Hiển thị các bài đăng có nhãn Góp Nhặt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Góp Nhặt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 25 tháng 5, 2021

Chương VIII – Sáu lá thư và cuộc khủng hoảng của nền Phật giáo Thế kỷ thứ V

Chương VIII – Sáu lá thư và cuộc khủng hoảng của nền Phật giáo Thế kỷ thứ V

Sáu lá thư

Nền Phật giáo do Mâu tử và Khương Tăng Hội gầy dựng đến thế kỷ thứ IV vẫn đang còn có những ảnh hưởng mạnh mẽ. Chí Hàm viết Triệt tâm ký mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu ở trên đã nhắc đến Khương Tăng Hội với lòng ngưỡng mộ đặc biệt. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ thứ V thì một số phạm trù cơ bản của nền Phật giáo Mâu Tử, Khương Tăng Hội đã biến thành đề tài tranh cãi, trong đó vấn đề then chốt nhất đối với những người Phật giáo là tại sao thực hành theo Phật giáo mà lại không thấy chân hình của Đức Phật ở đời. Đây là đề tài bàn cãi của Sáu lá thư trao đổi giữa hai pháp sư tên Đạo Cao, Pháp Minh và một “Sứ quân” tên Lý Miễu. Mấy lá thư này là những áng văn xưa nhất của lịch sử văn học Phật giáo, mà còn đối với lịch sử chính trị và văn hóa Việt Nam một cách tổng quát.

Sáu lá thư này bày tỏ cho thấy Phật giáo đã được dân ta tiếp thu như thế nào, những vấn đề gì mà họ quan tâm nhiều nhất, từ đó, giúp ta xác định được sinh hoạt trí thức và văn hóa chung của thời đại, Thực sự mà nói, chúng đã phơi trần một cuộc khủng hoảng có tính chất căn để đối với toàn bộ tư tưởng và tín ngưỡng Phật giáo vào thời ấy, ví chúng chỉa mũi dùi tra hỏi đến vấn đề người theo Phật giáo thực sự có thể thấy Phật được không? Đặt vấn đề như thế là nhắm đến trọng tâm của toàn bộ sinh hoạt Phật giáo, vì sinh hoạt Phật giáo đâu có ý nghĩa gì khác ngoài mục đích làm cho những người thực hành nó giác ngộ, nghĩa là tìm lại bản thân đức Phật của mình, tìm lại bản chất Phật của mình. Do vậy, hỏi sao không thấy chân hình của Phật đối với người Phật giáo là nêu lên những nghi vấn về chính cái mục đích mình đang theo đuổi, là tự hỏi về sự hiện hữu của chính mục đích đó. Có thể nào ta thấy đức Phật chăng? Có thể nào ta giác ngộ chăng?

Nghi vấn và tự hỏi về mục đích như vậy bao gồm luôn một nghi vấn và tự hỏi về giá trị phương pháp nhằm đạt đến mục đích đó. Một mặt, ta hỏi mục đích có hiện hữu không. Mặt khác giá như mục đích đó hiện hữu mà ta không đạt đến được, phải chăng vì phương pháp của ta đã sai lầm? Sáu lá thư này sẽ giúp cho thấy những câu hỏi như thế cần phải giải quyết ra sao trong bối cảnh lịch sử Việt Nam thời đó, Chúng sẽ phơi bày không những nghi vấn về giá trị của những phương pháp thực hành Phật giáo đang lưu hành vào giai đoạn ấy mà còn biểu lộ cho thấy cái quan niệm về Phật do nền Phật giáo Mâu Tử và Khương Tăng Hội thiết định đang mang trong mình một số những mâu thuẫn cần giải quyết.

Sáu lá thư ấy ngày nay xuất hiện trong Hoằng minh tập 11 ĐTK 2145 bản in Đại chính 11 dưới nhan đề “Cao minh nhị pháp sư đáp Lý Giao Châu Miễu nan Phật bất kiến hình sự”. Việc này có thể làm cho ta nghĩ rằng, chúng đã được Hựu sưu tập sau năm 513, nếu không là sau năm 495 – 498, bởi vì Hựu đã cho trích lời tựa của Hoằng minh tập trong Xuất tam tạng kỷ tập quyển 12 ĐTK 2145 tờ 93b12-94a23 viết xong khoảng những năm ấy và bảo là Hoằng minh tập chỉ có 10 quyển chứ không phải có 11 quyển như bản in Đại chính ngày nay điểm chỉ.

Tuy nhiên, nếu ta đọc hết lời tựa cùng bản liệt kê nội dung của nó, thì Sáu lá thư ấy lại được xếp vào quyển thứ bảy cùng với những đối đáp giữa Hà Thượng Chi và Tống Văn đế và một số văn bản khác của Tiêu Tử Lang..v.v. Trong đó, Hựu cho ta biết tại sao và bằng cách nào cuốn Hoằng minh tập ra đời. Ông viết ở tờ 93b26-c3: “hựu dĩ mạt học, chí thâm hoằng hộ, tĩnh ngôn phù tục, phấn khái vu tâm, toại dĩ dược tật vi gian, sơn thê dư hà, soạn cổ kim chi minh thiên, sao đạo tục chi nhã luận, kỳ hữu khắc ý tiển tà vệ pháp, chế vô đại tiểu, mạc bất tất thám, hựu tiền đại thắng sỹ thơ ký văn thuật, hữu ích tam bảo giả, diệc giai biên lục, loại tụ khu quân, liệt vi thập quyển; phù đạo dĩ nhân hoằng, giáo dĩ văn minh, hoằng đạo minh giáo, cố vị chi Hoằng minh tập”. Sáu lá thư do “Cao Minh nhị pháp sư đáp Lý Giao Châu Miễu nạn Phật bất kiến hình sự” như vậy chắc chắn phải thuộc loại “tiền đại thăng sỹ thơ ký văn thuật”, và chắc chắn là được sưu tập nếu không trước những năm 495-498 thì trước năm 513, năm Hựu hoàn thành bộ Xuất tam tạng ký tập.

Tăng Hựu sinh năm 445 và mất lúc ông 74 tuổi vào năm 519. Hai vị pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh cũng như người đệ tử của họ tên Lý Miễu, ngày nay chúng ta không biết một tí gì hết. Những tư liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc từ Cao Tăng truyện đến Tống thư đã không có một người nào với những tên ấy. Những tư liệu lịch sử nước ta và Phật giáo nước ta cũng không có. Dẫu thế, vì Tăng Hựu sinh và mất giữa những năm 445 – 519, niên đại của những vị “tiền đại thắng sỹ” này phải rơi vào khoảng thế kỷ thứ V. Điều này bản in đời Minh đã xác nhận với những tiêu đề cho những lá thư ấy như “Đáp Lý Giao Châu thơ Tống Thích Đạo Cao” hay “Dự Đạo Cao pháp sư thơ Lý Miễu”.v.v., định tự một cách rõ ràng, những người liên hệ quả đã sống vào thời Lưu Tống, tức giữa những năm 420 – 478. Nghiêm Khả Quân (1762 – 1843) trng Toàn thượng cổ Tam đại Tấn Hán Tam quốc Lục triều văn cũng đã xếp họ vào trong tập Toàn Tống văn dành cho văn chương nhà Lưu Tống. Và những niên đại đây có thể đẩy về một vài chục năm sớm hơn, như chúng tôi sẽ có dịp chứng tỏ dưới đây, trong đoạn thử truy nhận căn cước những pháp sư và người đệ tử của họ cùng trạng thái có thể của những người này trong lịch sử nước ta. Ở giai đoạn này, chúng tôi cần cho người đọc thấy những lá thư ấy.
Sáu lá thư

Những lá thư này viết bằng Hán văn và xuất hiện trong Hoằng minh tập ĐTK 2102 quyển 11 tờ 70a26-72a19 của bản in Đại chính. Vì chúng tương đối khá dài, chúng tôi do thế chỉ cho xuất bản dịch tiếng ta và xin người đọc tham khảo bản chữ Hán ở bản in vừa nói. Một số điển cố trong chúng, chúng tôi xin để nguyên trong khi dịch và sẽ bàn tới trong những chương tiếp theo.
Những lá thư ấy, theo chúng tôi biết, thì chưa một cuốn văn học sử nào của ta, ngay cả những cuốn mệnh danh viết về “Việt Nam cổ văn học sử” hay “Lịch sử văn học Việt Nam thời Bắc thuộc” kể tới. Chính vì vậy được công bố toàn vẹn ở đây để làm tư liệu cho việc viết một cuốn sách Văn học sử Việt Nam đầy đủ hơn và giúp sửa soạn việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam một cách nghiêm chỉnh hơn sau này.

Lá thư thứ nhất:

Lý Miễu của Giao Châu viết cho Cao pháp sư

Rằng, chỗ đạo trong vắng, bốn đại lẽ thường, nhưng giáo pháp nhiệm mầu lan khắp mọi cõi. Nếu bảo lời dạy ấy khéo hay lợi vật, độ thoát nhiều người thì sao chân hình nó lại không hiện ở đời? Ấy phải chăng chẳng qua là nói suông không thật? Nay chính là lúc phải nên tìm nguồn gốc phương tây của nó. Nguyện xin đại Hòa thượng dũ lòng thương xót, nhận lấy lòng con, mà không tiếc lời dạy thần tình.

Đệ tử Lý Miễu cúi đầu đảnh lễ.
Lá thư thứ hai:
Đáp lại thư của Lý Giao Châu

Thích Đạo Cao thưa rằng:

Nhận được câu hỏi về dấu tích ẩn hiện của đấng Chí Thánh, lý vị đã sâu rộng, mà từ nghĩa lại rõ ràng, trân trọng lại xem qua đọc lại, thì lời hay càng thêm. Sư quân, thành quách cao sâu, nhận được giáo pháp mà tự hỏi, thì đem hết ống ngu của mình, để làm chuyện võng tượng đi tìm huyền châu.

Rằng, đức Như Lai ứng vật, phàm có ba cách, một là hiện ra xác thân, phóng quang động địa; hai là để lại Chính pháp, như khi Phật còn tại thế; ba là để lại tượng giáo từa tựa, Pháp tắc từa tựa, Pháp tắc ngày nay đang đáp lại nhân tình, nhân tình đang cảm lấy tượng giáo thì ai làm cho Phật hiện ra ư? Cho nên kinh Tịnh Danh nói rằng: “Khéo hiểu được pháp tướng thì biết được căn cơ của chúng sinh”. Đến khi có ba hội Long Hoa ở thành Sí-đầu-mạt, nhân tình cảm lấy sự hiện thân thì ai làm cho Phật ẩn đi ư? Cho nên kinh Pháp Hoa nói rằng: “Lúc bấy giờ đức Phật cùng chúng Tăng đều ra khỏi núi Linh Thứu”. Cung vua Nhượng Khư đương nhiên có thể định kỳ như thế, thì nguồn gốc phương Tây sao lại không thấy? Nhưng kẻ nghi ở đời phần nhiều nói lời kinh không hợp, nên mắc phải sự ám muội thiếu tình, ấy là vì lấy chuyện không thấy mà sinh trệ.

Rằng, Tam hoàng Ngũ đế, Tam đại Ngũ bá, Cơ Đán Khổng Khưu san kinh Thi chế sách Lễ, đều chỉ nghe ở sử sách, có ai thấy đâu? Họ Thích gióng trống Pháp tại vườn Nai, đức Phu Tử dương lời đức ở Châu Lỗ, ấy đều là những việc tai mắt không biết được và đều phải tin vào sách vở. Nếu không tin việc sau, thì chẳng nhọc lòng nghi chuyện trước. Nhưng nếu đã hay rõ được việc sau thì sao lại chỉ trệ ở chuyện trước?

Sứ quân nghĩ suy sâu rộng, xem suốt ba đời, thì xin hãy tìm xem lời dạy của Thọ Lượng chưa dứt, gần theo dấu Định Quang Nho Đồng, giữa suy tập Đại Thông Trí Thắng, để cởi mở chỗ trệ mọi người. Như đem mây đùn che lấy thái dương, lời cạn văn quê của bần đạo nói không hết lòng. Mong đến ngày gặp nhau, thì sẽ nói rõ ràng hơn về vấn đề trên.

