Sự Thật Về Giới Tăng Bảo Xưa Nay - Công Đức, Phước Báu Là Sự Dối Trá Ngọt Ngào (P. 3)
Một đoạn hỏi đáp giữa ngài Na Tiên tỳ kheo và vua Mi Lan Đà - Kinh Mi Tiên Vấn Đáp:
- Cái gì là cao thượng, thật sự cao thượng của người xuất gia, thưa đại đức?
- Thưa, khi người xuất gia không còn bị sinh lão bệnh tử của ngũ uẩn ma vương ấy chi phối nữa, vị ấy thân chứng một trạng thái quân bình tuyệt hảo, hạnh phúc tuyệt hảo, vượt lên trên tất cả hạnh phúc của trần thế, siêu việt ý niệm, ngữ ngôn, cái ấy giả danh gọi là Niết bàn; nơi không còn sanh tử, khổ đau và phiền não nữa! Đấy là sự cao thượng trên tất cả mọi sự cao thượng, tâu đại vương!
Đức vua rất hoan hỷ hỏi tiếp:
- Tất cả sa môn đều có nguyện vọng như thế sao?
- Tâu đại vương! Cứu cánh sa môn hạnh thì như thế, nhưng trong hàng Tăng lữ hiện có bảy hạng người xuất gia vì lý do khác nhau:
1. Có người xuất gia vì muốn trốn luật vua, phép nước.
2. Có người xuất gia là để được thân cận giới quyền quý cao sang.
3. Có người xuất gia là mong được quyền hành trong một ngôi chùa hay lãnh đạo Tăng lữ, đồ chúng.
4. Có người xuất gia vì thất nghiệp, muốn kiếm miếng cơm manh áo.
5. Có người xuất gia vì cô thế, cô thân, trốn kẻ thù nghịch.
6. Có người xuất gia vì mang công mắc nợ.
7. Có người xuất gia vì sợ sanh tử luân hồi, muốn chấm dứt khổ đau, phiền não.
Thấy đại đức Na-tiên trả lời đâu ra đó rất rõ ràng, minh bạch, lại tự nhiên như hít thở khí trời, vua Mi Lan Đà phục lắm, ướm hỏi:
- Vậy chắc chắn đại đức vì mục đích cao thượng của hạng người thứ bảy mà xuất gia làm sa môn?
Đại đức Na-tiên mỉm cười gật đầu:
- Thưa, không phải thế! Bần tăng rời khỏi gia đình lúc bảy tuổi, còn rất nhỏ thì nào biết gì! Sau dần lớn lên, nhờ Thầy tổ, nhờ các vị trưởng lão dày công giáo hóa, trí óc mới khơi mở được chút ít. Hiện giờ thì có thể nói rằng, bần tăng tu là cốt ý để diệt khổ, đấy không còn là lời nói dối nữa!
...
Đoạn kinh văn bên trên đã nói rõ về sự cao thượng của việc xuất gia. Đây là điều mà Tứ chúng học Phật rất nên ghi nhận và giới Tăng Ni xuất gia càng phải thấu cảm để xứng tánh hạnh.
Đoạn kinh văn còn nói đến một sự thật ở giới học Phật xuất gia trẻ tuổi, phần nhiều họ sẽ không hiểu biết đầy đủ về duyên phận xuất gia của chính mình. Có không ít chú tiểu, sa di sống ở chùa từ thơ bé là do gia đình ruồng bỏ, nhà nghèo khó không thể nuôi con, số khác thì bị cha mẹ bỏ rơi vì có thai ngoài ý muốn,...
Những người xuất gia theo lối này là do hoàn cảnh đẩy đưa, chí hướng xuất trần là hoàn toàn không có. Họ như lục bình trôi gặp thời đạo Phật hưng thịnh thì theo nước bồng bềnh trên cao, gặp cảnh đạo Phật suy tàn thì rũ rượi bên những mái chùa xiêu đổ, phát chán thì họ sẽ hoàn tục kiếm cơm nơi chợ đời.
