Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

Hoa Nghiêm- Bài 32- Ý nghĩa Phật Tri kiến & Nhập Pháp Giới.

Kinh Hoa Nghiêm kết hợp mười loại thân trên làm thành một Đức Phật toàn diện (không) và cũng là tổng thể của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí tuệ, chi phối ngược xuống chín loại hình, từ hàng thánh giả cho đến người thường và cả loài hữu tình, vô tình trên thế gian này.
Về chúng hội: Mười loại thân trên tức là mười hạng người hiện diện trong pháp hội. Những người có mặt đây đã hoàn toàn thánh thiện, tâm ý hướng về Phật Pháp, đã gieo trồng phước lành trong vô lượng kiếp, đã từng cúng dường chư Phật nên có nhân duyên lớn với Phật Pháp Đại Thừa.
Chúng hội trong Hoa Nghiêm toàn là hàng Bồ Tát sơ phát tâm nên Kinh Hoa Nghiêm thuộc về biệt giáo.
Về thời gian: Dựa trên thời gian lịch sử, Phật thuyết Kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày; “Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật”, lúc Ngài mới thành Đạo dưới Bồ Đề Đạo Tràng. Nhưng Hoa Nghiêm thuộc về thế giới siêu thực nên thời gian không có những phần vị như quá khứ, hiện tại, vị lai, vì chúng hợp lại thành ngẫu lực đơn nhất của các hiện tại miên trường, quá khứ, tương lai được cuộn tròn trong giây phút giác ngộ hiện tại, nó vận hành bất tuyệt giữa lòng hiện tại miên viễn này nên Phật an trụ trong trụ xứ vô trụ của Ngài.
Về không gian: Không gian trong Hoa Nghiêm không phải dàn cảnh phân chia bởi núi, rừng, sông, biển, sáng tối có hình hay không có hình. Không gian ở đây được kết cấu thành một khối đơn nhất thể hiện tính tương dung tương nhiếp của vạn hữu, “Một trong tất cả, tất cả trong một” . Không gian sáng ngời suốt đã làm nổi bật ý tưởng châu biến hàm dung của thế giới Hoa Nghiêm.
Về vũ trụ: Không gian và thời gian của Hoa Nghiêm thuộc về tâm lý siêu thế vượt ngoài ngã và ngã sở hữu chỉ thuần nhất để tạo thành pháp giới, khác với thế gian giới. Pháp giới không tách rời thế gian giới “Phật pháp tại thế gian” nhưng chúng không phải là “một” khi chưa đạt đến thế giới tâm linh nơi Bồ Tát đang sinh hoạt, như những nhà học thuật họ rất giỏi nhưng họ không thể nào giống những bậc chân tu được vì họ chỉ nghiên cứu Phật Học, chứ cuộc sống không dính líu gì đến Phật Pháp mà họ am tường. Trong Đạo Phật thường dùng câu “Ẩm thuỷ tự lãnh noãn tri” nghĩa là “người uống nước tự biết vị của nó như thế nào”. Cũng vậy, người an trụ pháp mầu cũa Đức Phật, tụng Kinh, tham thiền, lễ bái với tất cả tấm lòng, mới hiểu được thế giới Phật, từ đó nhẹ nhàng bước vào thế giới Hoa Nghiêm. Đây cũng chính là con đường hành giả “Nhập Pháp Giới”....
Như vậy Kinh Hoa Nghiêm có cái nhìn về Đức Phật khác hẳn các hệ tư tưởng khác và đương nhiên cũng khác với lịch sử thông thường mà chúng ta học.