Kính bạch.
Lá thư thứ ba:
Thư của Lý Miễu viết cho Pháp sư Đạo Cao

Lý con xin cúi đầu đảnh lễ,

Con xem đi xem lại lời bàn thanh nhã của thầy vị thứ đã khu biệt, mà lời lẽ lại sâu đẹp. Con mong đến ngày gặp rất nhiều. Cái gọi là “cảm hóa có lúc khác nhau, Chánh pháp và tượng pháp lời lẽ hơi khác”, thầy đã viện việc ngoài để rõ nghĩa trong, trưng lấy văn để nghiệm sự thật, cẩn thận theo lối mà dẫn tới đích, tất cả chúng không có chỗ nào hở hang hết.

Song rằng, căn do của sự giác ngộ tất phải nhờ nhìn thấy, khi đã mắc vào ám muội thì phải sinh nghi. Nghi ngờ không phải là cội nguồn của sự giác ngộ. Nếu sách vở đang còn, thì những đời khác đều có thể hiểu được, và vạn thế về sau có thể không đợi một bậc thánh để làm thầy. Nếu nay đã nhờ đến cả tiếng tăm lẫn dấu tích, thì lời nói và hiện thân phải giúp đỡ cho nhau. Đạo nghĩa đã bị khó khăn, bọn Nho Mặc đang tranh nhau nổi lên, thì há để cho chính tín lu mờ, làm cho sự hủy báng hiểu lầm càng tăng hấn sao? Có thể nào không thấy sự thị hiện và ấn ký để làm chứng nhằm giữ lấy mình sao? Đấng Đại Thánh ban ra cái trí vô ngại, duỗi lòng thương không cầu, thì sao lại tiếc cái ánh sáng rực rỡ của mình, để làm tăm tối hơn những tài năng đi tìm hiểu, dứt hết cả hy vọng của mọi người sau khi nhập diệt, và gia thêm tội lỗi trước lúc có ba hội Long Hoa? Chó rơm suông đặt, thì ai mà có thể giác ngộ được? Nghi tượng giả bày, thì ai mà có thể tin được?

Đến cái chuyện đế vương Cơ Khổng, thì lời dạy của họ đều dừng lại ở đời này. Việc lai sanh, họ để ra mà không bàn tới. Cho nên, sự ẩn hiện phế hưng quyền thật của họ không cần phải nói. Nay đức Như Lai đạo nghiệp bao gồm cả ba đời, lòng thương thấm nhuần khắp cả, thì không được lấy đời hiện tại mà làm giới hạn. Mọi người mê muội đang tìm xin hiểu biết, thì không được lấy việc nhập diệt mà cho là chỗ cùng. Vì thế, mà việc hóa độ không thể hạn cục vào sách vở, và việc Phật la liệt bày ra hàng vạn. Xin hỏi rằng, cái gọi là việc Phật ấy ngày nay nằm ở đâu ư? Nếu như dẫn chuyệntin bên này, nghiệm bên kia, nhưng đấng Chí Thánh không ra đời, Khổng và Thích hai đường khác nhau, tức sự mà bàn không phải là không mâu thuẫn, thì chúng có cái gì có thể chứng nghiệm cho nhau ư?

Vì chưa thể im lặng bỏ đi, nên con lại phải mượn lời, xin thầy giải rõ thêm một lần nữa, trong khi chờ đợi gặp nhau cho việc trình bày rõ ràng hơn.
Lá thư thứ tư:
Lại đáp thư của Lý Giao Châu

Thích Đạo Cao thưa rằng:

Lại nhận được lời dạy sâu sắc. Ý nghĩa đã đẹp đẽ, mà tôn chỉ lại cao xa, ba đọc chín suy mới nắm hết chỗ uyên áo. Cho nên biết rằng, điều chí lý thì không phải người tầm thường thiển cận có thể lường đo, lẽ vi tế ẩn khúc thì không phải kẻ cạn cợt dốt nát có thể tham hiểu. Nay xin đem sự thường thiển mà trình bày sơ cái sở hoài của mình.

Rằng, lấy muôn điều lành làm lời dạy thì đường đi không phải là một. Có kẻ ngồi thiền trong rừng rú, có người tu đức ở bên cạnh thành, hoặc cung kính chấp tay, hoặc ca hát tán tụng ngâm vịnh, đều là những việc tai mắt cùng biết, và người thực hành chúng cũng rất nhiều. Đó là bến bờ của sự thọ ngộ. Gọi việc mắc sự ám muội, sao lại là nguồn gốc của sự thọ ngộ, ấy là vì nếu đã nhìn thấy thì hà tất lại có sự mắc phải ám muội. Có mắc ám muội thì mới sinh nghi. Nghi ngờ do thế cũng là cỗi gốc của sự giác ngộ. Xin đáng bàn rõ điều này. Có nghi ngờ thì người ta đi tìm sự hiểu biết. Có hiểu biết thì người ta có thể giác ngộ. Đã giác ngộ thì vào đạo. Nếu không phải gốc thì nó là gì?

Tuy Nho Mặc đang tranh nhau nổi lên, các học phái cãi cọ phải trái, ấy là vì ngọn đuốc cháy mãi không dứt, chứ đâu phải trời trăng không sáng chiếu, thì sao lại phải gấp gáp trong việc thị hiện và hấp tấp trong việc đồng qui? Nay không phải là giống lúc đời mạt không chứng. Chứng nghiệm là để bày tỏ sự chân thành, đồng thời cũng để tỏ ra nó không phải là lỗi của đấng Chí Thánh đầy dẫy ánh sáng rực rỡ. Nhưng kẻ nghi cứ lấy việc không thấy bản thân Ngài, rồi dài mê trong đại mộng, ngang ngạnh chìm trôi, để mà chết đắm trong sanh tử. Tiên Nho vãng triết đều có nói sơ điều này từ lâu. Đường không khác lối. Họ chỉ thuật lại mà không làm.

Rằng, quên mình mà đem hết lòng thành thì tất có cảm. Có cảm tất phải có thấy. Không có cảm thì không thấy. Người có thấy đem nói với kẻ không thấy cuối cùng cũng không tin sự thấy. Thánh nhân không phải là không thường ở với quần sanh, đâu phải là không thường thấy ư? Nghe Pháp âm mà bảo là hay, thì chó rơm không thể nói là đặt suông, thấy hình tượng mà cung kính thì linh nghi há là bày giả.

Cơ Khổng cứu đời đọa lạc không nổi, thì rảnh đâu mà bày tỏ sự việc của lai sinh? Nếu Khâu và Đán sinh gặp thời kết nối, họ đã nói rõ chuyện ba đời chẳng thôi. Ngài hỏi, nay việc Phật nằm ở đâu ư, thì cúi đầu chắp tay, không gì là không phải việc Phật. Chúng chỉ nhằm khiến người ta thâm ngộ một cách có phương pháp. Chúng thù đồ mà đồng qui. Thư trước đã dẫn bên này bên kia, kẻ nghi người tin, ấy chính vì người đời hễ không thấy thì cho là không có thật. Cho nên phải nói chuyện không thấy của Chu và Khổng để làm mực thước vậy. Đấy là để dắt dìu mà cùng theo nhau, há có thể gọi là mâu thuẫn sao?

Sứ quân sinh ra đã biết sự không giả dối. Với tài năng phú bẩm, ở vào địa vị của một đấng thiên tử, dùng lấy sự nghĩ suy dĩnh thoát, bơi lội trong rừng nghĩa, đi lại tại vườn sách, thì ngài có thể nghỉ ăn búi tóc tiếp khách, có rỗi bàn hay suốt ngày. Lời hay đã nói thì không thể không lắng nghe. Bần đạo học nghiệp thô thiển, rất thẹn lá thư. Trả lời xằng gọn, sợ làm bẩn vẻ đẹp của văn đầy. Nghĩ lại càng thêm thẹn thùng, mồ hôi lấm tấm.

Kính bạch.
Lá thư thứ năm:
Thư của Lý Miễu viết cho Pháp sư Đạo Cao

Lý con xin cúi đầu đảnh lễ

Lời bàn thanh nhã của thầy đã làm rõ bến bờ của sự thọ ngộ, ấy là sự tự nghi. Được mắc ám muội có thừa, chứ không cần phải nhìn thấy, có cung kính tán tụng thì đều đủ để dẫn vào đạo vậy. Xem đi học lại, con càng thấy sự sâu sắc của nó.

Song, cái gọi là tượng pháp và chính pháp trái nhau, nên đi tìm sự giác ngộ, vì lý thô, phải mượn nơm để chỉ bày tôn chỉ mà không cần phải nhờ đến sự thị hiện, điều này vẫn giống như lý do Cơ và Khổng đã ban ra lời dạy của họ và ánh sáng đã tỏ ra sự chiếu minh của nó. Một khi đã bày tỏ thì ai cũng nhận được. Điểm này, sách vở đời ghi chú cũng đã nhiều đủ. Thế thì phóng quang động địa mà làm chi ư?

Nếu chính tín không dừng lại ở sự lạy lục, và việc Phật gồm đủ cả sự thực hành lẫn giáo hóa, thì nguyên do của sự đại giác phải làm thần diệu cái nét đẹp của nó, để cho việc đi tìm có thể định được sự bắt nguồn. Cho nên, biết rằng, người tin thì tất phải dùng đến Nho Mặc để giải quyết những nghi ngờ, và kẻ học thì sẽ do dự không chứng mà tự hối hận. Tam hoàng Ngũ đế, dù có bỏn sẻn sự minh triết, cũng không phải là lỗi của họ. Mười hiệu của đức Phật, tuy thầm lặng chiếu sáng, đã diễn hết mọi đạo đức. Chúng há lại không biết sao?

Còn về chuyện Cơ và Khổng chỉ trọng đến cứu đời tọa lạc, mà không rảnh để đề cập tới lai sinh, và chuyện giả như họ sống vào thời kết nối thì đã tự nói rõ cả việc ba đời, những chuyện này lại cũng không phải thế. Bảy kinh trình bày, ý nghĩa gồm cả tới những gì chưa đến. Sách Phật phu diễn sự việc thì dừng lại ở duyên báo. Cho nên kinh Dịch nói rằng: “Chứa lành thừa vui, chứa dữ thừa khổ”, và kinh Phật dạy: “Không có chủ thể làm, không có đối tượng làm, không có kẻ bị làm, hành động lành và dữ cũng không mất”. Điều này chứng tỏ lời dạy về duyên báo là một lẽ thường mà giáo huấn cả hai bên đều đã truyền rộng, há có thể bên này vụ điểm này, bên kia chú trọng điểm kia ư?

Bàn lại những điểm ấy lại càng hay, nên con xin nói lại chúng vậy. Hy vọng thầy lại đem điều mới trình bày những chỗ khác để gột rửa cái trệ của xưa nay, khiến cho đường cong thành thẳng, chướng ngại lại thông. Thầm nguyện Đại hòa thượng duỗi lòng thương rộng nhận chút lòng con.

Đệ tử Lý Miễu kính trình.
Lá thư thứ sáu:
Đáp lại thư của Lý ở Giao Châu

Thích Pháp Minh thưa rằng:

Lá thư dài vừa mới tới, trân trọng xem nó suốt ngày. Nó thơm tựa lan rừng, thanh như gió huệ. Bần đạo tài năng không phải là của Sương Dĩnh, thời vận không phải là của Bào Sinh, việc làm thì sai trái, lý luận thì hở hang, chỉ vấp phải nghi ngờ từng đống, ấy đều vì lời dốt ý trệ. Song đã gắt hỏi thì xin trình tỉ mỉ vụn vằn như sau:

Kẻ ngu này cho rằng, nghi ngờ điều mờ ám, ghi nhớ sự lạ lùng, nhìn thấy việc thị hiện, cung kính tán tụng, cảm động linh biến, đều là bến bờ dẫn về chỗ đạo, là cơ hội đẹp đẽ cho sự thăng hoa. Cho nên thắc mắc và nhìn thấy đáng được nêu đều, nghi ngờ và chứng nghiệm đáng phải đi đôi, thì há có thể quăng phăng sự thị hiện, mau tiết lộ vỏ thần thái, để đặt đức Phật ngang hàng với Cơ và Khổng, xếp giáo pháp cùng với lời dạy của đời được sao? Phong quang động địa đều là lời suông.