Điều này cho thấy vai trò rất quan trọng, tuyệt đối quan trọng của vị thầy Tăng Bảo hướng đạo cho học Tăng. Nếu vị Tăng Bảo hướng đạo là minh sư sáng mắt thì lối đạo giác ngộ giải thoát ở học Tăng sẽ rộng mở thênh thang; Nếu vị Tăng Bảo hướng đạo là vị Tăng cơm áo hám danh, tham lợi thì sẽ khiến những vị học Tăng kế thừa sự lệch lạc chánh đạo, ngộ nhận về Phật pháp. Việc xuất gia với cốt ý diệt khổ, vượt thoát luân hồi khi ấy sẽ trở nên mông lung, thành điều huyền thoại. Và đây quả thật là hiện tướng của đạo Phật ngày nay.
...
Ở đoạn kinh văn trên còn trình bày về 7 hạng xuất gia khác nhau ở thời kỳ Phật giáo giai đoạn tượng hình.
Ngày nay, trong hàng ngũ Tăng lữ xuất gia có đến ít nhất 8 hạng xuất gia khác nhau.
Cụ thể là ngoài 7 hạng xuất gia được nêu ở Kinh Mi Tiên Vấn Đáp còn có một hạng xuất gia đặc biệt, đây là thành phần xuất gia nòng cốt có ở các Tổ chức Phật giáo chính quy như Giáo hội Phật Giáo, Hội Phật Giáo, các chùa chiền, tự viện trọng điểm,... Hạng xuất gia này là hạt giống đỏ của các nhà lãnh đạo đất nước.
Điển hình như ở Việt Nam, những hạt giống đỏ Tăng Bảo sẽ là những Đảng viên thấm nhuần lý tưởng Cộng Sản. Họ sẽ nằm vùng trong hàng ngũ Tăng Bảo và sẽ được đặc cách đảm nhiệm những chức vụ cao, những vị trí then chốt có vai trò lèo lái, định hướng sự phát triển của Tăng đoàn, của đạo Phật theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, ngày nay trong hàng ngũ Tăng đoàn sẽ có một lượng lớn Tăng Bảo là hạng xuất gia mượn đạo, tạo đời. Hạng Tăng Bảo này vì hám danh, tham lợi mà xuất gia. Hạng Tăng Bảo này xuất gia chỉ nhằm vào việc kiến tạo chùa to, Phật lớn, tiền của chất đầy, vinh thân, phì gia; Việc trau dồi trí tuệ giác ngộ giải thoát với họ là điều thứ yếu, không đáng quan tâm. Họ sống bằng niềm tin họ đang hộ trì Tam Bảo và lẽ dĩ nhiên công đức, phước báu sẽ tự đong đầy. Thậm chí có cả những vị Tăng Bảo không hề quan tâm công đức, phước báu; họ đang sống thật bằng vào lối sống thực dụng đang thời cực thịnh.
Bởi do đã từ lâu đại chúng học Phật cả Tăng lẫn tục hiểu sai giáo lý đạo Phật, lấy ngụy làm chân; Sự ngộ nhận của người học Phật đã tạo duyên cho việc tu phước bùng phát như nấm mọc sau mưa. Kết quả của việc gieo rắc si mê phước báu ở sự tu học của Tứ chúng học Phật đã làm vùi lấp trí tuệ của người học Phật, người học Phật ngày càng điên đảo, chìm đắm trong muôn điều mê tín, huyễn hoặc.
...
Và trước sự sa đọa hàng loạt ở giới Tăng Bảo ngày nay đã có rất nhiều người học Phật nhận ra được chân tướng của những vị Tăng Bảo vốn không phải là những người xuất gia học Phật thực thụ, những kẻ mượn đạo, tạo đời.
Từ đó, trong lòng của những người học Phật chân chính dấy lên nỗi bi thương khi cho rằng ngoại đạo đã xâm thực đạo Phật và rồi đạo Phật sẽ bị hủy diệt.
Mai này, đạo Phật còn đâu nữa những bậc chân tu, khi tất cả những vị Tăng Bảo đều là những kẻ ngoại đạo đột lốt sa môn. Đạo Phật rồi sẽ về đâu khi sự mục rỗng đến từ bên trong?
...
Các bạn đã đúng rồi đấy. Vì lẽ đó chúng ta hãy đánh thức và đặt giới Tăng Bảo vào đúng vị trí Thanh Văn học Phật với vai trò giữ gìn Kinh Phật, hộ trì Tam Bảo.
Và các bạn hãy nâng tầm góc nhìn ở vị trí max - Vị trí tối ưu, ở góc nhìn đó các bạn sẽ dễ dàng nhận ra rằng hầu hết những vị Tăng Bảo xưa nay đều là ngoại đạo.
