phải tội. Tức một niệm này liền là gốc khổ sanh tử, cần phải không theo vọng tưởng lưu chuyển. Hằng ngày thầm thầm quán sát chỗ vọng tưởng khởi, cốt phải xem cho thấu ngay đó tiêu diệt, không được tiếp tục theo nó, phan duyên đi mãi mà chẳng trở về. Nếu quán sát chẳng định, lúc không có lỗ mũi, chỉ đem một câu A-Di-Đà làm thoại đầu, khẩn khẩn ôm chắc, niệm niệm chẳng quên. Có thoại đầu này làm chủ. Nếu thấy chỗ vọng tưởng khởi thì đề khởi Phật lên. Đó là chánh niệm hiện tiền thì vọng niệm chẳng đợi đuổi mà tự tiêu. Như thế trong 12 thời thầm thầm dụng tâm. Chỉ một niệm này làm chủ, kỳ dư tất cả vọng tưởng đều là khách. Khách chủ nếu phân, lâu dần thuần thục thì vọng tưởng tự tiêu, chân tâm tự hiện.
       Thiền nhân nếu quả có chí vì việc lớn sanh tử, chỉ lấy một niệm này làm chơn thật. Ngoài ra các thứ khéo léo ở thế gian; làm thơ, viết chữ, cho đến phan duyên, giao du, phóng lãng đều là việc điên đảo si mê. Nếu chẳng mộ thực hành, chuyên làm việc rỗng, tạm buông thả theo lục tình, nói đùa không căn cứ, mất hết ngày giờ, chẳng những sống rỗng chết uổng, còn e ác nghiệp khó trốn, ngàn đời trăm kiếp không có lúc ló đầu.

Dạy Từ - Thanh - Chi
       Phật thuyết các pháp thượng, hạ trong 3 cõi chỉ do một tâm tạo, nói 3 cõi thượng là Tứ Thánh xuất thế: Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Ba cõi hạ là phàm phu trong 6 đường: 3 đường lành Thiên, nhân A-tu-la; 3 đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tức là nhân quả thiện ác trong mười pháp giới. Y báo, chánh báo trang nghiêm đều do một tâm tạo. Nhưng một tâm này không phải gì khác mà là tâm phân biệt liễu tri nhật dụng hiện tiền của chúng ta. Đã là do tâm, chẳng phải thứ lớp, mà là hiện tiền chỗ dùng hằng ngày, niệm niệm tạo nghiệp ở trong 10 pháp giới lưu chuyển. Nếu một niệm do tham sân si tạo mười điều ác: thân 3, miệng 4, ý 3, thì thành nhân của 3 đường khổ. Nếu một niệm chuyển thập ác thành thập thiện thì làm nhân diệu lạc cõi Trời người. Nếu một niệm thiện ác đều quên: trong không thấy có mình, ngoài chẳng thấy có người, một tâm tịch tĩnh, là nhân thoát khổ của Thanh Văn. Nếu quán trước mắt khổ vui, nghịch thuận, do nhân duyên sanh diệt, trôi lăn rồi diệt thì thành nhân Duyên Giác. Nếu một niệm rõ biết nhân pháp vô ngã, nhân duyên tánh không, không có người làm và chịu, mà chẳng ngại hiện hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, hành lục đạo hóa độ chúng sanh là nhân của Bồ Tát. Nếu một niệm đốn ngộ tự tâm xưa nay quang minh quảng đại, bao dung khắp cả, tế độ hoàn toàn trọn không một pháp đương tình; chúng sanh và Phật bình đẳng tức là nhân thành Phật. Nên một tâm này rộng lớn không gì ngoài, xưa nay thanh tịnh viên mãn quang minh. Nếu nhật duyên niệm ngộ được, thì duy ở trong trần lao mà là người xuất thế. Do đó Duy Ma gọi đây là pháp môn bất nhị. Cư sĩ nếu có thể theo đây mà hành thì tất cả ân oán, thị phi, nhân ngã, các tình căn phiền não, ứng niệm hóa thành quang minh tạng. Hằng ngày thử lấy đây xem xét tất cả cảnh giới, niệm niệm giác sát, nếu chẳng thể an nhẫn, bị phiền não chướng ngại thì vừa thấy chỗ khởi hãy đem một câu “bản lai vô nhất vật” của Lục Tổ đề khởi, như bảo kiếm Kim Cương Vương thì tất cả phiền não ngay đó băng tiêu, thân tâm trở thành hồ thanh lương. Như thế ra sức thực hành. Nếu có tinh tấn chẳng lùi sụt thì chóng chứng đại giải thoát. Lại còn cầu Phật pháp nào ngoài đây nữa?