Rằng, pháp thân ngưng tịch, sắc màu sáng trong, cho nên có thể ẩn hiện theo thời, hành tàng chẳng biết. Hiển thì dựa theo sự thật mà ra. Ẩn thì khéo trôi mà đi. Thế, đã nói đi tìm tôn chỉ, sao lại phải dòng dài về mười hiệu? Tia lóe của một ánh thừa cũng đủ làm sáng rạng cả cái đời đồi trụy này thì người tin há đi lấy một đốm lửa leo lét để làm tăng thêm nỗi nghi ngờ của mình sao? Chỉ cần hướng đến mặt trời mới rạng thì trắng đen sẽ sánh vai nhau. Tháp tượng kinh sách đầy khắp cả thế giới, kẻ học há lại đi lấy điều không chứng để tự hối hận sao?

Ngài lại dẫn đến bảy kinh, ý nghĩa gồm cả những gì thuộc vị lai như “chứa lành thừa vui, chứa dữ thừa khổ”, thì tuy nói thế, chúng đã không nói đến việc sinh diệt đổi mới, đổi vai gánh thay, hành động lành dữ không thể không chịu báo được. Điều này quả đã rõ cả đời, càng rộng rãi sâu sắc hơn cả bảy kinh. Dù vậy, trưng văn để nghiệm lấy sự thật, điểm ấy vẫn được lắm. Thư trước ngài nói rằng “Đế vương Cơ Khổng lời dạy dừng lại ở đời này, viện lai sinh họ để riêng ra mà không bàn tới, cho nên sự ẩn hiện phế hưng quyền thật của họ không cần phải rõ”, thì tựa hồ như có vẻ mâu thuẫn. Song, ý nghĩa nó bây giờ đã ổn ký thì đáng lòng thương không nên trách. Chỉ xin nghe rõ hơn nữa điều sâu sắc.

Thơ đáp trước có nói sơ đến đấng Chí Thánh và sự chìm nổi của chúng sinh, nhưng nghĩa cứ chưa rõ ràng, lời lẽ chưa thông suốt, nên nay xin bàn rõ lại, để cùng nhau rộng truyền đạo lớn.

Rằng, quần sinh dài mê trong ba cõi, chúng thức tối mờ trước sáu trần, trôi chìm với sinh tử là ông chúa của sự cấu xé ăn nuốt, tương tục ở tâm thức là bánh xe của sự lăn lóc luân hồi, xác thân thì đầy dẫy quán trọ của nghịch lữ, tâm hồn thì chỉ đáng cho khách khứa nghỉ chân, lui tới trong ba ác mà khổ sở, qua lại trong tám nạn mà chua cay, hân lạc thì tạm vui mà lo sợ suốt kiếp; một thân chết đi lại chịu một thân khác. Dẫu thế trí biện thông, sách vở đầy bụng, trăm nhà thấu suốt, chín phái rõ qua, biết sống chết có mạng, giàu sang tại trời, quỉ thần không thế đòi hỏi, thánh hiền không thể dự tri, ấy cũng chưa thoát khỏi sự sai lầm để che lấp tâm tình hay sự nghi ngờ từa tựa để lo nghĩ lông bông. Rồi phó thác cho đồng bóng, đầu thành với phù chú, ôm lấy chuyện bậy để hy vọng điều phải, giữ chặt việc giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai lòng, trù trừ đôi ngã, thì Phật dù có phóng quang động địa, ai mà có thể thấy cho ư? Sở dĩ sách Phật lưu bố, ấy là giống như bày nơm mà chờ cơ. Căn cơ động thì tất có cảm. Có cảm thì sau đó tất có lứng vậy.

Tự khi đặt chí vào nhà huyền, dốc hết lòng vào chỗ uyên áo, rõ được mạng người như giọt sương mai, hiểu được ba đời là không giả, thì phải tung mở cái thuật thanh chân, kiểm chận lấy con đường trược giả, gầy đức nhổ tà mà tà vẫn um tùm, trồng phước vun chính mà chính vẫn thưa thớt, khổ tiết giành lấy thời gian với tấc bông, sạch mình tranh lại phút giây với già nua, ôm ấp lòng thành, bảo hoài chí hướng, cho đến khi có cảm thì mọi việc liền thông. Há lại không tự mình đem lấy ánh sáng quang minh mà thấy được sự linh biến của nó đó hay sao? Hoặc qua sự chứng kiến rõ ràng của tai mắt hoặc qua sự mơ thấy trong giấc mộng như Hán Minh đế nhơn mộng mà thấy được đấng Chí Thánh, đại pháp do thế mà đã du nhập Trung Quốc, vua chúa đem hết lòng thành để trở về với bậc đức, anh hào vén áo để được giáo hóa, Sa-môn sánh vai với vương công, tăng ni trực cung trước thiên tử. Đối với 96 thứ ngoại đạo thì ai là cao hơn?

Tống Vũ Hoàng đế, khi mới lên ngôi, nằm mộng thấy một thầy tu mang bát đến xin, nhân thế mà nói rằng: “Ông đời trước vì bố thí cho Phật Di Vệ một bát cơm, nên nay mới được ở ngôi này”, bèn sai đến hỏi Nghiêm công giải bày thực giả. Nghiêm công liền đưa kinh Bảy Phật cho xem. Chúa Ngô là Tôn Quyền ban đầu nghi Phật pháp không nghiệm, đáng nên đình chỉ bãi bỏ, thì liền nhận được ngọc xá lỵ, chiếu sáng rực rỡ, vàng sắt không thể dập nát, lò nung không thể thiêu cháy, nay đang còn thấy ở chùa Kiến sơ tại kinh đô. Ngô quận có một tượng Phật đá, nổi trên nước biển, đạo sỹ đồng cốt, người theo hàng trăm, ra vẻ phù đọc chú, đánh trống nhảy múa, không một tên có thể làm nhúc nhích.

Năm sáu thầy tu cung Chu Trương và khoảng bốn người đã nhẹ nhàng nâng lên và cùng nhau bưng đi một cách dễ dàng, tức nay thấy tại chùa Ngô quận Bắc. Thuần thành chí đáo, thì không gì là không có cảm ứng. Nhà Chu Trương suốt đời thờ Phật, do thế mà thấy được sự ứng nghiệm. Quách Văn Cử sùng phụng Tam bảo, chính tín kiên minh, tay rờ họng cọp, rất biết sự an nguy. Lan công phủi tuyết buốt cho thú dữ, hộ công cảm suối khô thành dòng nước lũ, họ đều là những bậc cao hạnh siêu quần, thanh trần thoát tục mà hành tích khác thường đều có ghi lại ở đời vậy. Ngoài họ ra còn không biết bao nhiêu nữa.

Bần đạo lúc nhỏ học hành nhác nhớm, nên đến khi bạc đầu trở thành quê mùa cạn cợt; tỏ rõ lòng thành của mình, thì lời chẳng văn vụn, vị tất có thể hoa mỹ nên sợ không duẫn đáng. Suy đi nghĩ lại càng thêm thẹn thùng.

Kính bạch.

Hật bút:

Tống cư sĩ ở Kinh Châu làm ra quyển Minh Phật luận, bảo rằng, theo lời thuật của Bác Ích trong Sơn hải kinh thì nước Thân Độc gần người mà thương người. Quách Phác chú thích là, Thân Độc tức là Thiên Trúc, nơi Phù đồ đang nổi lên – Phù đồ tức Phật đó vậy. Liệt tiên truyện của Lưu Hướng kể lại 47 người tiên trong kinh Phật. Đó phải là do cái nhìn hẹp hòi về vấn đề ấy của những học giả, chứ không phải là Phật giáo bắt đầu với Hán Minh đế. Nhờ sự nhân tử thánh thiện tên Trừng vào thời Thạch Lặc và Thạch Hổ đã gọi Hổ bảo rằng: “Tại chỗ chùa vua A Dư xưa trong thành Lâm Truy còn có cái tháp hứng sương có một bức tượng ở dưới một gốc cây lớn tại rừng sâu cách đất khoảng hơn 20 trượng”.

Hổ sai sứ giả y theo bản đồ đào tìm thì được đúng như lời nói – Vua A Dư tức là vua A Dục vậy. Chú của Diêu Lược là Tấn vương ở Phố Pha Hà Đông. Ở chỗ mà những người già gọi là chùa vua A Dục, ông thấy có ánh sáng lóe ra, bèn dục tìm được xương Phật trong một hộp bạc tại một tráp đá sáng tỏa lạ thường, theo đường nghênh về kinh đô ở Nghiệp, dâng lên cho các Tỷ-kheo, nay thấy tại chùa Tấn. Do đó, thấy rằng, Phật sự có khắp đất Tấn đã lâu vậy. Sở dĩ nó không được nói đến ở thời Tam đại, ấy cũng giống như các cuốn sử của Can Bảo và Tôn Thạnh đã không nói đến sự diệu hóa thật rõ của đức Phật đã có tiến bộ và thạnh hành ở Giang tả vậy.

 https://namo84000.org/lich-su-phat-giao-viet-nam-chuong-08-sau-la-thu-va-cuoc-khung-hoang-cua-nen-phat-giao-the-ky-thu-v/#Sau_la_thu

Thứ Bảy, 10 tháng 6, 2017

ĐỐN NGỘ ĐẠI THỪA CHÍNH LÝ QUYẾT

Bản chép tay đời Đường ở Đôn Hoàng:ĐỐN NGỘ ĐẠI THỪA CHÍNH LÝ QUYẾTViệt dịch: DIỆU TRAI cư sĩ (Nguyễn Thành Sang).Email: thanhsang.nsb@gmail.comPhone: 0125.550.0131
đại sư Liên Hoa Giới (Kamalaśīla)
Đại sư Liên Hoa Giới (Kamalaśīla)
Sử tịch Tây Tạng ghi chép, Phật giáo tiền kỳ đất Tạng đã dấy lên cả hai lần đại nạn, một là nạn bên trong, hai là nạn bên ngoài. Nạn bên ngoài gọi là cuộc diệt phápcủa vua Lãng-đạt-ma (Glan-dar-ma), Thánh giáo đoạn tuyệt hơn một trăm năm, đến thời Triệu Tống mới đượcphục hưng, là giáo nạn trọng đại nhất trong sử Tây Tạng. Nạn bên trong là Thánh giáo Tây Tạng dựng lên chưa lâu, sau khi các vị như luận sư Tĩnh Mệnh thị tịch(đời vương triều Trĩ-tùng Tây Tạng, khoảng thời Đường Đại Tông) có sự hiểu lầm nghĩa Không, hủy báng hòa thượng Chi-na mang danh Ma-ha-diễn[1] phương tiệnsang Tạng, đề xướng Thiền tông, chia Phật giáo làm hai môn Đốn – Tiệm, bảo các hành giả tiệm tu theo tam học, lục độ… là Tiệm môn. Những người nhìn thẳng vô tư vô tưởng ly phân biệt là Đốn môn. Lại bảo sự phân biệt dù thiện hay ác cũng đều là chướng Thánh đạo, duyvô phân biệt mới chứng Bồ-đề. Lại nói các hành giảrộng hiểu Tam tạng Thánh giáo thì họ là hạng thượng căn lợi trí nếu nói theo chúng sinh độn căn thời Mạt, nhìn thẳng tự tâm, diệt những phân biệtđốn ngộ thành Phật, vốn không cần tu các thiện hạnh. Do vậy dị kiếncạnh tranhgiáo đồ tranh chấp, cuộc chiến suốt nhiều năm vẫn chưa giải quyết. Sau nhờ Tạng vương thỉnh luận sư Liên Hoa Giới Ấn-độ sang Tạng biện luận mới khôi phục lại phép thường. Tương truyền khi Ma-ha-diễn chuẩn bị biện luận từng soạn ba bộ sách, một nói rõ tự tông, chỉ diệt phân biệt, chẳng cần tuhành, thụy miên (ngủ mê) tức là thành cái ý của Phật, gom lại trích dẫn hơn 80 bài đại kinh xưng tán sựvô phân biệt chứng minh sở thuyết của mình, sắp sẵn mười phiên vấn đáp nhằm giải thích cho cuộc tra hỏi.
Song khảo xét sử tịch Hán văn, không thấy có người tựa như thế, cũng không thấy có loại sách giống vậy, tức là ba bộ sách này cũng đã sớm thất truyền tại Tây Tạng rồi, nay trong các văn bản in hình hang đá Đôn Hoàng của Bắc Kinh đồ thư quán được lưu giữ tại Paris, chợt có được bộ sách Đốn Ngộ Đại Thừa Chính Lý Quyết do Ma-ha-diễn biểu tấu xưng phổ, tức là soạn ra sẵn lối vấn đáp nhằm giải thíchcuộc tra hỏi, thực là sử liệu hy hữu đáng quý. Xem cái lí được bàn trong đó vốn chỉ là rỗng tuếch vô nghĩa, không phải là lời thật ngữ thiền đức, giáo được dẫn trong đó cũng thuộc loại tầm chương trích cú, gần như hiểu lệch. Ba bài Tu thứ đệ luận của Liên Hoa Giới cùng với Bồ-đề Đạo thứ đệ luận của Tông-khách-ba biện chính toản tường, rất đáng tham khảoTiến tới khảo về sư thừa của Ma-ha-diễn thì bảo “pháp hiệu Hàng Ma Tiểu Phúc Trương hòa thượng, chuẩn ngưỡng Đại Phúc Lục hòa thượng”, có lẽ làhậu duệ của Thần Tú[2]. Vì nối pháp của Thần Tú chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 4 cóthiền sư Tiểu Phúc người Kinh Triệu và Hàng Ma Tạng thiền sư người Duyện Châu. Nếu vậy, niềm tinsuy tàn đối với thiền Bắc tông cũng là có lý do.     
Ngày 29 tháng 11 năm 1950, nhà yoga Đạo Tại ghi.