Các bạn hãy chú ý cho rằng Ngạo Thuyết nói hầu hết các vị Tăng Bảo đều là ngoại đạo chứ không đơn thuần là các vị ấy trước khi xuất gia học Phật đã từng là ngoại đạo.
Thật vậy! Từ xưa đến nay hầu hết các vị Tăng Bảo đều là ngoại đạo dẫu cho họ có chánh tín xuất gia, nghiêm trì giới luật thì họ vẫn là ngoại đạo. Chỉ khi nào người xuất gia học Phật phát khởi chánh trí, thâm nhập liễu nghĩa kho tàng Như Lai Tạng thì khả dĩ họ mới trở nên là thầy của Trời - Người, là một vị đạo sư Phật môn đúng nghĩa.
Và nơi góc nhìn nâng ở vị trí tối ưu chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận giới Tăng Bảo xưa nay đích thực đều là ngoại đạo. Qua đó, chúng ta và cả giới Tăng Bảo ý thức được rằng không phải chỉ cần quy y Tam Bảo, cắt tóc xuất gia liền trở thành thầy của Trời - Người, trở thành đại diện đúng pháp của đạo Phật.
Do đó, với góc nhìn sáng rõ đại chúng học Phật sẽ không dễ bị hình tướng Tăng Bảo mê hoặc và cũng dễ dàng hơn trong việc chấp nhận hạt giống đỏ của ngoại đạo đang là lực lượng nòng cốt của Tăng đoàn. Cả thảy đều là ngoại đạo hà tất phải chứa giữ điều kỳ thị, khinh chê.
Chúng ta tôn kính giới Tăng Bảo xuất gia là vì họ là thành phần chính danh được Phật gửi gắm vai trò giữ gìn Pháp Bảo, họ là một trong số ba viên ngọc quý Tam Bảo.
Vì thế chỉ cần giới Tăng Bảo giữ giới nghiêm túc, thường tu phạm hạnh thì họ đã đạt yêu cầu của hàng Thanh Văn học Phật. Dẫu cho họ có là ngoại đạo xuất gia học Phật với tư tâm muốn thâu tóm, lãnh đạo Tăng đoàn hay việc quản lý đại chúng học Phật theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì họ vẫn là một vị Tăng Bảo chính danh.
- Sự tồn tại hạt giống đỏ của thành phần quản lý xã hội ở giới Tăng Bảo liệu có gây ra những họa hại gì? Liệu sự tồn tại của họ có gây ra sự hủy hoại giáo lý giác ngộ giải thoát không?
Một khi chúng ta nhận ra giới Tăng Bảo là thành phần Thanh Văn học Phật và đặt để họ vào đúng với vai trò là thành phần giữ gìn Kinh Phật, hộ trì Tam Bảo thì sẽ không có sự nguy hại lớn nào xảy ra cho đạo Phật cả.
Chỉ khi chúng ta phó mặc trí tuệ và cả con đường giác ngộ giải thoát của chúng ta cho giới Tăng Bảo, chúng ta không tự thắp đuốc trí tuệ mà đi thì mới thật là sự hung hiểm cho đạo Phật.
Và khi chúng ta nhận ra và chấp nhận giới Tăng Bảo là ngoại đạo, chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc cảm thông những người đã chọn lựa việc "Cắt ái, ly gia" để học hỏi Phật pháp, gìn giữ ngọn đuốc chánh pháp được lan truyền.
Tương tự như thế, khi đó chúng ta sẽ cảm thông cho những hạt giống đỏ vì lý tưởng cách mạng, vì lý tưởng xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã phải ẩn nhẫn, trà trộn vào hàng ngũ Tăng đoàn, ra sức học hỏi Phật pháp, gắng sức giữ giới để thu phục được sự tín nhiệm của đại chúng học Phật.
Mục đích cuối cùng của những hạt giống đỏ cộng sản trà trộn trong giới Tăng Bảo không chỉ dừng lại ở việc dẫn dắt đại chúng học Phật theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Những vị Tăng Bảo cộng sản còn phải nghe ngóng, nắm bắt thông tin hoạt động của những thành phần phản động, chống phá việc xây dựng đất nước lẩn trốn ở các tổ chức tôn giáo, chùa chiền cũng như nhà thờ. Đây là việc khó làm và đáng trân trọng.