Dạy Thiền Nhân
Nhược - Đàm Thành
       Thiền nhân Thành, cùng những vị đồng chí ở Đông Thiền, Kim Sa kết Thanh Liên Xã để trì tụng kinh Pháp Hoa làm sự nghiệp. Phàm người nhập vào Xã trước hết phải thuộc lòng kinh này, nếu thuộc lòng được mới cho gia nhập. Chưa được vài năm, người có thể trì chừng vài mươi người, đi ở bất nhất, chỉ có Thiền nhân nhất quyết chẳng dời, toan lấy đây thực hành suốt đời, thỉnh ích Lão nhân, nhân đó dạy rằng:
       Kinh này do đức Phật Thích Ca, thấy chúng ta riêng vì khai thị tri kiến Phật của chúng sanh, là hạt giống chân thật thành Phật. Nên thuật lại nhân cũ ở thời Phật Đại-Thông, Trí-Thắng, vì 16 vương tử được nghe kinh này, lần lượt truyền nhau trì tụng. Hễ người từng theo nghe, ắt đời đời kiếp kiếp cùng sống một nơi, trì kinh này làm hạnh. Xưa người được giáo hóa thẳng đến đời này ở trên hội Linh Sơn, mỗi mỗi được thọ ký thành Phật. Chính kinh này là hạt giống chân thật, là chính nhân thành Phật. Nên nói rõ pháp sư trì kinh thì 6 căn hiện đời do cha mẹ sanh đều được thanh tịnh, như kinh xác minh đầy đủ. Chính kim khẩu của đức Phật tuyên bày, chẳng phải lời hư dối. Từ khi vào Trung Quốc, kinh này được nhiều người thọ trì. Riêng đại thiền sư Nam Nhạc Huệ Tư sở ngộ rất tinh thâm và Đại Sư Trí Giả ở Thiên Thai, tụng đọc kinh này bèn thấy hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan. Đại Sư Tư nói: “Pháp Hoa Tam-muội này chẳng phải là ông thì không chứng được, không phải là ta thì không biết được”. Nên Thiên Thai nhân đó kiến lập diệu môn Chỉ Quán, phát minh yếu chỉ Bách Giới Thiên như thực tướng. Về sau người nương theo Chỉ Quán mà ngộ sáng nhất tâm như Vĩnh Gia trở xuống chẳng phải chỉ một người. Thì biết kinh này là diệu hạnh thành Phật đã rõ. Duy có Lục tổ nói: “Tâm mê Pháp Hoa chuyển, tâm ngộ chuyển Pháp Hoa”. Đây lại dạy trì kinh này là đệ nhất nghĩa môn. Thiền nhân nay trì kinh này thử hướng lúc chưa mở cuốn kinh ra, mở bừng con mắt chánh trên đảnh môn chiếu phá vô minh, thực tướng của các pháp, chạm đến rỗng suốt thì thấy sắc nghe tiếng trước mắt hiện chứng. Thường chuyển một quyển chân kinh như thế, chóng đem hạt giống phiền não yêu ghét nhiều kiếp đến nay trong ruộng bát thức hóa hết thành quang-minh-tạng. Thọ trì như thế là chân tinh tấn, là rõ được pháp cúng dường Như Lai chơn thật. Nếu cứ cho giấy mực văn lời là diệu pháp, cho thực hành theo số chữ là trì kinh mà tâm địa chưa sạch, phiền não chưa không, như thế đâu khác gì lấy nước ao làm ma-ni, nấu cát cho là cơm, như thế thì da trâu chưa lủng, há toan che mắt mà thôi sao?

Dạy Thiền Nhân
Quán - Trí Vân
       Người học đạo lấy lời thề coi tâm như đã chết, làm đệ nhất nghĩa thoát sanh tử, lấy buông bỏ làm yếu chỉ nhập đạo. Cổ nhân nói: “Chí nên quy nhất, lâu ngày chẳng lui sụt, sẽ có ngày biết chỗ quay về diệu đạo”. Núi Ngũ Nhũ này là chỗ quy chân của Lão nhân. Thiền nhân có tâm quy y lão nhân đã nửa đời người. Nay may có đất cắm dùi này, chính là chỗ các ông buông bỏ thân mạng. Sống thì đồng tu, chết thì đồng về. Ông nên buông bỏ các duyên, nhất tâm tịch tỉnh. Ở đây nhóm họp hai, ba người đồng chí, người già chuyên tâm niệm Phật, tịnh tu tịnh nghiệp, thề chết làm hạn kỳ thì đạo pháp thường còn, huệ mạng chẳng dứt, thì chẳng phụ cái niệm quy y.
       Chợt nhớ Tô Lạc Thiên Công của ông với Lão Nhân có tình bè bạn 3 đời. Nên tự lấy nghĩa làm chất liệu, tuyệt không 2 niệm. Nếu còn niệm khác thì chẳng phải là người chơn thật vì sanh tử. Phàm ở đời thường cốt yếu lấy pháp làm bản hoài, nắm giềng mối của tòng lâm, điều hòa đại chúng trong ngoài một thể, khách chủ một lòng, quên hết nhân ngã, chặn dứt thị phi, rõ được phiền não vốn không, liền là được ra khỏi sanh tử. Tức tâm địa nay thanh hương liền là yếu môn Tịnh Độ. Ông nên cố gắng! Cố gắng!