BÀI TỰA 
“ĐỐN NGỘ ĐẠI THỪA CHÍNH LÝ QUYẾT”
Tiền Hà Tây Quan sát sứ phán quan Triều tán đại phu Điện trung Thị ngự sử Vương Tích soạn;

Từ khi đức Thích-ca hóa diệt, niên đại xa vời, Kinh chép lá bối, pho bộ tuy nhiều, hoặc có chân ngôn, ý kiêm bí mật, lí đã sâu sắc, chẳng dễ qua bờ. Thế là chư Bộ trỗi dậy, tà chấp giằng co, cho nên có Tiểu Thừa thiển tríđại nghĩa trái khuấy, cái ánh le lói của đom đóm mà đòi tranh sáng tỏ với vầng thái dương. Hiềm nỗi phiên quốc quạt tục gió tà, không truyền Phật giáo, chẳng lường Thiền tông. Ôi ngã Thánh xưng phổ, sớm trồng gốc thiện, chóng ngộ lẽ thật. Thương muôn tính cứ mãi mê lâu bèn diễn áo chỉ của Chính thừa. Vốn biết lời nói trái lẽ thì tính (chúng sinh) sẽ trái Thừa, không tin Pháp mà đi theo Phi pháp.Chạy theo thế đế (lẽ đời), sẵn rộng căn cơ, không bỏ Thanh văn, uốn dòng văn tự, ban truyền trong cõi, để lại tinh tu. Tiếp xúc lân bang mở bày long tượng. Ở nước Ngũ Thiên Trúc thỉnh ba mươi vị Bà-la-môn tăng, nơi nước Đại Đường thỉnh ba vị Hán tăng đại thiền sư Ma-ha-diễn cùng hội tịnh giới, chung thuyếtChân tôngĐại sư ta ngầm viện Thiền môn, nêu rõ Pháp ấn, hoàng hậu Một-lô thị tự mình kiền thành, vạch đường khai ngộ, cắt bỏ tóc xanh, mặc áo nâu sòng. Giới châu sáng tỏ nơi ruộng tình, thấu suốtThiền tông nơi nước định, tuy hoa sen không nhiễm nhưng chưa đủ làm gương. Khéo hay làm phương tiện, dạy dỗ sinh linh, thường xưng phổ cho mẹ dì Tất-nang-nam thị cùng các đại thần phu nhân hơn ba mươi người nói pháp Đại Thừa, đều xuất gia cùng lúc cả, cũng có khác gì chuyện đầu têu từ bà Ba-xà-ba-đề làm Tỳ-khưu-ni đâu. Lại có Tăng thống đại đức Bảo Chân, vốn tục họ Nghịch, chẳng lầm thiền – luật nơi ruộng tình, kinh – luận sẵn bàn nơi bể miệng, hộ trì Phật Pháp, tinh tu gấp bội. Hoặc chi giải sắc thân, chẳng hề nhiễu động, tập thiền cũng thế. Lại có tăng Tu-già-đề con nối vua Tô-tì, tiết tháo tinh tu,giới châu sáng sủa, mình mặc trăm áo, tâm khớp ba Không, bảo đại sư ta rằng:
- Hận là đại sư đến muộn, không được sớm nghe lời Pháp!
Bắt đầu năm Thân, đại sư ta chợt vâng minh chiếu về lời tâu của những Bà-la-môn tăng, Thiền tông đốn ngộ được Hán tăng truyền dạy chẳng phải là sở thuyết từ kim khẩu, xin ngừng bỏ lập tứcThiền sư ta vẫn điềm nhiên cười rằng:
- Lạ thay! Chúng sinh cõi này há không có chủng tính Đại Thừa, bị quân Ma nhiễu động hay sao? Chúng bảo giáo pháp của ta không khớp lẽ Phật, tự chuốc diệt vong ư?
Thương xót hàm linh, ròng ròng nước mắt, bèn cúi đầu cung kính trước Phật mà thưa rằng:
- Nếu chúng sinh vùng này có duyên với Đại Thừathiền pháp sẽ mở lại không sai, xin luận nghị với Tiểu Thừa để xét đoán đúng sai, gióng lên hồi trống Pháp làm chấn động càn khôn, thổi loa Pháp mà xếp lại non nhạc. Nếu nói không hợp lý thì nguyện cho Mật tích Kim cương băm nát bần đạo ra làm bụi nhỏ.
Bậc thánh chủ đứng trước, lập tức tâu rằng:
- Thầm mong thánh thượng trách vấn với những Bà-la-môn tăng, cật nạn lẫn nhau, so sánh kinh nghĩa, nên có chỉ quy để giảm thiểu sai sót, xin ngừng bỏ đi.
Vua nói:
- Được thôi!
Những Bà-la-môn tăng qua nhiều năm tháng tìm tòi kinh nghĩa để tâu vấn đề, cóp nhặt tì vết, đại sư ta thì tâm trong lẽ thật, đáp theo lời hỏi, như gió mát cuốn bay sương mù, nhìn thấy trời xa, khác gì tấm gương thật dựng lên soi sáng mọi hình tượng. Những Bà-la-môn lời lẽ đuối lý, cùng cạn từ nghĩa, ngọn giáo bị gãy, đâm lòng chống đối, bèn mê hoặc lũ đại thần âm mưu kết bè đảng, có hai vị tăng Thổ-phồn là Khất-xa-di và Thi-tì-ma-la, biết thân như bọt bóng, khế sâu thiền kỹ, quyên sinh vì Pháp, đâu dám ngoan cố, chui đầu vào lửa, bèn thân gỡ dao sắc mà nói:
- Ta không nỡ thấy bè đảng kết giao, hủy báng Thiền pháp.
Bèn chết đi. Lại có hơn ba mươi vị tăng Thổ-phồn đều thâm ngộ chân lý, chung một lời tâu lên:
- Nếu thiền pháp không hành thì chúng tôi xin cởi hết cà-sa, vứt thân hiểm hóc.
Bọn Bà-la-môn bèn trừng mắt uốn lưỡi, kinh hồn vỡ mật, lo ảnh sửa tường, nghĩ thẹn toán chiến. Tiểu Thừa đã loạn cách há còn dấy quân, xem cờ Đại Thừa giương vẫn vậy dũng mãnh. Đến ngày 15 tháng giêng năm Tuất đại tuyên chiếu mệnh rằng: “Thiền nghĩa do Ma-ha-diễn khai thông suốt Kinh văn, không chút sai lầm, từ nay về sau dù đạo hay tục cũng đều y pháp tu tập”. Tiểu tử chẳng tài, đại sư chầm chậmgọi bảo:
- Mực chữ công văn được lời vấn đáp lấy làm đề mục, kiêm viết trình tựa, nên đặt mục là Đốn Ngộ Đại Thừa Chính Lý Quyết.
Hỏi rằng:
- Nay thấy tâm trừ tập khí, ra Kinh văn gì?
Cẩn đáp:
- Đúng Kinh Phật Đỉnh dạy: một căn ngược về nguồn, sáu căn thành giải thoát. Theo Kinh Kim Cương và các Kinh Đại Thừa đều dạy: lìa tất cả vọng tưởng tập khí gọi là chư Phật. Cho nên khiến thấy tâm trừ tất cả tâm vọng tưởng tập khí.
Hỏi:
- Lời Kinh Đại Thừa nói sao gọi là nghĩa Đại Thừa?
Đáp:
Kinh Lăng-già nói: duyên có vọng tưởng thì thấy có Đại Thừanếu không vọng tưởng thì lìa Đại Tiểu thừa, cái không thừa và thừa không có kiến lập thừa, ta nói là Đại Thừa.
Hỏi thứ nhất:
- Hoặc có người nói Phật từ vô lượng nhiều kiếp tới nay vô lượng công đức trí tụ tròn sẵn, rồi mới thành Phật. Lìa mỗi vọng tưởng không được thành Phật. Vì cớ sao? Nếu người chỉ lìa vọng tưởng được thành Phật cũng không cần nói Sáu Ba-la-mật, mười hai bộ kinh, chỉ cần nói khiến diệt vọng tưởng. Nếu đã không nói như vậy thì trái với lí.
Đáp:
- Tất cả chúng sinh duyên vô lượng kiếp tới nay thường không lìa khỏi ba độc phiền nãotâm tưởng vô thủy tập khí vọng tưởng cho nên trôi lăn sinh tử, không được giải thoát. Theo Kinh Chư Pháp Vô Hànhquyển thượng nói: nếu trong tất cả pháp vì trừ được tâm duyên tướng ấy là bất khả đắc nên người đó gọi là người đã được độ. Lại Kinh Kim Cương Tam-muội dạy: Phật nói một niệm tâm động thì năm ấm cùng sinh. Khiến chúng sinh kia an tọa tâm thiền, trụ Kim Cương địa, cái không một niệm này đúng như cái lí vậy, đủ hết mọi pháp. Lại Kinh Kim Quang Minh thứ hai nói: tất cả phiền não cuối cùng diệt tận, bởi vậypháp như như, cái trí như như nhiếp tất cả Phật Pháp. Lại Kinh Lăng-già thứ hai nói: chỉ lìa tâm vọng tưởng thì Pháp thân Như Lai của chư Phật trí tuệ bất tư tự nhiên hiển hiện. Lại Pháp thân tức chợt hiện, tỏ Báo thân cũng như Hóa thân. Lại Kinh Chư Pháp Vô Hành Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “nếu có người hỏi ngươi đoạn tất cả bất thiện pháp, thành tựu tất cả thiện pháp gọi là Như Lai, ngươi đáp thế nào?” Văn-thù-sư-lợi nói: “như Phật ngồi nơi đạo tràng, vả thấy pháp có sinh diệt chăng?” Phật nói “không thấy”. “Thế Tôn! Nếu pháp không sinh không diệt, không đoạn tất cả bất thiện pháp, không thành tựu tất cả thiện pháp, là sở kiến gì? Sở đoạn gì? Sở chứng gì? Sở tu gì? Sở đắc gì? Chỉ là tâm tưởng vọng tưởng tức làtự nhiên trọn đủ ba mươi bảy đạo phẩm, tất cả công đức cũng đều trọn sẵn, rộng thuật Kinh văn không thể nói hết, cứ tự xét tìm sẽ thấy Kinh nghĩa cứ lí.
Hỏi:
- Cái không trái đối với lí nếu có chúng sinh lìa khỏi ba độc phiền não, liền được giải thoát tâm tưởng vô thủy tập khí vọng tưởng, cũng được thành Phậtcông đức như vậy không thể so lường.
Đáp:
Mười hai bộ kinh theo Kinh Lăng-già nói: Kinh Phật đã dạy đều có nghĩa vậy, tuệ lớn, các Tu-đa-la dạytùy thuận theo tâm tất cả chúng sinh chứ chẳng phải chân thật ở trong lời, chẳng phải đều hiển thị cáipháp trí chứng nơi chân thật. Tuệ lớn phải tùy thuận nghĩa, chẳng thấy ngôn thuyết. Lại Kinh dạy: Phật nói “Ta đêm nọ thành đạo, đêm đó nhập Niết-bàn, ở hai khoảng giữa đó không nói một chữ, không từng nói, nay nói hay sẽ nói”. Không nói tức là Phật nói. Lại Kinh Niết-bàn dạy: kẻ nghe Phật không nói pháp là người trọn đủ đa văn. Lại Kinh Kim Cương dạy: cho đến không có chút pháp đáng nắm được, đó là Vô thượng Bồ-đề. Lại Kinh ghi: không pháp có thể nói, đó gọi thuyết pháp. Theo đạo lí này nên không trái nhau.
Lại hỏi:
- Có trời người chế ra vọng tưởng, vì chế vọng tưởng nên sinh Trời Vô Tưởng, bọn này không đến Phật đạo, biết rõ trừ tưởng không được thành Phật.
Cẩn đáp:
- Những trời người kia có quán có hướng, lấy định Vô tưởng vì vọng tưởng này mà sinh Trời kia, nếu có thể lìa quán lìa Vô tưởng định thì không còn vọng tưởng, chẳng sinh Trời kia. Kinh Kim Cương dạy: lìa tất cả các tướng gọi là chư Phật. Nếu nói kẻ lìa vọng tưởng không thành Phật vậy đi ra từ Kinh văn nào?
Hỏi:
- Theo Kinh Lăng-già dạy: người không Tam thừa là kẻ bất định tính trong năm chủng tính chúng sinh làgiả thuyết, không nên chấp như vậy chứ.
Lại đáp:
- Cách gọi năm chủng tính chỉ duyên chúng sinh có năm loại vọng tưởng bất đồng, cho nên nói tên có năm chủng, nếu lìa được vọng tưởng thì một loại cũng không, làm gì có năm, há lại lập phương tiện khác ư?
Hỏi:
Kinh Lăng-già nói: lời đã nói với Thanh văn thụ ký, hóa Phật – hóa Thanh văn thụ ký, theo điều này chỉ là mấy cái nghĩa Trung Niết-bàn đạo phương tiện điều phục chúng sinh, là Tam thừa. Nếu lìa khỏi tưởng thì không thể nói là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, bảo Vô tưởng không quán Đại – Tiểu thừa, chẳng phải không Đại – Tiểu. Thí như bậc Thanh văn sau khi chứng Niết-bàn thì không có chỗ quán gì thêm với Đại Thừahay Tiểu Thừa. Hạng Thanh văn này há nói là nhập Đại Thừa đạo chăng?
Cẩn đáp:
- Cách nói hóa Phật và hóa Thanh văn thụ ký là vì người Thanh văn chưa thấy Pháp thân cũng như Báo thân, chỉ thấy Hóa thân, cho nên Hóa thân thụ ký chính hợp lẽ ấy.