Tại sao Ngạo Thuyết lại cho rằng sự tồn tại của hạt giống đỏ trong giới Tăng Bảo là việc khó làm và đáng trân trọng?
Chúng ta đều biết nước Việt Nam đã từng trải qua những năm tháng trường kỳ kháng chiến rất đỗi đau thương. Dân tộc Việt Nam đã rất gian khổ mới giành được nền hòa bình, độc lập.
Do đó, việc nhà quản lý đất nước Việt Nam e dè sự ẩn nhẫn chờ thời của các thế lực thù địch núp lùm trong các tổ chức tôn giáo là điều đương nhiên.
Vì lẽ đó để đảm bảo việc nắm giữ quyền lực ở vai trò quản lý đất nước các nhà lãnh đạo cộng sản đã tiến hành việc cài cắm cán bộ nằm vùng ở mọi vùng miền, mọi giai tầng xã hội và cả ở các hệ thống tôn giáo; Đây là điều có thể chấp nhận được và không hề sai.
Các đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam đã từng ở trong chăn nên thừa biết những tấm chăn tôn giáo thường luôn có rận.
Tóm lại, việc tồn tại hạt giống đỏ ngoại đạo trong hàng ngũ Tăng đoàn ngày nay là điều không thể tránh khỏi, song ngoại đạo nào cũng chỉ là ngoại đạo. Và khi họ giữ giới nghiêm cẩn, xứng tánh hạnh thì họ xứng đáng được cúng dường.
@ Bây giờ, Ngạo Thuyết sẽ trình bày vấn đề liên quan đến công đức và phước báu.
Thật vậy! Công Đức, Phước Báu Là Sự Dối Trá Ngọt Ngào.
Ngạo Thuyết vốn là hạng gà mờ học Phật, lại không thầy không bạn nên khi dấn thân học Phật sẽ lần dò góp nhặt thông tin và tri kiến Phật.
Khi buổi đầu tìm đến đạo Phật có hai chữ khiến Ngạo Thuyết chú ý, đó là chữ Tâm và chữ Đạo. Tiếp tục dò tìm thì Ngạo Thuyết biết được chữ Tâm được trình bày ở Kinh Thủ Lăng Nghiêm; Riêng chữ Đạo thì Ngạo Thuyết không tìm ra bộ Kinh Phật nào nói rành rõ, chuyên sâu.
Lần dò ở đạo Phật mãi tìm không ra chữ Đạo và Ngạo Thuyết đã tìm ra chữ Đạo ở quyển Đạo Đức Kinh của Lão Tử.
Với sự ngây ngô, không chấp chặt ngoại đạo hay đạo Phật, việc tham khảo Đạo Đức Kinh giúp Ngạo Thuyết vỡ ra được nhiều điều. Cơ hồ như chữ Đạo, chữ Đức, chữ Phước,... vốn được trình bày sáng rõ ở sách Đạo Đức Kinh.
Không chỉ vậy, Đạo Đức Kinh còn viết rõ rằng Phước thường sẽ liền kề với Họa. Và Ngạo Thuyết cũng nhận ra Phước là đầu mối của Tham Sân Si Mạn Nghi.
...
Với nhận thức ngu ngơ như thế Ngạo Thuyết khởi lên suy tư rằng không hẳn Kinh Phật sẽ chứa duy nhất những lời Phật thuyết; Rõ thật là ngay như chữ Đạo đã cho thấy giao lý đạo Phật đã vay mượn từ ngoại đạo và một người đã giác ngộ giải thoát hẳn sẽ không dùng Phước Báu, Công Đức để mê hoặc tín chúng.
...
Vụng nghĩ như thế nên Ngạo Thuyết lần dò xem Công Đức, Phước Báu thật sự mang lại lợi ích gì cho giới Tăng Bảo xuất gia và cư sĩ tại gia.
- Công Đức, Phước Báu liệu có mang đến cho Tứ chúng học Phật sự giác ngộ giải thoát không?
Dường như là không. Và Công Đức, Phước Báu cũng không mang lại trí tuệ cho người học Phật. Thậm chí Công Đức, Phước Báu còn khiến người học Phật đắm nhiễm trong việc hùn phước, xây chùa, độ Tăng, phóng sanh, cầu nguyện một cách mê mê và làm vùi lấp cả định huệ của người học Phật.
Ngẫm nghĩ đến đây, Ngạo Thuyết ngỡ ngàng - Ô hay! Sao kỳ lạ vậy? Dường như có cái gì đó sai sai...