Đối với Kinh nếu chúng ta dùng “Tri thức” không thể đi vào Đạo, chỉ có “Duy Phật nãi năng kiến tận chư pháp thực tướng” (Chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu được thực tướng của vạn pháp). Vì dùng “Trí tuệ và niềm tin” của chính mình đi vào Đạo thì sẽ có thể nhận thức được cái gọi là “Bất khả tư nghì” .(lượt trích Luận văn nghiêng cứu k . Hoa nghiêm)
+++++++++++++++++
Bình giảng về vấn đề “Tri thức” khi nghiêng cứu Chân lý.
(Fb: Viên Dung) có nhận thức:
Tri kiến của con người mà nhập đạo được ư ! Thiệt là muốn nấu cát thành cơm !
Muốn biết ít nhiều về Đại Đạo hãy rời mọi sở tri kiến đi.
Nhưng không diệt nguyên thức, thức vô công dụng thì Đạo khai.
Khi Đạo khai mà thức vẫn luôn vô công dụng, từ đây mới gọi là thể nhập.
Nếu chưa đến đây mà khởi tâm luận đạo thì đạo ấy chỉ là đạo tục đế mà thôi. (hết trích) Viên Dung
Vâng! VQ cũng đồng nhận thức như thế.- Vì lẽ: Tri kiến của con người là "Dụng" của Tâm, chứ chưa phải là Tâm !
TÂM là gì ?
- Đáp: Loài Hữu tình (như con người) đều có TÂM.
TÂM có 2 biểu hiện: 1. Bản Thể (Tịch- tịnh) 2. Hiện Tượng (Chiếu- động).
* Con người chỉ nhận biết và Chấp thủ phần Chiếu làm Ý Thức (còn cho là linh hồn, là Tâm ! ).- Thật ra dù là chấp thủ phần Chiếu, hoặc là chấp thủ phần Tịch.- Thì đều là thể bất toàn của Tâm. Nhà Phật gọi là VỌNG TÂM.- Cái Vọng Tâm này bị nhà Phật bác bỏ (gọi là Vô minh).- Đó là TRI KIẾN của CHÚNG SANH.
* Hành giả đệ tử Phật, nhận ra Chân Tâm (là Chân- Vọng- Tịch- Chiếu đồng thời) .- Đó là Như Lai Tàng Tâm.
Kính các Bạn. Ở Giáo lý Nguyên Thuỷ PG và Giáo Lý Duy Thức PG. Thì Tâm chính là Thức. - Thức là Tri kiến.
* Vì như trên đã nói: Vọng Tâm- Tri kiến chỉ là thể Bất toàn của Tâm nên chúng luôn luôn bị lệch lạt không đến được Chân lý. Muốn đến được Chân lý cúng ta ta cần có TRI KIẾN VÔ KIẾN (Tri kiến Phật).- Tri kiến Phật này phải Thiền Quán mới thẩm nhập.
Thiền quán là tự hỏi mình.
Thiền quán là trạng thái Vô Tâm.(Tri kiến Vô kiến)
Con người ở trạng thái Vô Tâm mới ngưng suy nghĩ phân biệt. Nghĩa là thoát khỏi sự cuốn hút của Thức.
Suy nghĩ phân biệt là để Duyên Sanh Diệt dẫn dắt mình sanh tử.
Trạng thái Vô Tâm là trạng thái tịch tĩnh của vạn pháp. Là giải trừ 6 Thức. Cụ thể là Ý Thức.
Vâng Vô Tâm là trạng thái "giải trừ Ý thức", là KHÔNG VỌNG TƯỞNG PHÂN BIỆT. là Không Vọng Tâm.- Đây là: Tri kiến Phật, là Y Trí Bất Y Thức (tứ y Pháp mà Đức Phật dạy.- khi tu học kinh điển).- Và đây cũng là vấn đề Tri kiến “Trí tuệ và niềm tin” mà bài viết này hướng đến, nhầm Nhập Pháp Giới ở kinh Hoa Nghiêm.
Có thể là hình ảnh về đền thờ và văn bản cho biết 'NGỘ NHẬP PHẬT TRI KIẾN'
Tất cả cảm xúc:
3