Lại hỏi:
Kinh Lăng-già dạy: lời ta đã nói thì tắt ngọn lửa thức gọi là Niết-bàn, không nói Niết-bàn đạo là Tam thừa.
Đáp:
- Kệ Kinh Lăng-già bảo những bậc Dự lưuNhất laiBất hoàn, A-la-hán quả đều là chư Thánh nhân, tâm họ mê hoặc hết. Tam thừaNhất thừa và Phi thừa mà ta lập ra, là nói cho ngu phu thiểu trí ưa tịch chư Thánh. Pháp môn đệ nhất nghĩa lánh xa ba hướng, trụ vào không cảnh giới, dựng Tam thừa nào nữa. Chư thiền và vô lượng, tam-ma-địa vô sắc cho đến Diệt thụ tưởngduy tâm bất khả đắc. Theo nghĩa lí Kinh ấy, Tam thừa đã nói đều là pháp môn phương tiện dẫn dắt chúng sinh. Lại Kinh Tư Ích nói: Võng Minh Bồ-tát hỏi Tư Ích Phạm Thiên rằng “Hành tất cả hành mà chẳng phải hành là gì?” Phạm Thiên nói: “Nếu người ngàn muôn ức kiếp hành đạo, nơi lẽ Pháp tính không thêm không bớt, bởi vậy nói hành tất cả hành mà chẳng phải hành. Tôi nhớ quá khứ a-tăng-kỳ kiếp, gặp vô lượng a-tăng-kỳ Như Lai thừa sự không sơ sót và thực hành mười hai đầu-đà khổ hạnh, vào núi học đạogiữ giới tinh tiếntrí tuệ đọc tụngtư duy đã nghe là chư Như Lai cũng không thấy thụ ký. Vì cớ sao? Vì y chỉ sở hành, do vậy nên biết là Bồ-tát làm ra tất cả các hạnh thì được thụ ký. Theo đạo lí này, cái nhìn Đại Thừa trong lẽ Pháp tính đều là tưởng giả dối, nếu lìa vọng tưởng thì không có nhìn Đại – Tiểu. Lại theo Kinh Lăng-già Mật Nghiêm nói:Thanh văn tuy lìa vọng tưởng phiền não, nơi bùn đất tập khí thí như người say mê sau đó tỉnh rượu dậy,Thanh văn kia cũng vậy, tham trước tịch diệt, ưa tam-muội lạc, vì sự say đó cho đến trường kiếp không giác (tỉnh dậy), sau khi giác sẽ thành PhậtThanh văn tham trước tịch diệt lạc cho nên không được nhậpĐại Thừa.
Lại hỏi:
- Cách nói Thanh văn trụ vô tướng, được nhập Đại Thừa không?
Đáp:
- Theo Kinh Lăng-già nói: nếu trụ vô tướng, không thấy nơi Đại Thừa, cho nên không chuốc lấy Vô tưởng định. Bởi vậy Kinh văn “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”.
Hỏi thứ hai:
- Lìa tất cả tướng gọi là chư Phật, Kinh nào nói vậy?
Cẩn đáp:
Kinh Kim Cương dạy: lìa tất cả tướng, tức gọi chư Phật. Lại trong các kinh Đại Bát-nhãLăng-giàHoa Nghiêm… cũng nói rộng đủ.
Lại hỏi mới hơn:
Kinh Kim Cương dạy: nếu liễu đạt các pháp, quán rồi sau đó không quán ấy là trí tuệ; nếu tu trọn tất cả thiện rồi sau đó không tu vì hóa chúng sinhĐại trí tự nhiên thành tựu, vì trước tiên nói nguyện lực. Vìphàm phu vọng tưởng chẳng sinh. Phàm phu vốn dĩ không đạt tất cả, còn chưa đủ các công đức, chỉ diệt vọng tưởng không được thành Phật. Để nói tóm gọn, hiểu tất cả pháp là trí, tu tất cả thiện pháp là phúc, là vì thành tựu tất cả như vậy cho nên trải qua nhiều kiếp vì nhân các phúc trí lực nên tam-muội vô quán từ đó mới tỏ. Lại Kinh Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội nói: vì mới tập quán được Tam-muội này, thínhư học bắn, ban đầu bắn giỏ tre, to như thân bò, về sau nhỏ dần, giống như lông tóc, cũng đều bắn trúng. Từ tập nơi quán là tiệm tu hành, lời chư Phật nói đều là Tiệm môn, không thấy Đốn môn.
Đáp câu hỏi mới thứ hai:
- Theo Kinh Lăng-già dạy: Phật bảo Đại Tuệ Bồ-tát nên chớ xem văn tựtùy nghi thuyết pháp, ta và chư Phật vì đều theo giải phiền não chúng sinh nên muốn khai diễn cho muôn loài bất đồng, khiến biến các pháp được hiện nơi tự tâm. Lại Kinh Tư Ích nói: nói lẽ Pháp tính, nếu người ngàn muôn ức kiếp hành đạo, với lẽ Pháp tính không thêm không bớt, nếu hiểu rõ lẽ này gọi là Đại trí tuệ. Ở trong lẽ Pháp tính tu và không tu đều là vọng tưởng. Theo đạo lí Pháp tính, nếu lìa vọng tưởngĐại trí vốn tự nhiên thành tựu. Nếu luận phúc – trí, càng không có đạo lí Pháp tính. Cũng như Pháp tính tam-muội đã nói: Tiệm – Đốn đều dochúng sinh tâm tưởng vọng tưởng thấy, bởi vậy Kinh dạy: Đại tuệ, vì vậy nên sinh thấy trong tưởng hòa hợp lìa nhân duyên sở tác, nếu lìa tất cả tưởng vọng tưởng, Tiệm – Đốn không thể nắm được. Nếu nói người lìa vọng tưởng không thành Phật đi ra từ Kinh nào? Cách nói Kinh Thủ-lăng-nghiêm dạy: người học bắn dần dà không duyên tâm tưởng tăng trưởng vọng tưởng, chỉ hợp khiến trừ vọng tưởng.
Hỏi câu hỏi thứ ba cũ:
- Nói tất cả tưởng thì tưởng ấy thế nào?
Đáp:
- Tưởng là tâm niệm khởi động và nắm ngoại cảnh, nói tất cả nghĩa là dưới đến địa ngục, trên đến chư Phật trở xuống. Kinh Lăng-già nói: các pháp vô tự tính, đều là vọng tưởng tâm thấy.
Câu hỏi mới thứ ba tưởng trên đến chư Phật, dưới đến địa ngụccần phải lâu dài thành tựu thiện pháp,lánh xa ác phápthực hành theo đó. Nếu không hiểu Phật, không biết địa ngục, như nói Vô minh trongmười hai nhân duyên, hạng phàm phu không hợp tu hành pháp này.
Câu hỏi mới thứ ba:
- Tất cả chúng sinh vì cớ xưa nay vọng tưởng phân biệt chấp trướcvọng tưởng về thiện ác pháp, hoặc giỏi thiện hoặc giỏi ác, do nhân duyên đó trôi lăn sinh tửxuất ly không được, vì vậy Kinh văn phàm hết mọi tưởng đều là giả dối, nếu thấy các tướng chẳng phải tưởng thì thấy Như Lai. Nếu công đức hiểu rõniệm này, qua vô lượng kiếp tu tập thiện pháp, không bằng một niệm công đức này. Lại còn bảo trong ngôi phàm phu không thích hợp học pháp này, tất cả sự tu tập thiện pháp thành Đẳng Giác của chư Phật Bồ-tát vô lượng kiếp đều lưu lại pháp cho chúng sinh Mạt Pháp đời sau giáo lệnh tu học, đã nói chúng sinh phàm phu không hợp học pháp này thì chư Phật Bồ-tát truyền dạy để lại cho ai? Phàm phu không hợp học pháp này lấy ra từ Kinh nào?
Hỏi:
- Tưởng có lỗi gì?
Đáp:
- Lỗi của tưởng là có thể ngăn Nhất thiết trí bản lai của chúng sinh, và ba nẻo ác lâu mãi trong luân hồi, nên có lỗi này. Kinh Kim Cương nói: cũng khiến lìa tất cả các tưởng thì gọi là chư Phật.
Câu hỏi mới thứ tư:
- Hoặc có cớ khiến tưởng được sinh trưởng hoặc khiến tưởng và xứ không sinh. Khi bậc phàm phu mớitu hành không được trừ tất cả tưởng?
Đáp:
- Các Kinh Đại Thừa nói: tất cả chúng sinh vì có phân biệt chấp trướcvọng tưởng lúc sinh lúc không bởi vậy trôi lăn sinh tửnếu có thể không chấp trước vọng tưởng lúc sinh lúc không liền giải thoátChúng sinh phàm phu không trừ được tưởng lấy ra từ Kinh nào?
Câu hỏi cũ:
- Nhìn tâm như thế nào?
Đáp:
- Soi ngược nguồn tâm, xem tâm tưởng nếu động có sạch hay không sạch, không hay chẳng không… tận đều không nghĩ không quán, ngay người không nghĩ cũng không nghĩ luôn. Cho nên trong Kinh Tịnh Danh nói: chẳng quán là Bồ-đề.
Câu hỏi mới thứ năm:
Bát địa Bồ-tát cứ trong Kinh Thập Địa chỉ nhập chẳng quán, Phật khiến nhập tu hành, theo sự này, phàm phu sơ địa ngay chẳng quán còn chưa được thì làm sao mà được?
Đáp:
- Theo Kinh Lăng-già nói: Bát địa Bồ-tát lìa tất cả quán và tập khí phân biệt, nghiệp thiện ác đã chịu vô lượng kiếp nay như tòa thành Càn-thát-bà, như huyễn hóa vậy, biết rõ bậc Bồ-tát vượt qua tất cả hành, đắc Vô sinh pháp nhẫn, sau đó được thụ ký, không nghe Bát địa Bồ-tát giáo lệnh tu hành. Kinh văn nói thế nào, chỉ hợp tìm kỹ lời trong Kinh dạy thì phàm phu chưa đắc sơ địa, kẻ không hợp không quán thì nghĩa này hợp hành chẳng hành, câu hỏi trước đã nói qua.
Câu hỏi cũ:
Phương tiện làm sao để trừ được vọng tưởng cũng như tập khí?
Đáp:
Vọng tưởng khởi không tỉnh gọi là sinh tửgiác tỉnh rồi không gây nghiệp theo vọng tưởng, không nắm không trụ, niệm niệm tức là giải thoátBát-nhã Bảo Tích Kinh dạy: không được chút pháp nào gọi là Vô thượng Bồ-đề.
Câu hỏi mới thứ sáu:
- Như trước đã nói, phàm phu sơ học há hiểu được Phật, Phật là đấng đã thành tựu?
Đáp:
Phàm phu tuy không bằng Phật và pháp mà Phật đã ngộ, theo Kinh văn đều lưu lại cho chúng sinh Mạt Pháp đời sau giáo lệnh tu họcnếu không như vậy thì pháp giáo để lại cho ai?
Lại hỏi:
- Phật nói không có chút pháp nào nắm được thì không thể chấp trước ngôn thuyếtNếu không chút pháp nào nắm được, người không nghĩ không quán lợi ích tất cả có thể không như vậy được chăng?
Đáp:
- Nghĩa này trước đã trả lời rồi, nay sẽ nói lặp lại lần nữa, Phật từ vô lượng kiếp tới nay đã lìa tâm được hay chẳng được, không tâm không nghĩ, giống như gương sángkhông tâm không nghĩ, lìa được hay chẳng được, nhưng ứng vật hiện hình theo chúng sinh, như dụ về nước hay dụ ánh mặt trời đều đồng đẳng nhau. Lại theo Kinh Nhập Như Lai Công Đức nói: chẳng phải không được chút pháp nào, là được tất cả pháp trái nghịch với nghĩa, câu hỏi trước đã nói phàm phu không hợp học pháp này, thế thì khi được vin vào Kinh văn Đại Thừa được công đức vô lượng vô biên như vậy huống gì tin nhận tu hành. Vì cớ nói vậy, đáp việc như vậy, vì vô sở đắc nên gọi đó là đắc, thật không hề trái với lí.
Câu hỏi cũ:
- Sáu Ba-la-mật và các pháp môn cần hay không cần?
Đáp:
Như pháp Thế đế: sáu Ba-la-mật vì bằng phương tiện hiển thắng nghĩa nên chẳng phải là không cần. Như thắng nghĩa lìa ngôn thuyết thì sáu Ba-la-mật và các pháp môn không thể nói là cần và không cần, các Kinh rộng nói.
Câu hỏi mới thứ bảy:
Thế gian và Đệ nhất nghĩa đế là một hay là khác?
Đáp:
- Không một cũng chẳng khác. Thế nào là không một? Vọng tưởng chưa tận đến nay thấy có Thế đế. Thế nào là chẳng khác? Lúc tất cả vọng tưởng tập khí, một hay khác chẳng thể phân biệt. Lại hỏi vìphương tiện này là hiển bày Đệ nhất nghĩa đế nên chỉ là kẻ độn căn, lại còn phải cùng cần thiết lợi và độn nữa ư?
Đáp:
Độn căn không hiểu rõ thắng nghĩa là cần, kẻ lợi căn chẳng luận cần hay không cần.
Lại hỏi:
- Sáu Ba-la-mật bằng với pháp môn khác, không nói là cần hay không cần, vì sao không thể nói?
Đáp:
- Là pháp, tính lí tức không thể nói. Cứ trong pháp tính lí, cần hay không cần, có một và khác hay không đều không thể được.
Lại hỏi rằng:
- Kinh văn rộng nói, làm sao nói là ngôn thuyết chẳng nên bảo cần hay không cần?
Đáp:
- Kinh văn rộng nói là nói cốt cho kẻ độn cănlợi căn chẳng luận cần hay không cần. Thí như người bệnh cần thuốc, người muốn vượt sông cần thuyền, người không bệnh thì chẳng nói cần hay không cần, vượt sông rồi thì không cần thuyền nữa.
Câu hỏi cũ:
- Khi sáu Ba-la-mật là cần thì làm sao tu hành?
Đáp:
- Kẻ tu hành sáu Ba-la-mật là trong là ngoài. Trong ngoài có hai loại, trong là tự độ, ngoài là lợi ích chúng sinhPhương tiện được tu hành là theo Kinh Bát-nhã, Lăng-già, Tư Ích, khi sáu Ba-la-mật không nghĩkhông quán với tất cả pháp, ba nghiệp thanh tịnh, như ánh dương ảo[3], không nắm không trụ với tất cả.
Câu hỏi mới thứ tám:
- Sáu Ba-la-mật khi đã nói tam nghiệp thanh tịnhphàm phu chưa thể làm được và tu tập trung gianchẳng quán, không tu hành đãi tam nghiệp thanh tịnh sau đó tu tập, còn chưa thể tịnh được tam nghiệpđể gắng tu, làm sao tu hành?
Đáp:
- Đã nói sáu Ba-la-mật có bốn loại, một là Ba-la-mật thế gian, hai là Ba-la-mật xuất thế gian, ba là Ba-la-mật xuất thế gian thượng thượng, bốn là sáu Ba-la-mật nội. Theo Kinh Lăng-già nói: khi rộng nói hay lược nói, lúc nếu được chẳng quán chẳng nghĩ, sáu Ba-la-mật tự nhiên viên mãn, chưa được trung gianchẳng quán chẳng nghĩ, việc cần làm sáu Ba-la-mật, chẳng mong mỏi quả báo.
Lại hỏi rằng:
- Ngựa hoang hay ánh dương thật là không hiểu?
Đáp:
- Ngựa hoang dụ cho tâm vọng tưởng, ánh dương dụ cho tất cả pháp tất cả thế gianVí như ngựa hoang khát thấy ánh dương tưởng là nước, thật chẳng phải nước, nếu lúc thấu rõ pháp thế gian như vậy tức làtam nghiệp thanh tịnh.
Câu hỏi cũ:
Tu pháp môn này sớm muộn được giải thoát chứ?
Đáp:
- Như Kinh Lăng-già và Kim Cương nói: lìa tất cả tưởng thì gọi là chư Phật, tùy căn tính mình lợi hay độn mà tu tập như vầytập khí vọng tưởng cạn hết rồi thì được giải thoát ngay.
Câu hỏi cũ:
- Lại hành pháp nghĩa này, có công đức gì?
Đáp:
Công đức của sự chẳng quán chẳng tưởng, nghĩ và quán chiếu không thể đong lường, mọi công đứccủa Phật nên thấy như vậy và chút phần như thế. Theo Kinh Bát-nhã nói nếu làm tất cả chúng sinh trời, người, Thanh vănDuyên giác chứng hết Vô thượng Bồ-đề, chẳng bằng nghe nghĩa Bát-nhã Ba-la-mậtnày, công đức kính tin tính toán không gì bằng nổi. Vì cớ sao? Người, trời, Thanh vănDuyên giác và các hàng Bồ-tát đều ra từ Bát-nhã Ba-la-mật, người – trời và hàng Bồ-tát không thể ra khỏi Bát-nhã Ba-la-mật. Lại hỏi sao gọi là Bát-nhã Ba-la-mật? Đáp: cái gọi không tưởng không nắm không xả không chấp gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Lại Kinh Nhập Như Lai Công Đức nói: hoặc có chuyện vâng hầu cúng dường Phậtsố vi trần khắp tam thiên đại thiên thế giới cho đến sau khi chư Phật kia diệt độ lại dùng bảy báu trang nghiêm tháp Ngài cao rộng ví như đại thiên thế giới, lại công đức cúng dường qua vô lượng kiếp, không bằng nghe pháp nghĩa này lắng nghe mà lòng không nghi, phước đức đạt được hơn cái kia gấp trăm ngàn lần. Lại Kinh Kim Cương nói: nếu có người đã dùng đầy bảy báu tam thiên đại thiên thế giới bố thícũng như hằng ha sa số thân mạng bố thí, chẳng bằng nghe một bài kệ bốn câu, phước ấy rất nhiều, không thể tỉ dụ. Trong các Kinh Đại Thừa rộng nói nghĩa này, phước đức ấy trừ Phật ra không có ai biết.
Câu hỏi mới thứ chín:
- Người khiến tất cả chúng sinh chứng hết Vô thượng Bồ-đề vì không bằng phước kia, Vô thượng Bồ-đềnày mới thành ra có cái hơn. Thế có phải không? Tiếp sau nói rằng hàng Vô thượng Bồ-đề đi ra từ Bát-nhã Ba-la-mậtVô thượng Bồ-đề không ra khỏi Bát-nhã Ba-la-mật, người không ra khỏi nói là dạng Bồ-tát nào? Nếu nói Vô thượng Bồ-đềtheo như nay hiện Bát-nhã Ba-la-mật tựa như thế, chỉ nói như vậy thìkhông thể là Vô thượng Bồ-đề.
Đáp:
- Đã nói người khiến tất cả chúng sinh chứng hết Vô thượng Bồ-đề vì không bằng phước này, phía trước đã nói chúng sinh phàm phu không hợp thực hành pháp này, vì vậy vin các kinh điển Đại Thừa và Bát-nhã Ba-la-mậtchúng sinh nghe pháp này sinh một niệm tịnh tín được công đức vô lượng vô biên như vậy, là so sánh công đức nên mới nói như vậy. Hiện có Kinh văn nói tất cả chư Phật và pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề của chư Phật đều từ Kinh này ra. Nay lại hỏi có cái hơn Vô thượng và dạng Bồ-tát nào, Kinh văn hiện tại cứ kiểm thì biết.
Câu hỏi cũ:
- Nếu lìa tưởng chẳng nghĩ chẳng quán, làm sao đắc Nhất thiết chủng trí?
Đáp:
- Nếu vọng tâm không khởi, lìa tất cả vọng tưởng thì chân tính bản hữu và Nhất thiết chủng trí tự nhiênhiển hiện. Như các Kinh Hoa Nghiêm và Lăng-nghiêm nói: như mặt trời ló dạng, nước đục lọc trong, gương được sáng sạch, như bạc khai khoáng…
Câu hỏi mới thứ mười:
- Lời này là thật, thế thì đã thành tựu đủ pháp của đấng thế lực, chẳng phải là pháp của phàm phu.
Đáp:
- Nghĩa này đã trả lời ở trước rồi, nay lại hỏi nữa, ví như bông sen ra khỏi bùn lầy thì sạch sẽ tươm tất, rời khỏi bụi nhơ, chư Thiên và quý nhân nhìn thấy kính trọngA-lại-da thức cũng lại như thế, rời bùn tập khí mà được trong sáng, được chư Phật Bồ-tát và trời người kính trọngchúng sinh phàm phu cũng lại như vậy, nếu được ra khỏi bùn lầy tập khí phân biệt vọng tưởng ba độc vô lượng kiếp nay vẫn đượcthành tựu cái thế đại lực. Phàm phu vì bị vọng tưởng ba độc che lấp cho nên không ra khỏi cái sức đại thế.
Câu hỏi cũ:
- Nếu quán trí làm sao lợi ích chúng sinh?
Đáp:
- Người chẳng nghĩ chẳng quán lợi ích chúng sinh trong Kinh Nhập Như Lai Công Đức có nói, như ánhmặt trăng mặt trời chiếu soi tất cả, ngọc báu như ý xuất trọn tất cả, mặt đất có thể sinh tất cả. Lại hỏi rằng chấp cảnh, chấp thức, chấp trung luận trong ba pháp này, nay theo nguồn nào? Đáp: nghĩa này làBát-nhã Ba-la-mật vô tư Đại Thừa Thiền môn, trong nghĩa vô tư (không nghĩ) làm gì có ba luận. Rộng nói Kinh Bát-nhã thì một cũng chẳng lập.
Câu hỏi mới thứ mười một:
- Nghĩa này là Bát-nhã Ba-la-mật vì cầu Bát-nhã Ba-la-mật, nếu người đủ Trí tuệ Ba-la-mật, năm Ba-la-mật kia tu với không tu cũng được.
Lại đáp rằng:
- Đã nói Thiền không tương tự thì trong Kinh Bảo Tích nói Thiện Trụ Ý thiên tử bạch Văn-thù-sư-lợi rằng: “Đại sĩ đã nói bậc Tỳ-khưu thiền hành, những gì gọi là bậc Tỳ-khưu thiền hành?” Văn-thù-sư-lợi nói: “Thiên tử! Không có chút pháp nào nắm được đó là thiền hành.” Lại trong Kinh Mật Nghiêm nói nếu có aitu hành được định nhiệm mầu của Như Lai, khéo biết uẩn vô ngã, thấy các thứ đều trừ diệtKinh Tư Íchnói: không trụ gì với các pháp đó gọi là Thiền Ba-la-mậtKinh Lăng-già nói: chẳng sinh phân biệt, không khởi quan điểm Niết-bàn của ngoại đạo thì đó gọi là Thiền Ba-la-mật. Và các kinh điển Đại Thừa đều nói như vậy. Theo đạo lí này, chúng sinh Mạt Pháp giáo lệnh tu học. Vì sao được biết? Các Kinh Đại Thừanói: vì chúng sinh Mạt Pháp trí tuệ kém cỏi cho nên rộng nói. Nếu có người nghe thấy pháp này tức công đức không thể lường, huống gì tin nhận vâng làm.
Câu hỏi cũ:
- Nghĩa đã như vậy, vì sao các Kinh rộng nói?
Đáp:
- Như các Kinh đã nói, chỉ nói vọng tưởng chúng sinh, nếu lìa vọng tưởng thì còn pháp nào đáng nói nữa. Cho nên Kinh Lăng-già nói: tất cả các Kinh chỉ nói vọng tưởng chúng sinhChân như không nằm trongngôn thuyết.
Lại hỏi:
Chúng sinh vốn dĩ là có Phật tính, vì sao biết được cái vốn dĩ đó? Như ngoại đạo nói có ngã, khác gì nhau đâu?
Đáp:
- Vốn dĩ có Phật tính như mặt trời ló dạng, nước đục lọc trong, gương mài trong sáng. Như chín mươi lăm thứ ngoại đạo phải nói tóm lại là không biết sự biến đổi ba cõi duy tâm, bạc ra trong mỏ, nung thép lại nguội, trước đã nói rồi. Chẳng giống với cái ngoại đạo kêu là có ngã đâu, thấy có sự làm; thấy có sự biến đổi theo thời; hoặc chấp có không, quán Không trụ; thấy một bên, vì vậy chẳng giống. Kinh Lăng-già rộng nói.
Lại hỏi:
- Gọi chúng sinh là sao?
Đáp:
Chúng sinh là từ đủ thứ vọng tưởng và năm ấm ba độc nên mới có.
Lại hỏi:
- Gọi người Nhị thừa là sao?
Đáp:
- Người Nhị thừa là thấy tất cả hữu từ nhân duyên sinh, hiểu tất cả được sinh bởi nhân duyên hòa hợp,vô thường – khổ – không, vì chán nỗi khổ nên ưa Niết-bàn, trụ nơi rỗng lặng, duyên hữu thủ xả, nên gọiNhị thừa. Kệ rằng: “Vốn không mà có sinh, sinh rồi thì lại diệt”, nhân duyên có chẳng có không trụ giáo pháp Ta. Đãi có nên thành không, đãi không mới thành có, không thì chẳng thể nắm, có cũng chẳng thể nói, không hiểu ngã hay vô ngã, nhưng chấp vào ngôn ngữ thì kẻ đó chìm vào hai lằn (nhị biên), hoại mình lẫn hoại người, nếu có thể hiểu điều này thì chẳng hủy đạo của bậc đại sư, đó gọi là Chính quán. Nếu tùy lời nắm nghĩa, dựng lên với các pháp, vì sự dựng lên kia nên chết đọa vào địa ngục.
Thần, Sa-môn Ma-ha-diễn nói:
- Thần nghe người có thể hoằng đạo chẳng phải là người hoằng đạo, nhờ Đại Thánh lâm triều xiển dương Chính Pháp, tuy được hóa độ bằng Tam thừa nhưng khiến quay về cánh cửa Bất nhị, vì thương sinh mê ngu mà xét tận Thắng đế. Điều thần đã nói không nghĩa đáng nghĩ, Bát-nhã chân tông khó tin khó nhập, chẳng phải bậc đại trí có thể dò ý, há kẻ hiểu biết nhỏ nhen lần nghe được nổi sao. Vào thuở đức Phật mở giáo, dựng ra năm trăm Tỳ-khưu, Như Lai vẫn còn chưa chế, lời lui cũng rất đẹp. Huống chi thần già nua, tâm phong đã nói, quên mất trước sau, chỉ mong bệ hạ phước lực gia hộlí tính trợ tuyên, thật mong mỏi và từ bi, dứt hết tranh luận này thì chư Thiên thảy đều hoan hỷtăng ni họ và tôi tự không có gì. Thần theo lời hỏi mà diễn Kinh, chẳng phải là tin miệng mà nói dối, mà cậy theo lá bối truyền thẳng mở cửa Thiền, nếu tìm văn cứu nguồn vẫn giống nói thuốc mà cầu khỏi bệnh. Biết rằng cư sĩ im lặng, khen ngợi điềm lành, tâm tương ưng thì danh nào có. Nếu cần vặn hỏi thì thần có học trò giỏi giắn vàthông minh lợi căn còn hậu sinh khả úy. Thầm mong chấp nhận lời cầu của thần, sai tu lẫn tục vâng noi theo, kiêm bản tập Thiền tông của thần, cẩn ghi như sau tiến dâng. Theo Kinh Tư Ích nói: Võng Minh Bồ-tát vì sao tất cả hành chẳng phải hành? Phạm Thiên nói: nếu người hành đạo trong ngàn muôn ức kiếp, không tăng không diệt với lí pháp tính. Lại Kinh Tư ÍchPhạm Thiên bạch Phật: “Bồ-tát vì sao làm chưPhật thụ ký?” Phật nói: “Nếu Bồ-tát không hành tất cả, chư Phật bèn thụ ký.” Phật nói: “Ta nhớ quá khứgặp gỡ vô lượng a-tăng-kì chư Phật Như Lai thừa sự không sơ sót và thực hành sáu Ba-la-mật, kiêm hành đầu-đà khổ hạnh, Phật trọn không thụ ký, vì cớ sao? Vì tâm sở hành. Vì vậy nên biết nếu Bồ-tát ra khỏi tất cả các hành, Phật bèn thụ ký. Ta nhớ quá khứ hành vô lượng đầu-đà khổ hạnh và sáu Ba-la-mật hạnh, tất cả hành, chẳng bằng một niệm không làm công đức. Lại hỏi: “Văn-thù-sư-lợi, vả có vô sở hành gọi là Chính hạnh không?” Đáp rằng: “Có. Nếu không hành tất cả pháp hữu vi, gọi là Chính hạnh.” Bất Thối Chuyển Bồ-tát bạch Phật rằng: “Đã nói hành giả tùy pháp gọi là gì?” Phật bảo thiên tử: “Hành giả tùy pháp không hành tất cả pháp, gọi là tùy pháp hành.” Trong Kinh Lăng-già nói Đại Tuệ Bồ-tát bạch Phậtrằng: “Trong Tu-đa-la nói Như Lai Tạng bản tính thanh tịnhthường hằng chẳng đoạn, không có biến dị, đủ ba mươi hai tướng, ở trong thân của tất cả chúng sinh, do bị vấy bẩn bởi sình nhơ phân biệt vọng tưởng như tham, đắm, giận, si… trói buộc trong tấm áo dơ uẩn – giới – xứ, như ngọc vô giá nằm trong áo bẩn. Ngay Mật NghiêmPháp HoaKim Cương tam-muội, Pháp Hoa Phổ Siêu tam-muội, cùng tất cả các Kinh Đại Thừa chuyền đủ ý nghĩa này. Theo đạo lí ấy, Phật tính bản hữu chẳng phải tu hành. Nhưng lìa ba độc giả dối, áo dơ tập khí vọng tưởng, bèn được giải thoát. Như thức A-lại-da ra khỏi bùn tập khí, chư Phật Bồ-tát gặp đều tôn trọngKinh Tư Ích nói: nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ có thể tin hiểu pháp nghĩa như vậy thì nên biết người đó được giải thoát các kiến, nên biết người đó được Đà-la-ni, nên biết người đó thực hành Chính niệm quán, nên biết người đó hiểu thấu nghĩa thú các pháp. Các Kinh Lăng-già, Tư ÍchThiền tông nói không Thừa và Thừa là không có Thừa để kiến lập, ta nói là Nhất thừa.Kinh Pháp Hoa dạy: mười phương nước chư Phật không hai cũng không ba, chỉ có Nhất Phật thừa, trừ Phật phương tiện thuyết. Trộm cho thấy Tam thừa này mới là pháp môn dẫn dắt chúng sinhKinh Đại Phật Đỉnh nói: vì mê nên nói ngộ, nếu ngộ rồi thì mê ngộ đều không thể nắm được. Do chúng sinh mê vọng tưởng nên mới nói lìa vọng tưởng, nếu mê được tỉnh ngộ thì tự đâu có vọng tưởng nào mà lìa. Nay các câu hỏi mà thần trả lời đều dẫn Kinh văn. Phật vì người tin thi hành khiến công đức bất hủ, thánh đứcbỗng nhiều, mãi mãi thấm nhuần thứ dân, kính dâng biểu cho nghe, không bằng lòng xấc xược nào cả. Thần là Sa-môn Ma-ha-diễn thật vui thật mừng lạy đầu lạy đầu. Cẩn nói: ngày 17 tháng 6. Thần Sa-môn Ma-ha-diễn dâng biểu.
Thần, Sa-môn Ma-ha-diễn nói:
- Vào ngày Sa Châu giáng xuống, vâng ơn lệnh Tán-phổ (Tsenpo) đi xa để khai thị Thiền môn và đến người La-sa cùng hỏi thiền pháp, vì chưa phụng tiến ngưng, đâu dám nói càn, lại đi đến Cát-lũ nhờ thánh chủ hỏi han, lại đi đến La-sa giáo lệnh dạy thiền, lại ở Chương-tha và Đặc-tiện La-sa mấy tháng răn dạy, lại ở Bột-bằng-mạn tra xét nguồn cơn, chẳng phải một dịp. Bệ hạ đã hiểu tông chỉ Thiền môn thần giảng nói là đúng đắn mới sai cho đồng khai Thiền giáo cùng vị Đạt-ma, bắt đầu sắc lệnh ban xuống các nơi khiến trăm họ quan liêu biết hết. Bệ hạ còn xem qua sáng trọn thắng nghĩa, hiểu thấu lời lẽ bâng quơ của thần, nói vua tôi theo làm, tự nay nếu có người nghi thì thầm mong thiên ân giải quyết. Vả điều thần nói trước sau đều trả lời câu hỏi theo Kinh văn, cũng không phải bản tông Thiền môn của thần. Nguồn tông của thần là lìa tất cả tướng ngôn thuyếtlìa tướng phân biệt tự tâm, tức là Chân đế, đều mặc truyền thầm trao, dứt đường ngôn ngữ. Nếu khổ luận chẳng phải được mất, lại thành có tịnh tam-muội. Như nước cùng một vị, dù thấy khác nhau, trí năng nhỏ lớn, thật khó dùng ngang. Chỉ mong tùy cái người vui tu hành, tự mình chặt đứt pháp và ngã, thì thần rất ư vinh hạnhthỏa lòng mọi người, kính dâng biểu trần tình để nghe, cho thỏa tấc lòng tâm huyết. Thần Ma-ha-diễn kính sợ rạp cúi đầu cúi đầu cẩn nói: Ma-ha-diễn nghe tâu là Phật Pháp nghĩa tịch Thiền giáo lí, trước sau luôn nhờ cho câu hỏi mới có kiến giải, hết mực đối đáp, kể cả sáu Ba-la-mật và các thiện pháp cần tu hay không tu? Ân sắc luôn răn, kiêm cả sư tăng liêu cũng luận sáu Ba-la-mật và các điều thiện, tự mình không làm, đệ tử và người khác cũng không dạy tu hành, các đệ tử cũng học như vậy, lại có người tâu nghe. Nhưng đệ tử thần truyền dạy đều theo chỉ thị Kinh văn, làm việc thần làm và dạy pháp môn cho đệ tử kiêm trình mức đệ tử đã tu, đủ các thứkiến giải tiến dâng. Vì chúng sinh phàm phu sức yếu, theo lí tu hành và sáu Ba-la-mật cũng không trái nhau. Sáu Ba-la-mật và các điều thiện đó cần làm hay không làm, điều trước sau trả lời ước theo thắng nghĩa, không nói là làm hay không làm. Luận pháp thế gian cho đến tam quy y một chắp tay phát nguyệnlớn nhỏ các điều thiện trên dưới đều vì nói hết, thảy khiến tu hành. Diễn hòa thượng dạy nơi môn đồ con em, Sa-môn Thích Diễn nói: pháp tính khắp ngôn thuyết chỗ mà trí không với tới, người tập thiền khiến nhìn tâm nếu lúc niệm khởi chẳng quán chẳng nghĩ có hay không, người không nghĩ cũng chẳng nghĩ đến, nếu lúc tâm tưởng khởi chẳng giác tùy thuận tu hành tức luân hồi sinh tử, nếu giác không thuậnvọng tưởng gây nghiệp tức niệm niệm giải thoát, lìa tất cả chư Phật. Ở trong thắng nghĩa lìa tu không tu, nếu luận pháp thế gian, giả ba nghiệp thanh tịnh, không trụ không nhìn thì thực hành sáu Ba-la-mật. Bên ngoài lại giữ giới Thanh văn, bên trong giữ giới Bồ-tát, hai loại giới này có thể trừ tập khí ba độc. Người đã tu hành thì nói suông vô ích, sự cần tu hành theo không thủ xả, tuy nói ba đường ác, trời, người, ngoại đạoNhị thừa thiền khiến họ hiểu biết, không bắt làm theo, tất cả chúng sinh ba cõi từ nghiệp nhà hiện sự thay đổi của tâm giống như ảo ảnh ánh dương, nếu thông đạt lí tính Chân như tức là tọa thiền, nếu chưathông đạt thì nên giở Kinh rồi chắp tay lễ bái tu thiện, phàm tu công đức chẳng qua dạy răn khiến hiểupháp môn Đại Thừa, giống như ngọn đèn tỏa ra trăm ngàn chuyện, pháp thí để lợi quần sinhCả đời Ma-ha-diễn đến nay chỉ tập thiền Đại Thừa, không phải pháp sư, nếu muốn nghe pháp tướng thì khiến cho nghe bên cạnh pháp sư Bà-la-môn. Điều Ma-ha-diễn nói không theo sớ luận mà theo chỉ thị Kinh văn Đại Thừa, cái mà Ma-ha-diễn tu tập là tin nhận vâng làm theo các Kinh: Đại Bát-nhãLăng-giàTư ÍchMật NghiêmKim CươngDuy-maĐại Phật ĐỉnhHoa NghiêmNiết-bànBảo TíchPhổ Siêu Tam-muội… Ma-ha-diễn y chỉ hòa thượng pháp hiệu Hàng Ma Tiểu Phúc Trương hòa thượng, kính ngưỡng Đại PhúcLục hòa thượng, cùng dạy răn Thiền môn Đại Thừa. Từ khi nghe pháp đến nay, qua 5-60 năm, cũng từng ở lâu dưới cây nơi rừng cội, tài vật tín thí có được từ xuất gia tới giờ cũng từng cất chứa, tùy thờiđều chuyển thí hết cả, mỗi sớm mai làm thí chủ đến tất cả chúng sinh một quyển Kinh Đại Thừađốt hương tùy pháp thế gian đều phát nguyện xin thế gian yên bình, muôn loài lặng vui, sớm được thành Phật. Cũng đã từng lên ba chốn trong kinh thành đệ tử nghe pháp tin nhận chừng hơn năm ngàn người, hiện khiến đệ tử Sa-di chưa thể tu thiền, đã dạy tụng được một bộ Lăng-già, một bộ Duy-ma, mỗi ngày luôn tụng. Những đệ tử mà Ma-ha-diễn đã dạy dỗ ngày nay mỗi người hỏi theo chỗ mình kiến giải, duyênbố thí ruộng sự, nếu có người xin thân, đầu, mắt và cần các vật thì thề nguyện xả hết, ngoại trừ mười tám việc, ít có người chứa tiền vật đáng giá. Cũng có ngoại trừ giới Thanh văn còn trì thêm giới Bồ-tát và hành mười hai đầu-đà kiêm kiên cố, lại tin thắng nghĩatinh tiến ngồi thiền, vẫn luôn tập Đà-la-ni, vì lợi íchchúng sinhxuất gia cúng dường Tam Bảo, chuyển tụng tu thiện, trong thiền vô quán của Đại Thừachẳng phân duyên sự, thường tập bằng trí tuệ không vu vơ, hay tụng nghĩa lớn, nắm nghĩa tin ưa Bát-nhã Ba-la-mật rất nhiều, cũng vì Tam Bảo khi lợi ích chúng sinh, không tiếc thân mạng nguyện lòng rất nhiều, lúc vì người khác nói nghĩa Niết-bàn vượt qua ngôn thuyết kế độ giới, hoặc tùy thế gian quy y Tam Bảolần lượt tu thiện, không học văn tự cũng như chuyện vô ích, nên học tu hành. Lúc chưa tọa thiềny GiớiBa-la-mật, Tứ vô lượng tâm… và tu các điều thiện, thừa sự Tam Bảo, mọi điều đã nói trong Kinh, điềusư tăng đã dạy, người nghe như thuyết tu hành, thế nhưng tu các điều thiện nếu lúc chưa thể chẳng quán thì mọi công đức hồi hướng thí cho chúng sinh, đều khiến thành Phật.
Nguyễn Thành Sang.
Thủ Dầu Một, 31-5-2017, dịch xong. 