Dạy Thiền Nhân
Ngưng Súc Không
       Sự tu hành của Phật Tổ cốt yếu chỉ có 2 môn Thiền, Tịnh, kiêm dùng vạn hạnh trang nghiêm. Đó là con đường tu hành chánh yếu. Trong số người đến học, người tham thiền phần nhiều bị tà sư lầm lẫn dẫn vào rừng rậm tà kiến, đọa vào ma ngã mạn, tăng hột giống ngoại đạo. Thật rất đáng lo. Huống nữa trong mười người không được một người đến chỗ giải thoát. Như thế chẳng những tự lầm mà còn làm lầm người khác. Không đáng sợ sao? Thế nên Lão nhân cực lực chủ trương chân tu tịnh độ. Người đời chẳng biết đều khinh thị là tầm thường, chẳng biết cái diệu của niệm Phật, nên phần nhiều lầm lẫn vậy. Vả lại, niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp khác nhau. Tức lúc niệm Phật trước hết phải đem tất cả phiền não vọng tưởng, tham sân si ái, các thứ niệm tạp loạn nhất tề buông xuống. Buông đến chỗ không thể buông, từ từ đề lên một tiếng A-Di-Đà Phật, rõ ràng phân minh, trong tâm chẳng dứt, như chĩ xâu hạt châu, lại như tên tên chống nhau, khoảng giữa không có một chỗ hở cỏn con nào. Như thế ra sức, dựa cho chắc. Bất cứ lúc nào cũng chẳng bị cảnh duyên lôi đi làm quên mất. Nhật dụng như thế ở trong động chẳng tạp, chẳng loạn, thức ngủ như một. Dụng tâm như vậy niệm đến lúc lâm chung, nhất tâm bất loạn, chính là thời tiết siêu sanh tử, vãng sanh Tịnh Độ. Nếu chỉ miệng nói niệm Phật, tâm địa chẳng trong sạch, vọng tưởng chẳng trừ rồi cho niệm Phật không linh nghiệm, như thế dù cho đến ba kiếp sáu mươi đời cũng không bao giờ ló đầu nổi. Ông hãy cố gắng.

Trả Lời Đức Vương
       Thế theo lời đại vương sai sứ giả đến phỏng vấn sơn tăng về pháp môn tu hành thẳng tắt: “Hỏi rằng Vương đã năng giữ giới chẳng sát sanh, ăn chay 3 năm, chỉ nghĩ đến việc cuối cùng gấp gáp, có pháp nào tu trì để lúc lâm chung được an vui, đời sau chẳng mê”.
       Đây thật là Đại vương nhiều đời trước đã huân tập gốc Bát Nhã sâu. Nay được địa vị giàu sang phú quý mà một niệm bổn lai chẳng mê mờ, tha thiết tham cầu pháp yếu. Sơn tăng ngu dốt, mạo muội lấy lòng thành thực mà trả lời. Đức Phật thuyết pháp độ người như dùng thuốc tùy bệnh, phương tiện có nhiều cửa, chẳng phải một. Từ khi kinh điển đến đất này, xưa nay nương theo tu hành có 2 môn thiền và giáo, mọi người cùng noi. Thiền thì chư Tổ truyền đăng, quý ở chỗ liễu ngộ tự tâm. Sự hạ thủ công phu là tâm chỉ đưa thoại đầu lên tham cứu một mạch đến khi thấy rõ tự tâm mới thôi. Đây chỉ dành cho người thượng thượng căn, nhất siêu trực nhập, lại phải có thiện tri thức luôn luôn hỗ trợ nhắc nhỏm mới được vào đường chánh. Các bậc vương thần xưa cũng có người hành được, nhưng chẳng thấy nhiều, là vì người xuất gia dễ thực hành hơn. Nay bậc đại vương tôn ở chỗ sâu kín đáo, chẳng dễ tiếp kiến thiện tri thức, nên chẳng dám khuyên tiến tu theo lối này. Còn theo kinh giáo tu hành thì xưa có Thiên Thai Trí Giả bày môn chỉ quán Tiểu Thừa và Đại Thừa, là yếu môn thành Phật. Đại chỉ quán thì văn nhiều, khó lý hội, còn tiểu chỉ quán tuy giản dị, thực ra muốn giải thích cho minh bạch, để hạ thủ an tâm cũng chẳng phải dễ vào, nghĩa là siêng tri, siêng hành cũng khó được gần gũi. Hàng ngày đối với những cảnh giới nghịch thuận hiện tiền, áp dụng nhiều còn chẳng tiến nổi, huống việc lớn sau cùng. Pháp này cũng chẳng phải chỗ Đại Vương dễ làm, cũng chẳng dám đề nghị. Nay chỉ có một môn Phật thuyết Tây Phương Tịnh Độ chuyên lấy một việc niệm Phật làm trọng yếu, lấy quán tưởng cảnh Tịnh làm chính hạnh, lấy tụng kinh Đại Thừa làm dẫn phát, lấy phát nguyện làm thú hướng, lấy bố thí làm phước điền trang nghiêm. Đây thực là cổ kim cùng noi theo, chẳng kể quý tiện, trí ngu đều có thể chân thật hạ công phu. Nên vạn người tu hành, vạn người hiệu nghiệm. Mong Đại Vương lưu ý điều này. Cẩn thận dụng quy tắc nhật dụng, điều lệ như sau:
       Đức Phật chúng ta vì cứu các khổ của chúng sanh trong thế giới Ta-Bà, chuyên nói pháp môn Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc. Chỉ chuyên dùng niệm Phật A-Di-Đà, phát nguyện vãng sanh. Có một quyển kinh Di-Đà chứng minh, trong kinh này nói toàn sự thực về cảnh giới quốc độ rất là minh bạch, đầy đủ chi tiết về phương pháp tu hành. Như phép tắc công khóa của nhà chùa chẳng cần bó buộc theo, chỉ lấy niệm Phật làm chủ yếu. Mỗi ngày sáng sớm dậy lễ Phật tụng một quyển kinh Di-Đà hoặc một quyển kinh Kim Cang, rồi trì, lần chuỗi niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, hoặc năm ba ngàn tiếng hoặc một vạn tiếng. Xong rồi thì đến trước Phật hồi hướng, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc, lời ở trong kinh công khóa. Đây là công khóa buổi sáng, chiều cũng như thế. Hàng ngày cứ thế làm thời khóa nhất định, chắc chắn không thể thiếu. Pháp này dạy cho quyến thuộc trong cung đúng như pháp cùng tu càng tốt. Đây chính là chỗ thực hành của Thánh Tông Nhân Hiếu Thánh Mẫu, dạy pháp trong cung vi. Người đến nay chẳng bỏ phế, đó là thường hành vậy. Còn về việc lớn cuối cùng thì công phu càng cần thân thiết, mỗi ngày trừ hai thời công khóa ra, trong 12 thời, riêng đem một tiếng A-Di-Đà đặt vào lòng, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm chẳng mờ, tất cả việc đời đều chẳng suy nghĩ. Chỉ đem một câu niệm Phật làm mạng căn của chính mình, cắn chặt hàm răng quyết không buông xả, cho đến ăn cơm, đi, ở; đi đứng nằm ngồi, một tiếng Phật này lúc nào cũng hiện tiền. Khi gặp cảnh giới nghịch thuận, vui giận, phiền não lúc tâm chẳng an, liền đem một tiếng Phật này đề khởi một phát, tức thấy phiền não ngày đó tiêu diệt. Vì niệm niệm phiền não là gốc khổ sanh tử, nay lấy niệm Phật tiêu diệt phiền não, liền là Phật độ chỗ khổ sanh tử. Nếu niệm Phật tiêu được phiền não thì có thể thoát được sanh tử, lại không có pháp khác. Nếu niệm Phật, niệm đến lúc làm chủ được phiền não thì ở trong giấc mộng làm chủ được. Nếu ở giấc chiêm bao làm chủ được thì trong bịnh khổ làm chủ được. Nếu trong bịnh khổ làm chủ được thì lúc lâm chung phân minh rõ rệt, biết được chỗ đi vậy. Việc này chẳng khó hành, chỉ cốt lấy một niệm tâm vì sanh tử tha thiết, từ từ dựa chắc một tiếng Phật, lại chẳng tìm tòi suy nghĩ gì khác, lâu dần thuần thục, tự nhiên được đại an lạc tự tại, được đại hoan hỷ thọ dụng. Riêng chẳng phải cái vui ngũ dục thế gian có thể so sánh. Đại vương chỉ cần lưu ý pháp này, đúng là chân thật tu hành, ngoài ra lại không có việc nào thẳng tắt khoẻ hơn nữa. Cần chớ nghe tà kiến, tà thuyết mà nghi hoặc. Còn nếu đại vương muốn biết hướng đi lúc cuối cùng thì có thêm một diệu pháp, xin vì Ngài mà nói. Pháp này ở lại trong tâm Niệm Phật. Giờ giờ thầm thầm quán tưởng, tưởng trước mắt sanh ra một hoa sen lớn, chẳng kể xanh vàng, đỏ, trắng, hình giống bánh xe lớn. Quán tưởng hình dáng hoa rõ ràng, rồi tưởng tự thân ngồi ở giữa hoa, trên nhụy của đài, ngay ngắn chẳng động, tưởng Phật phóng ánh sáng đến chiếu thân mình. Lúc tưởng như thế, chẳng nệ đi đứng ngồi nằm, cũng chẳng kể năm, tháng, ngày, giờ, chỉ cốt quán cảnh phân minh, mở mắt, nhắm mắt, rõ rệt chẳng mờ. Cho đến trong mộng cũng thấy Phật A-Di-Đà cùng Quan Âm, Thế Chí, cùng ở trong hoa, thấy rõ như ban ngày. Nếu sự tưởng hoa này thành tựu, tức là thời tiết thoát sanh tử, thẳng đến lúc lâm chung, hoa này hiện ra trước, tự thấy thân mình ngồi trong hoa sen, rồi có Di Đà, Quan Âm, Thế Chí đồng tiếp dẫn, trong khoảng một niệm được vãng sanh thế giới Cực Lạc Tây Phương, ở địa vị bất thối chuyển, mãi mãi không còn chịu khổ sanh tử nữa. Đây là sự hiệu nghiệm thực sự của việc tu hành chân thật một đời lo xong. Chỉ pháp môn này chẳng phải do tăng mà nói trong kinh Phật chỗ chỗ đều khai mở, dẫn dắt pháp môn thẳng tắt tu hành, nếu mong phút cuối cùng sáng suốt ngoài ra không có pháp nào minh bạch hơn nữa. Nếu sợ tật bịnh muốn học điều tức, vận khí cầu hết bịnh. Đây chẳng phải pháp hay. Nếu khí chẳng khéo vận, ngược lại sẽ mắc bịnh lớn, đến nỗi không thể trị được. Dù gì đi nữa chẳng thể ngờ vực điều này. Chỉ là một pháp môn niệm Phật vào được thân thiết, kỳ dư chẳng cần lưu tâm. Mong đại vương thành thực tin chắc, chớ nên hoài nghi.