Hoa Nghiêm- Bài 31-10 Thân Phật.

NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI TRONG KINH HOA NGHIÊM QUA HÌNH ẢNH THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ. Thích Nữ Tâm Thảo (luận văn nghiêng cứu K. Hoa Nghiêm).
(VQ Lượt trích & Bình giải.)
* Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Đức Phật là tất cả, thông cả vũ trụ, lấy vũ trụ làm pháp giới. Báo thân Tỳ Lô Giá Na Phật ở thế giới Liên Hoa Tạng thuần tịnh giáo hóa hàng Bồ Tát. Đức Phật Thích Ca là hóa thân ở thế giới Ta Bà tùy thuận chúng sanh, dùng vô số phương tiện giáo hóa. Phật tùy căn cơ chúng sanh hiện thân tuy một mà hai, tuy hai mà một không hơn kém khác nhau vậy.
“Tỳ Lô Giá Na” dịch Phổ Quang Minh Chiếu, tiêu biểu cho ánh sáng trí tuệ tuy không thấy nhưng phổ chiếu toàn diện và chi phối tất cả. Từ Tỳ Lô Giá Na tiêu biểu qua hình ảnh Phật với mười loại thân, khác với quan niệm thông thường cho rằng thượng đế tạo ra con người và vũ trụ. Quan niệm về Phật thân trong Kinh Hoa Nghiêm được Ngài Trí Giả Đại Sư ví như hoa sen trong hồ lớn, có cái còn nằm trong bùn, có cái vượt lên mặt nước, hoặc nở hoa, hoặc còn búp. Nói khác ngũ uẩn phát triển đạt đến đỉnh cao Tỳ Lô Giá Na chi phối muôn loài.
Mười loại thân Phật trong Kinh Hoa Nghiêm:
1. Chúng sanh thân: Tức là thân ngũ uẩn. Đức Phật cũng hiện hữu từ thân ngũ uẩn, mà tiếp đến quả vị toàn giác, vì Ngài không bị ngũ uẩn chi phối. Trong khi chúng sanh cũng mang thân ngũ uẩn nhưng bị nó ràng buộc triệt để, nên luôn gánh chịu những khổ đau sanh tử.
2. Quốc độ thân: Từ ngũ uẩn làm gốc, nảy sinh ra sự sống, hiện thân thứ hai là quốc độ thân chỉ cho sơn hà đại địa. Theo tinh thần Hoa Nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn mởn, cá bơi chim liệng, hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh, khiến người phát tâm, đó là vô tình thuyết pháp, hay chính thân Tỳ Lô Giá Na đã tác động vào cảnh quang, tạo thành lực hấp dẫn đưa người đến với Đạo Phật. Do đó dưới mắt hành giả, con ong cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai... không cái gì là không dễ thương và không phải là Phật.
3. Nghiệp thân: Phật trang nghiêm thân bằng 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.
4. Thanh Văn thân: Từ trong chúng sanh thân, nhận ra đời sống không bền chắc, nên khởi thân đi tìm hằng hữu. Từ bỏ đời sống thế gian đi theo lộ trình Phật mang thân tu sĩ phải tỏ rõ đạo đức và lòng nhiệt thành cộng với bản chất thật.
5. Duyên Giác thân: Là tầng lớp tri thức, quán nhân duyên thấy được mối quan hệ giữa mọi người với nhau trong xã hội, và theo lời Phật dạy, người nào thấy được nhân duyên thì thấy được pháp chân thật, đó là điều tiên quyết để tiến đến quả vị toàn giác.
6. Bồ Tát thân: Tổng hợp hai pháp tu của người và Duyên Giác, chúng ta có mẫu người thứ ba vừa có đạo đức vừa có tri thức, đi vào đời độ sanh đó là Bồ Tát.
7. Như Lai thân: Với thân Như Lai, không còn phải dấn thân vào đời để cứu độ như Bồ Tát, không phải ẩn tu như hàng Duyên Giác, cũng không cần sống trong tập thể để trao đổi sách tấn nhau như hàng Thanh Văn. Vì thân Như Lai “Vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ”. Chính thân này tác động đến các loài chúng sanh, giáo hóa được tất cả mà không cần cử thân động tâm.
8. Trí thân: Trên bước đường tu, sử dụng thân của từng giai đoạn tu khác nhau, thành đạt vị trí Như Lai. Lúc ấy, như như bất động mà vẫn hóa độ được chúng sanh, nên hoạt động chính của Như Lai không phải bằng thân xác, vật chất, bằng ngôn ngữ bình thường, mà bằng trí tuệ siêu việt.
9. Pháp thân: Trí Như Lai chiếu đến đâu thì biến các pháp ấy thành pháp thân của Đức Phật, rộng hơn ý niệm pháp thân của Phật Giáo nguyên thủy chỉ hạn hẹp trong giáo pháp còn lưu lại.
10. Hư không thân: Thế giới thường tịch quang hay Tỳ Lô Giá Na thân.
Kinh Hoa Nghiêm kết hợp mười loại thân trên làm thành một Đức Phật toàn diện (không) và cũng là tổng thể của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí tuệ, chi phối ngược xuống chín loại hình, từ hàng thánh giả cho đến người thường và cả loài hữu tình, vô tình trên thế gian này.
* Kinh Hoa Nghiêm diễn tả 53 tiến trình cầu đạo của Thiện Tài và 53 vị giáo thọ nhằm chỉ cho hàng ngũ Thiện Tri Thức dạy Bồ Tát đạo và Bồ Tát hạnh cho Đồng Tử. Trong đó hai mẫu người lý tưởng là Bồ Tát Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ lãnh vai trò hóa đạo và Bồ Tát Phổ Hiền tiêu biểu cho hạnh nguyện giữ vai trò hành đạo. Qua đó Thiện Tài được tôi luyện thành con người hữu ích thật sự cho đạo pháp. Bồ đề tâm và tri thức là nhân tố chính dẫn Thiện Tài đến với Đạo.
Hơn thế nữa Kinh Hoa Nghiêm là chiếc chìa khóa vàng mở tung cánh cửa Đại Niết Bàn,..(và kết luận: "" Niết Bàn Không phải là một nơi chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới mà người ta có thể tìm đến. Niết Bàn chính là ở nơi đây”.).
Không có mô tả ảnh.
Tất cả cảm xúc:
3