Ngạo Thuyết lại tiếp tục truy nguyên nguồn cội. Thời Phật Thích Ca tại thế, người xuất gia ngày ăn một bữa, ba y một bát, ngã đâu là nhà, ngủ đâu là giường thì Phật Thích Ca thuyết Công Đức, Phước Báu làm gì?
Truyền thống của người dân ở các nước thuộc lưu vực sông Hằng từ trước thời Phật Thích Ca tại thế là cúng dường cho giới Tu sĩ bất kể tôn giáo, đạo phái nào; Trong mắt của những người dân tín ngưỡng tâm linh ở các nước quanh lưu vực sông Hằng thì giới Tăng sĩ, Bà La Môn,... là sứ giả, là hiện thân của những vị Thần linh.
Do đó, Phật Thích Ca và Tăng đoàn học Phật chân chính không cần việc rêu rao Công Đức, Phước Báu mới có cái ăn, cái mặc; Và họ cũng không cần đến những giảng đường cao rộng hay việc được ăn ngon, mặc đẹp,... Những dục lạc dễ sinh điều ràng buộc, việc rơi vào lợi dưỡng, danh tiếng và cả việc bị chôn chân ở một chỗ không đúng với cứu cánh sa môn hạnh.
Vậy ra Công Đức, Phước Báu khó thể là sản phẩm của người sáng mắt, người học Phật chân chính.
...
Vừa rồi, Ngạo Thuyết có được một thông tin từ một người bạn ở Châu Âu cho biết rằng có vị Tăng Bảo người Đức đã về lại ngôi chùa mà anh ta đã thọ giới để xin xả giới hoàn tục. Nguyên nhân của việc người Tăng Bảo này xả giới là vì dịch bệnh Covid - 19 lây lan và người Âu Mỹ không có truyền thống cúng dường nên đời sống người tu sĩ Phật giáo phương Tây khá chật vật.
Vậy nên truyền thống cúng dường là tùy thuộc vào vùng miền lãnh thổ chứ không do việc tuyên truyền PR cái gọi là Công Đức, Phước Báu.
...
Chúng ta lại được nghe việc cúng dường, bố thí, niệm Phật, tụng Kinh, trì chú, phóng sanh, cầu nguyện, độ Tăng, sám hối, cầu nguyện, bố thí pháp,... sẽ mang lại Công Đức, Phước Báu rất lớn lao. Những điều này gần như là chủ thuyết, là tâm pháp của người học Phật cả Tăng lẫn tục ngày nay.
Và chúng ta hãy nhìn sang các nước Âu Mỹ, đây là những nước có sự phát triển của Công Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo,... để thấy sự hiện đại, văn minh và giàu có.
Chúng ta hãy đánh giá xem "Phải chăng đã có cái gì đó sai sai vể Công Đức và Phước Báu?".
Chúng ta hãy nhìn sang các nước có đạo Phật là quốc giáo thuần khiết để nhận ra sự chậm tiến, đói nghèo, kém văn minh ở những nơi đấy - Campuchia, Myanma, Srilanka, Nepal,... Hóa ra Công Đức, Phước Báu ở đạo Phật có nghĩa gì đâu.
Chúng ta là những người học Phật và rất nhiều người trong chúng ta khinh chê ngoại đạo, tán thán Công Đức, Phước Báu của sự nghiệp học Phật.
Nhưng thực tế là sự yếm thế, cực đoan, vị kỷ ở đạo Phật đã đang sẽ hủy hoại đạo Phật và làm chậm tiến sự phát triển xã hội. Đây là điều mà người học Phật thuộc thế kỷ 21, 22 khách quan nhìn nhận; Nhìn nhận ở góc nhìn tổng thể, toàn diện. Việc gì rơi vào thái quá hoặc cực đoan đều sẽ gây ra sự phản tác dụng.
- Tại sao đất nước Việt Nam tựa như lấy đạo Phật làm quốc giáo lại có sự phát triển về Kinh Tế - Khoa Học - Kỹ Thuật - Giáo Dục có vẻ hiện đại, văn minh hơn so với các nước có đạo Phật là nền quốc giáo thuần khiết?
Chúng ta cần phải tôn trọng sự thật, sự thật là không phải do Công Đức, Phước Báu của đại chúng học Phật Việt Nam mà đất nước Việt Nam đạt được những thành tựu phát triển như thế.