       Lại,
       Ngày 27 tháng Giêng, tăng Uẩn Chân vâng lệnh chỉ của Đại Vương, đem duệ ngữ của Ngài xuống hỏi. Sơn tăng cúi đọc hai, ba phen, đủ thấy Đại Vương thể cứu việc lớn sanh tử, muốn rõ cội gốc tánh mạng, liễu đạt chỉ thú Thiền giáo của Phật Tổ. Sơn tăng ngu muội, chẳng dám vọng bàn. Kính cẩn noi theo kinh điển, mỗi mỗi việc Ngài hỏi xin đối đáp rõ ràng, trình bày như sau: Cúi xin duệ lãm.
       Hỏi:
       Đạo Tam Thừa là nguồn của tính mệnh, thuyết của giáo thiền. Đạo của Đạt Ma, sao nói không một chữ, tâm địa chỗ nào dụng công? Rốt cùng đời người làm sao đạt được? Lại nói: “Có Phật không Phật, đầu đuôi thế nào? Lại nói: “Trong lúc tĩnh, không ngã, không nhân, giống như thái hư, cứu kính thế nào? Ngài có thể đem ngôn ngữ Thượng, Trung, Hạ thừa, niệm độ sanh của Phật Tổ, mổ xẻ giải thích tường tận từng điều. Đó là chỗ tôi mong được nghe.
       Đáp:
       Tông Chỉ Phật giáo chỉ lấy nhất tâm làm tông. Nguyên tâm này, xưa nay viên mãn, quang minh quảng đại, trọn không mảy bụi, thanh tịnh không một vật. Trong đây vốn không có mê ngộ, sanh tử thánh phàm chẳng lập, chúng sanh và Phật đồng thể không hai, không khác. Đây chính là Tổ Đạt Ma từ ấn Độ sang, chỉ thẳng chơn tâm sẵn có này, lấy làm thiền tông. Nên Tổ đáp Vũ Đế rằng: “Rỗng rang không Thánh”. Nếu có thể đốn ngộ tâm này, thì sanh tử dứt hẳn. Chỉ tại chính đương nhân một niệm đốn ngộ, tức gọi là Phật như như, chẳng thuộc tu chứng từng bực, chẳng thuộc thứ lớp tam thừa. Thiền Tông này được xem là một đường hướng thượng. Chư Tổ từ trước truyền trao là chỉ tâm này cho là cùng cực của Tông. Đó gọi là Thiền. Tông này chẳng lập văn tự, chỉ quý minh tâm kiến tánh. Còn công phu tu tiến thì lúc đầu Đạt Ma dạy Nhị Tổ, hỏi rằng: “Ông làm gì?” Nhị Tổ nói: “Xin Thầy an tâm cho con”. Đạt Ma đáp: “Đem tâm lại, ta an cho”. Nhị Tổ thưa: “Tìm tâm trọn chẳng thể được”. Đạt Ma liền ấn chính cho và bảo: “Đã an tâm cho ông xong”. Tâm này chẳng thể được một lời. Đó là ý chỉ Tây lai. Nhị Tổ lại hỏi: “Há không có phương tiện?” Đạt Ma đáp: “Ông chỉ ngoài dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng, tâm như tường vách, có thể vào đạo”. Đây là dạy công phu đầu tiên để tham thiền. Đạo của Đạt Ma chỉ như thế mà thôi. Trừ tâm này ra lại không có pháp khác. Về sau thiền đạo lâu ngày, người học chẳng thể đốn ngộ. Nên có thuyết tham thiền đề thoại đầu này chẳng chẳng kể là ai tùy đem một tắc công án của cổ nhân chứa trong lòng làm thoại đầu, hạ nghi tình thì không có một chữ tức là công án, ngay chỗ nghi này liền là tham cứu, tham qua tham lại, lâu dần hốt nhiên tâm địa khai mở, như tỉnh giấc mộng lớn, tức gọi là ngộ. Vì tham cứu là dụng công phu, chính lúc tham, trong tâm một niệm chẳng sanh, trọn không một vật, nên nói không ngã, không nhân, giống như thái hư, chỗ ngộ liền là cứu cánh (hạ lạc). Đã liễu ngộ được tự tâm, thì tình căn sanh tử bao nhiêu kiếp nhất tề đốn dứt. Đã ngộ tâm này, còn nói Phật và chúng sanh nào nữa? Nên từ đây đã vượt ba cõi, qua lại tùy ý độ sanh, dứt hẳn các khổ, chẳng bị sanh tử nắm giữ, gọi là Bồ Tát. Đây liền là tham thiền rốt ráo, tính mạng từ đây rõ hết. Nếu không ngộ tâm này thì bị nghiệp thiện ác một đời lôi kéo, luân chuyển lục đạo trong các đường khổ, cuối cùng không chỗ hạ lạc. Chỗ nói biển khổ sanh tử, không có bờ kia chính là đây vậy.