[1] Ma-ha-diễn chính là tác giả của bộ Đốn Ngộ Đại Thừa Chính Lý Quyết. Kham-bố Ma-ha-diễn tức làhòa thượng Ma-ha-diễn, Ma-ha-diễn là phiên âm của Mahāyāna trong tiếng Phạn, nghĩa là Đại Thừa hòa thượng. Ma-ha-diễn nguyên là một thiền tăng người Hán đời Đường, thuộc pháp môn Đông Sơn. Ông làthiền sư của Thiền phái Bắc tông (hệ Thần Tú), trụ trì chùa Ly Sơn ở Trường Sa. Thiền Bắc tông về sau bị sự phê phán và đả kích mạnh mẽ từ phía thiền sư Nam tông của Hà Trạch Thần Hội. Sau đó ông rời khỏi Trường Sa, đi đến dải Sa Châu (thuộc Đôn Hoàng) để hoằng pháptrở thành nhân vật trọng yếu củaThiền Bắc tông. Năm 786, dưới sự thống trị của vua Xích-tùng-đức-tán (Trisong Detsen), Thổ-phồn (Tây Tạng) vây đánh Sa Châu, bấy giờ Phật giáo hưng khởi tại Thổ-phồn, vì thế thiền tăng Sa Châu đượcthỉnh mời đến Lhasa hoằng pháp và dịch kinh không ít, Ma-ha-diễn chính là vị thiền tăng rất nổi tiếng trong số đó. Trong thời gian hoằng pháp tại Lhasa, Thiền tông dùng những giáo lý dễ hiểu như vô niệmvô tưởng, không tác ý… giành được số lượng lớn tín chúng. Theo ghi chép Hán văn khai quật ở Đôn Hoàngvương phi của Xích-tùng-đức-tán là Một-lô Tát-trì-khiết-mạc-tán (pháp danh là Giáng-cầu-khiết-tán), di mẫu và vương tử Da-tì (Sumpa) đều tu theo và bái Ma-ha-diễn làm thầy. Ngược lại, Mật tông đến từ Thiên Trúc lại bị đòn giáng cực mạnh, hai bên trở nên đối nghịch chẳng dung như nước với lửa, mỗi bên tự viết luận phẩm để tiến hành công kích và hủy mạ đối phương. Năm 792, tăng nhân Thiên Trúc làđại sư Liên Hoa Giới (Kamalaśīla) dâng thỉnh xin cấm chỉ Thiền tông, Ma-ha-diễn tâu xin biện luận với tăng nhân Thiên Trúc, kẻ nào thua phải chủ động rời khỏi Lhasa. Thiền tông Hán truyền và Mật tông Thiên Trúc cử hành tranh luận tại chùa Tang-da (Samye Gompa). Cuộc biện luận đó được gọi là “pháp tranh Lhasa”, kéo dài 3 năm, cuối cùng hai bên đã lắng cơn biện luận, nhưng kết quả vẫn mơ hồ không rõ. Sử thư Tạng truyền Phật giáo về sau phần nhiều ghi chép rằng: Xích-tùng-đức-tán nhận định là Thiền tôngđã thua, tăng nhân Thiên Trúc giành được thắng lợi, Ma-ha-diễn bị thua phải dâng vòng hoa lên cho Liên Hoa Giới và sau đó chủ động dắt tăng nhân Thiền tông rời khỏi Lhasa quay về Đường triều. Tuy nhiên, trong văn bản Đốn Ngộ Đại Thừa Chính Lý Quyết khai quật tại Đôn Hoàng (năm 794) lại ghi ngược lại: Ma-ha-diễn giành thắng lợiThiền tông được Xích-tùng-đức-tán cho là hệ phái chính thống và được hoằng dương.     
[2] Thần Tú: cùng thời với Lục Tổ Huệ Năng đều là đệ tử của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trong Thiền tông Trung Quốc. Sau này Huệ Năng là tổ của thiền Nam tôngThần Tú là tổ của thiền Bắc tông.
[3] Trong Phật giáo hay dùng từ “dương diễm” tức là ảo ảnh của ánh nắng mặt trời. Buổi trưa ra đường hay gặp ánh nắng mặt trời phả xuống phía trước hiện nên ảo giác giống như có nước, nhưng thật ra không phải.