Nếu người Việt Nam chỉ biết việc cúng dường, bố thí, niệm Phật, tụng Kinh, trì chú, phóng sanh, cầu nguyện, độ Tăng, sám hối, cầu nguyện, bố thí pháp,... thì chắc chắn rằng đất nước Việt Nam khó tránh khỏi việc đói nghèo, kém phát triển.
Thực tế là cuộc xâm lược của Thực dân Pháp đã khai sáng dân tộc Việt Nam. Thực dân Pháp, Đế quốc Mỹ đã góp phần bứng dân tộc Việt Nam ra khỏi nền văn minh lúa nước lạc hậu, chậm tiến.
Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ khiến người Việt Nam khôn ra và kích hoạt tinh thần tự lực, tự cường.
Rồi giai đoạn lịch sử bao cấp lại đẩy dân tộc Việt Nam vào tận cùng của sự đói nghèo, thiếu thốn.
Tuy nhiên, Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã ra sức kéo người Việt Nam ra khỏi những tín điều mê tín dị đoan, rời xa luôn cả những tín ngưỡng tâm linh ủy mị, lệ thuộc Thần linh.
Việc ra sức xóa bỏ sự ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm và thay bằng chủ nghĩa duy vật đã góp phần khiến người Việt Nam hăng say lao động, phát huy sáng kiến, sống theo ý chí có làm thì mới có ăn - Những nền tảng cho sự phát triển lối sống thực dụng.
Với những nền tảng thực dụng khi Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa đã mau chóng hội nhập với sự phát triển công nghệ của quốc tế. Nhờ vào tính thực dụng ở toàn dân mà đất nước Việt Nam đã phát triển thần tốc so với những nước có nền quốc giáo là đạo Phật. Chính ngoại đạo đã làm nên sự lột xác phát triển của đất nước Việt Nam.
Và ngoại đạo cũng đã đang đẩy dân tộc Việt Nam vào chủ nghĩa thực dụng, mở ra một lối sống khốn cùng cho người Việt ở tương lai gần.
...
Bần cùng sinh đạo tặc, Phú quý sinh lễ nghĩa. Đạo Phật ở Việt Nam trỗi dậy khi đời sống bon chen, giành giật đẩy người Việt tìm đến những bến đỗ, những ngôi nhà tâm linh.
Và việc hiểu sai chánh pháp đã khiến người học Phật cả Tăng lẫn tục PR cho Phước Báu, biến Phước Báu thành niềm tin Thần Thánh. Người học Phật và đất nước Việt Nam sẽ về đâu sau những sự dối trá ngọt ngào?
Nghiêng về đạo cũng hỏng; Lệch về đời cũng hư. Tìm đâu trung đạo?
...
Có người đã nhắc nhở Ngạo Thuyết là Công Đức, Phước Báu là ngón tay chỉ mặt trăng. Ngạo Thuyết không hiểu hay sao mà vọng chấp, trách cứ Công Đức, Phước Báu là sự dối trá ngọt ngào.
Ồ! Ngạo Thuyết thì chẳng chấp chi cả, Ngạo Thuyết chỉ tùy thời nói nín.
Và chúng ta phải chăng đã quá mê hoặc phương tiện Công Đức, Phước Báu rồi tự huyễn chính mình?
Chúng ta đã cúng dường, bố thí, niệm Phật, tụng Kinh, trì chú, phóng sanh, cầu nguyện, độ Tăng, sám hối, cầu nguyện, bố thí pháp... để vọng cầu phước báu. Chúng ta chỉ là thả con săn sắt bắt con cá rô, thả con tép bắt con tôm,...
Chúng ta ra sức tích lũy Công Đức, Phước Báu không vì tâm Từ Bi Hỷ Xả. Do đó, chúng ta hiện không phải là đang tích lũy những tánh hạnh tốt mà chúng ta đang nuôi lớn chủng tử toan tính, 5 lừa 10 lọc; Những hạt giống hư xấu này sẽ chèn ép tâm Từ Bi Hỷ Xả và trở thành nghiệp lực đeo đuổi, vùi lấp định huệ của những người học Phật lầm đường.
Và người học Phật cả Tăng lẫn tục đang PR, đang tiếp thị cho cái bánh vẽ Phước Đức, chúng ta đang xô đẩy đời nhau vào những nẻo thâm u. Quả thật là bánh vẽ chẳng thể no lòng.
...