       Còn hỏi đạo Tam Thừa tức là pháp môn phương tiện quyền xảo của chư Phật, vì độ chúng sanh nên tùy cơ lập bày. Một đại tạng kinh đều là ý này. Nguyên là pháp nhất tâm, chúng sanh và Phật đồng một thể, vốn không có thân tâm. Bởi nhân một niệm vọng động tối sơ, mê mất tâm này, bèn kết thành thân tâm huyễn vọng. Nghĩa là thân máu thịt của mỗi người hiện giờ gọi là sắc thân, cái tri giác suy nghĩ hiện nay là vọng tưởng, tâm kinh gọi là ngũ uẩn. Ngũ uẩn tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhục thân tức sắc uẩn, tâm tức 4 uẩn: thọ, tưởng, hành, thức. Do thân tâm biết khổ vui… vv… là thọ phân biệt, tham cầu, niệm niệm chẳng dứt là tưởng; tưởng này tiếp tục chẳng dứt là hành. Ba thứ này tức là tâm tri giác suy nghĩ. Còn thức là mạng căn. Ban đầu lúc chưa mê thì chỉ gọi là tánh. Chân tâm đã bị mê mờ nên có thân tâm huyễn vọng này, thức gìn giữ liên tục thân này nên gọi là mạng. Tánh này là khởi nguyên của mạng vậy. Đức Phật lúc mới xuất thế chỉ dạy người liễu ngộ tâm này mà thôi. Vì tâm bị mê mờ đã lâu chẳng thể liễu ngộ nên Phật bày phương tiện, trước dạy người biết thân này là gốc khổ. Khổ này do tham, sân, si, ái, phiền não nhóm họp mà sanh, vì thế muốn người trước hết đoạn phiền não để có thể ra khỏi khổ này. Người trung, hạ căn y theo đây tu hành, dứt hết phiền não, quả nhiên được ra khỏi khổ sanh tử. Đây gọi là Thanh Văn, Duyên Giác, là Hạ-Trung Nhị Thừa, vì họ chỉ có thể tự độ, chẳng thể độ người, chẳng biết ý chỉ đồng một thể, chỉ được một nửa nên gọi tiểu thừa. Còn có chúng sanh tâm rộng lớn, đã có thể tự độ, lại có thể độ người, tự lợi tự tha, rộng tu lục độ nghĩa là hay bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; có sáu hạnh này thì tâm quảng đại, đó là Bồ Tát, nên gọi là Đại thừa, cũng nói là Thượng Thừa. Hai pháp thừa này, cả đại tạng kinh đều nói. Chỉ cần người liễu ngộ tâm này, cuối cùng hội quy về nhất tâm, tức gọi là Nhất thừa tối thượng. Đây gọi là Phật, là cực tắc của kinh. Pháp tu hành tam thừa rất nhiều, nói không hết nổi. Chỉ y một pháp tu hành, đều được ra khỏi khổ sanh tử, chẳng phải chỉ là một mối. Mọi thứ phương tiện, liễu ngộ được tâm này mới là chỗ hạ lạc cuối cùng. Chưa ngộ tâm này đều là ở trong biển sanh tử chuyển theo thiện ác; nếu làm lành thì sanh trong loài người hoặc lên Trời, nếu làm ác, quá tham, sân, si, ái thì đọa tam đồ, thọ khổ vô lượng. Pháp tam thừa này, nếu học theo trung-hạ-thừa mà tu, thì bây giờ đang một bề mến thân này, tham đắm, thụ hưởng, tâm vọng tưởng chẳng thể đoạn trừ nên không thể tu được. Nếu người học Thượng Thừa tu, tuy có thể bố thí trì giới, còn 4 hạnh sau chẳng thể hoàn toàn, cũng không thể ra khỏi sanh tử. Dù tu pháp lành, sanh lên cõi trời, phước hết lại đọa, như quay nước giếng trọn không có chỗ đặt chân; nếu cầu ngộ rõ tâm này có thể thoát khỏi sanh tử. Nhưng vì như nay, sự và pháp hiện tiền lẫn lộn; lại chẳng thể đem hết tâm tham cứu; dù tham cũng chẳng được thiện tri thức chân chính chỉ giáo, sợ dụng tâm lầm, ngược lại bị rơi vào tà đạo, như thế há chẳng uổng phí một đời, tuy muốn tìm chỗ đặt chân, rốt cuộc không chỗ đặt. Vì ở cõi trời hưởng phước chưa khỏi luân hồi nên Phật riêng bày phương tiện thẳng tắt. Một môn niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ thì một đời thành tựu. Lúc lâm chung nhất định có chỗ đặt chân. Nay đem pháp môn niệm Phật Tịnh Độ vì đại vương mà trình bày vậy.