10 Huyền Môn. Bài 31- 10 Nền tảng để thiết lập mười huyền môn

Theo TS Japan. JUNJIRO TAKASUSU (Tuệ Sĩ dịch)- trong tác phẩm- TINH HOA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO:
Nền tảng này y cứ trên những quan niệm tổng quát của Phật học, có mười:
1. Bởi vì mọi loài cũng như mọi vật đều được hiện khởi do nội thức nên căn nguyên là một.
2. Bởi vì mọi loài cũng như mỗi vật đều không có bản tính quyết định, tất cả đều vận hành tự tại nên vô ngã là chân lý tối thượng.
3. Bởi vì lý duyên khởi chỉ cho sự tương y tương quan, nên tất cả đều cộng đồng liên hệ.
4. Bởi vì tất cả đều có chung pháp tính (dharmatā) hay Phật tính (Buddha-svabhāvā), nên tất cả đều có khả năng chứng đắc như nhau.
5. Bởi vì thế giới hiện tượng được cho là mộng huyễn, nên thế giới Nhất chân có thể bàng bạc khắp mọi nơi không bị ước thúc.
6. Bởi vì thế giới hiện tượng được coi như là bóng mờ hay ảo ảnh nên thế giới Nhất chân bàng bạc khắp nơi.
7. Bởi vì trong sự giác ngộ của Phật, những căn nhân của hiện khởi được coi như vô hạn, những cảm quả là vạn trạng và vô biên, nhưng chúng không chướng ngại nhau mà lại còn cộng tác để hình thành một toàn thể nhịp nhàng.
8. Bởi vì sự giác ngộ của Phật là tối thượng và tuyệt đối, nên sự chuyển hóa của thế giới là theo ý chí của Ngài.
9. Bởi tác dụng thiền định thâm áo cuả Phật, sự chuyển hóa của thế giới là tùy theo ý của Ngài.
10. Do bởi năng lực siêu nhiên khởi lên từ sự giải thoát, sự chuyển hóa thế giới là tự tại.
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết '© shibuya246.com Shibuya246.com'
Tất cả cảm xúc:
3

10 Huyền Môn. Bài 30 - Thập thế cách pháp dị thành môn - Thời - Không.

HT. Nhất Hạnh có lời giải:
Cánh cửa thứ 10 này cho chúng ta thấy giáo lý tương tức giữa ba đời rất rõ. Nhìn vào các pháp thì thấy thời gian trong đó. Nhìn vào không gian thì thấy thời gian trong đó. Thời gian ôm không gian và không gian ôm thời gian. Có sự tương tức giữa không và thời. Nói thời gian mà không nói các pháp thì làm sao nắm được thời gian? Chính khi nhìn các pháp mới thấy được thời gian. Nói về thời gian là nói về không gian và các pháp. Nói về thời gian là nói về ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Mỗi thời trong ba thời đều có cả ba thời. Đây là hiện tại, trong hiện tại có quá khứ, hiện tại và vị lai; đây là quá khứ, trong đó có quá khứ, hiện tại và vị lai; đây là vị lai, trong đó có vị lai, quá khứ và hiện tại. Nhìn vào ba thời, theo lý tương tức, chúng ta thấy có chín thời. Chín thời đó, tuy chia ra như vậy nhưng nhìn kỹ thì nó tương tức nên có thời tổng hợp thứ mười, gọi là thập thế (mười thời). Nhìn một pháp qua mười thời thì mới thấy được pháp đó.
Thập thế cách pháp dị thành môn có nghĩa là các pháp khác nhau (dị) được thành lập (thành) riêng biệt khác nhau (cách) nhưng nó chia sẻ chung cả mười thời (All things variously arise through the oneness of the ten times). Đó là ý niệm tương tức giữa thời gian và các pháp. Thời gian làm gì có nếu không có các pháp? Chính là nhờ có các pháp và nhìn vào các pháp (không gian cũng là 1 pháp) mà ta thấy được thời gian và tính tương tức của nó.
....
Trong mấy mươi tông phái của thời kỳ đạo Bụt Bộ phái, có tông phái chủ trương: Chỉ có hiện tại, không có quá khứ và tương lai, và hiện tại thì sinh diệt từng sát na. Nhưng có tông phái nói: Có hiện tại, nhưng quá khứ cũng có và tương lai cũng có. Phái Hữu Bộ nói: Tam thế hằng hữu. Nghĩa là ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai luôn luôn có đó, không mất đi đâu hết.
Vấn đề thời gian là một vấn đề lớn, cho nên các tông phái, các bộ phái đạo Bụt đều đề cập tới.(hết trích)
Vâng ! Thời Gian và Không gian (phương) có sự tương quan mật thiết.- Bởi vì đều là biểu hiện của Tâm Như. Và mang ý nghĩa.- Cách Pháp dị thành.
Có thể là hình ảnh về văn bản
Tất cả cảm xúc:
3