       Còn hỏi pháp môn Tịnh Độ vì sao mà đặt ra? Là nhân Phật bày pháp Tam thừa, muốn người tu hành, chẳng phải một đời có thể thành tựu, sợ rơi vào biển khổ sanh tử, khó ra khỏi mau chóng. Còn muốn tham thiền, có thể một đời liễu ngộ, được thoát sanh tử thì lại nhân vì vọng tưởng lăng xăng, tập khí sâu dày, chẳng thể tham cứu. Nếu chưa ngộ sáng tâm này cũng chẳng khỏi luân hồi. Nên bày riêng một môn Tây Phương Tịnh Độ. Đây chẳng kể là Thượng, Trung và Hạ căn, cùng nghèo, giàu, quý, tiện nếu chịu theo đây mà tu, một đời có thể thành tựu. Nghĩa là duy có đường tắt tu hành niệm A-Di-Đà Phật, không có xao diệu gì nữa. Vì sao thế? Vì thế giới chúng ta hiện ở gọi là ta-bà, là chỗ cực khổ. Nghĩa là sinh khổ, lão khổ, bịnh khổ, chết khổ, cho đến cầu bất đắc khổ, oan gia tụ hội khổ, nói không thể hết. Tuy là vương hầu khanh tướng thọ hưởng phú quí, vui sướng đủ thứ cũng đều là nhân khổ. Vì ở đây cực khổ khó xa lìa được, nên nói Tây Phương Tịnh Độ gọi là Cực Lạc thế giới, vì trong cõi này chỉ hướng các thú vui nên gọi là Cực Lạc, vì cõi Phật kia tuyệt không dơ uế nên gọi là Tịnh độ. Không có đàn bà, hoa sen hóa sanh nên không có sanh khổ, thọ mạng vô cùng nên không có sanh khổ, thọ mạng vô cùng nên không có lão - tử khổ, cơm áo tự nhiên nên không có cầu bất khả đắc khổ các bậc thượng thiện nhân cùng ở một nơi, nên không có cái khổ oan gia tụ hội. Vì cõi nước đó 7 báu trang nghiêm nên không có ngói gạch, gai góc, đại tiểu tiện bất tịnh. Các thứ đều trong sạch, hoàn toàn không giống thế giới này. Tất cả chỗ nói trong kinh Di-Đà đều là sự thật. Nay mọi người cầu sanh nước kia, không có pháp nào khác, chỉ nhất tâm niệm Phật lấy làm chánh hạnh. Ngày ngày hồi hướng, lại tâm tưởng thân ngồi trong hoa sen, thì lúc mạng chung sẽ thấy Phật A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn; thấy hoa sen vọt hiện lên trước mặt, thấy chính thân mình ngồi trên hoa, một niệm vãng sanh liền sanh vào nước kia, từ đây liền chẳng đọa vào đường khổ sanh tử nữa. Gọi là Bồ Tát Bất Thối Địa. Đó là kết quả tu hành một đời, chỗ hạ lạc đời sau, như thế đã rõ ràng. Ngoài đây ra, nói lâm chung có cảnh giới nào khác đều là tà thuyết. Nếu chẳng niệm Phật đến lúc mạng chung, tùy tạo nghiệp ác, cảnh ác hiện tiền, hối hận đã muộn. Đây là pháp môn tu hành thẳng tắt dễ dàng nhất, là phương tiện đặc biệt do Phật bày ra để tiếp dẫn. Tu Tịnh Độ chẳng cần cầu ngộ sáng tâm tánh, chuyên lấy niệm Phật quán tưởng làm chánh hạnh, lại lấy bố thí trai tăng, tu các công đức phước điền để trợ giúp trang nghiêm Phật.
       Trong Tâm niệm Phật, tuy phát nguyện vãng sanh, nhưng tất yếu phải biết trước đoạn gốc sanh tử mới mau có hiệu quả. Thế nào là gốc rễ sanh tử? Đó là ngày nay tham đắm thế gian, đủ thứ thụ hưởng, với sắc đẹp, tiếng dâm, mùi vị khoái khẩu, tất cả đều là gốc khổ, cùng tất cả tâm sân giận phẫn hận, tâm chấp trước, si ái cùng tất cả tà ma ngoại đạo do tà sư thuyết. Pháp tà giáo là như ngày nay, có một loại người tà, vọng xưng giáo lý viên đốn của Đạt Ma v.v… vọng lập giáo lý Nam Dương Tịnh Không, vô vi, các kệ quy gia v.v… Tất cả đều là người tà cận đại, hướng trong hư không mà tác quái, loại ngôn ngữ này là pháp hoặc loạn người đời, đều cần phải tận tình mửa bỏ. Cho đến những thuyết tà luyện nội đan, ngoại đan, các thuật giữ lấy âm dương của phái Toàn Chân đều là pháp tà, đều chẳng đáng tin. Chỉ là một mình dốc lòng tin pháp môn niệm Phật, mỗi ngày tụng kinh A-Di-Đà hai quyển, niệm Phật chừng ấy, hoặc chẳng cần đếm số, chỉ là tâm tâm chẳng quên danh hiệu Phật, ngay đây liền là thoại đầu, chính là nguồn cội của tính mạng, chẳng cần hỏi thế nào là tánh mạng nữa. Mặt mũi xưa nay của chính mình cũng có thuyết ba hồn bảy vía nguyên thần, cái đó toàn là trên cái thân máu thịt, bàn tán vọng nhận, vọng chỉ, đều không chỗ hạ lạc. Nếu hỏi lúc sống ra làm sao, lúc chết rồi thế nào? Thì lúc sống tạo ác, chết rồi cảnh ác hiện tiền, lúc sống niệm Phật cầu về Tịnh Độ, chết rồi cảnh Phật Tịnh Độ hiện tiền, toại nguyện chỗ ta cầu. Đó là việc tốt. Nếu chẳng phải chỗ mình trong tâm cầu lành mà hiện ra thì đều là việc tà ma, quyết không được tin lầm, sẽ lầm đến trăm kiếp ngàn đời. Chỉ xem trong kinh Lăng Nghiêm thuyết rất rõ ràng. Nếu nói có tướng đều là vọng. Lời này là lời trong cửa tham thiền, chỉ riêng cầu chân tâm thanh tịnh chẳng dung một vật, nên nói có tướng đều vọng. Vì niệm Phật Tịnh Độ nguyên là tâm tưởng được thành tựu. Kinh nói: “Tưởng lắng đọng thành quốc độ”. Vì tham thiền cốt đoạn tâm vọng tưởng rất khó, nên nay đem tưởng thanh tịnh đổi tưởng ô nhiễm, hoa sen hiện tiền chính là quán tưởng thành tựu, sao lại cho là tướng vọng mà bỏ đi? Tu hành mỗi thứ có đường lối chẳng đồng, chẳng nên nói gồm chung làm một.
       Ở trên đã đáp, đều nương trong kinh giáo của Phật Tổ mỗi mỗi khảo chính, không phải nói dối. Nếu tham thiền thì lấy minh tâm kiến tánh làm chủ. Nếu niệm Phật một môn cầu sanh Tịnh Độ, bất tất phải minh tâm kiến tánh, chỉ riêng niệm Phật. Phật là Giác, nếu niệm niệm chẳng quên Phật thì niệm niệm minh giác. Tự tâm nếu quên mất Phật liền là bất giác. Nếu niệm đến trong mộng cũng có thể niệm, tức là thường giác chẳng mê. Hiện tại nếu tâm này chẳng mê thì lúc lâm chung tâm này cũng chẳng mê. Ngay chỗ tâm này không mê tức là “hạ lạc”. Hiền-vương như nay việc nước vạn thứ, quyết chẳng thể tham thiền, chỉ có niệm Phật là tốt nhất, chẳng kể nhàn rỗi, bận rộn, động hay tĩnh, tất cả chỗ đều niệm được. Chỉ là nhất tâm chẳng quên, lại không có pháp khéo léo nào khác. Còn biết trước là việc thần thông. Đây chẳng cần phải cầu. Lúc đương thời Phật chẳng cho học tập việc này. Nếu thành Phật rồi tự nhiên có thần thông, chẳng đợi cầu. Quỷ thần cũng biết trước, chẳng phải là người có thể học được. Cần thiết chẳng được nghĩ về những việc loại này. Nếu niệm Phật đến lúc mạng chung tự nhiên dự biết trước lúc đến cũng là tầm thường, do sức niệm thành tựu chẳng thể cưỡng được.
       Mấy điều trên đây, cúi xin Hiền-vương xem kỹ và lưu ý cho.

Không có nhận xét nào: