Đối với Tôn Giáo khác.- Vô Vi là chỉ cho cái huyền bí, siêu nhiên của Đạo (thuộc về Huyền thuật) ! Giáo lý Phật thì khác hẳn cái nghĩa Vô Vi này.
Vô
Vi tức là Niết Bàn, là Bản Thể các Pháp, là Thật Tánh của các Pháp. Cũng tức là Thật Tướng, là Bản Thể của Pháp Duyên Khởi.
(theo thiền sư Ajahn Sumedho, Tâm và đạo, )
Thế thì pháp vô vi là gì? Bạn không thể thấy, ngửi, nếm, xúc chạm, nghe, hay suy nghĩ về pháp vô vi nhưng nó là nơi mà tất cả pháp hữu vi hội tụ về. Nó không thuộc về cảm giác. Nó là sự an tịnh. Nó không sinh khởi hay hoại diệt, không có sự bắt đầu hay chấm dứt. Chính nó là cội nguồn mà từ đó tất cả các pháp hữu vi được sinh khởi. Khi để tất cả sự việc hiện lên trong tâm và ra đi, bạn đang để cho chúng trở về với pháp vô vi hay pháp không điều kiện (tức là nhân duyên khởi).
Thế thì mục tiêu tối hậu của con người là thấy và biết rằng các pháp điều kiện (nhân duyên sanh) chỉ là những điều kiện, và pháp không điều kiện (vô vi) chỉ là pháp không điều kiện..... Và đạo Phật là chiếc xe, là quy ước, là cách thức, là truyền thống giúp bạn phá vỡ và đi xuyên qua những ảo tưởng, thoát khỏi những trói buộc của những điều kiện của thế giới luân hồi sinh tử.
Khi thấy được pháp không điều kiện, hay pháp vô vi, hay Niết bàn, lúc đó, bạn đang ở trạng thái vô sanh và bất tử. (hết trích)
VÔ VI nghĩa là không tạo tác. Trái lại với pháp hữu vi, các pháp không do nhân duyên sinh, không sinh diệt biến đổi, không bị chi phối bởi các tướng thành trụ hoại không, sinh trụ dị diệt, hay sinh lão bịnh tử, đều là pháp vô vi.
Theo luận Câu Xá thuyết minh, có 3 pháp thuộc về loại pháp vô vi:
1/. Hư không vô vi: Tất cả Pháp là Duyên khởi- nên Bản Thể là từ KHÔNG mà sanh.- Đó là Hư Không Vô Vi. Cũng cần để ý, cái hư không trong quan niệm thông thường, cái khoảng không chúng ta thấy trước mặt, không phải là hư không vô vi.- Vấn đề này luận Câu Xá nói: Nó cũng là một loại sắc pháp (hữu vi) hiện hữu trong không gian mà thôi, có sinh có diệt, có thay đổi biến hóa, vẫn nằm trong khái niệm của con người.- "Hư không vô vi" vượt ra ngoài khái niệm, chúng ta không thể dùng ý thức của con người mà biết được. (mà phải chuyển Thức thành Trí mới cảm nhận).
2/. Trạch diệt vô vi: Do dùng trí tuệ quán chiếu để diệt trừ mọi sự ràng buộc của phiền não vô minh mà hiển bày cảnh giới không tịch (niết bàn). Cảnh giới không tịch này xưa nay vốn hằng hữu, bất sinh bất diệt – cho nên gọi là vô vi; nhưng chỉ vì vô minh phiền não che khuất mà chưa hiển lộ ra được; nay nhờ tuệ giác quét sạch vô minh mà nó lại hiện rõ ra, cho nên gọi là “trạch diệt vô vi”.
3/. Phi trạch diệt vô vi: Đây là pháp vô vi không cần phải dùng trí tuệ tiêu diệt vô minh mới hiển bày, mà là thể tính không tịch vốn có hiển nhiên (Vô Sanh). đã không sinh thì tất nhiên cũng không diệt. Pháp không sinh không diệt là pháp vô vi. Pháp vô vi này không phải do dùng trí tuệ dứt trừ lậu hoặc để chứng đắc, nên gọi là “phi trạch diệt vô vi”.
Theo Duy Thức Học, có 6 pháp Vô Vi:
1/Hư không vô vi: không ngã không pháp rời các cấu nhiễm rỗng rang như hư không, chơn như, pháp tánh. Không dùng ý thức suy nghĩ, nó phi sắc phi tâm, không cấu tịnh, sanh, diệt và tăng giảm nên gọi là vô vi.
2/Trạch diệt vô vi: dùng trí huệ vô lậu lựa chọn diệt trừ nhiễm ô, nên chơn như vô vi mới hiện
3/Phi trạch diệt vô vi: không cần lựa chọn diệt trừ các phiền não, có 2:
a/Tánh chơn như vốn thanh tịnh, không cần lựa chọn, diệt trừ phiền não nhiễm ô nó mới có
b/Các pháp hữu vi thiếu duyên không sanh khởi, nên pháp vô vi được hiện nên gọi là phi trạch diệt
4/Bất động diệt vô vi: đệ tứ thiền lìa được 3 định dưới ra khỏi tam tai (đau binh, thủy, hoả) không bị mừng, giận, ghét, thương,.. làm chao động nơi tâm
**BẤT ĐỘNG DIỆT VÔ VI:Nghĩa là Diệt Đế vốn Như Như Bất Động (Thường trụ - Vô Sanh).
Nghĩa là thể Tâm Lặng yên không đến không đi, không qua không lại .
Niết Bàn Tĩnh lặng bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm.
Bởi vì Tâm Vốn đã cùng khắp,nên không thể sanh diệt, đến đi, thêm bớt.
Niết Bàn Vô Trụ Xứ nên Bất Động Như như.
BÀI LUẬN THỨ NHẤT
VẬT BẤT THIÊN
Phàm phu vọng thấy các pháp hình như có lưu động và biến đổi; nếu lấy Bát Nhã mà quán thì liền thấy ngay thật tướng của các pháp ngay đó thể tánh tịch diệt chơn thường, chẳng có chút tướng lưu động hay biến đổi, nên nói chẳng có một pháp được động chuyển là vậy.
Vì duyên sanh nên tánh không, nên mỗi pháp ngay đó vốn không biến đổi, chẳng phải tướng biến đổi mà tánh chẳng biến đổi (nghĩa là tánh với tướng chẳng khác).
Thấy được mỗi pháp không biến đổi, nên tức vật tức chân, chân thì chẳng có một pháp nào dính dáng đến tình cảm, theo đó mà quán tục thì tục tức chân vậy.
Vì do toàn lý thành sự, sự sự đều chân, thì thật tướng của các pháp ngay đó đều được hiển hiện rồi.
lại nói:
Gió bão bay núi mà thường tịnh
Nước sông đổ gấp mà chẳng trôi
Bụi trần lăng xăng mà chẳng động
Trăng qua bầu trời mà chẳng đi.
* Đây là ý nghĩa bất động diệt Vô Vi
5/Thọ tưởng diệt vô vi: khi được diệt tận định, diệt trừ thọ và tưởng tâm sở nên gọi thọ tưởng diệt vô vi
6/Chân như vô vi: không phải vọng gọi là Chơn (biến kế sở chấp) không điên đảo gọi là Như (y tha khởi) tức là thật tánh của các pháp (viên thành thật)
Theo Luận Hiển Dương Thánh giáo, có 8 pháp Vô Vi:
Vô vi có tám loại: hư không, phi trạch diệt, trạch diệt, bất động, tưởng thọ diệt, thiện pháp chân như, bất thiện pháp chân như, vô ký pháp chân như.
1. Hư không: Là đối tượng của tâm và tâm pháp, tức cảnh giới đối trị ngoại sắc
2. Phi trạch diệt: Là nhân duyên chưa tập hợp, ở khoảng giữa ấy, các hành không khởi diệt, nhưng chẳng phải ly hệ.
.
3. Trạch diệt: Là do phương tiện tuệ mà các hành hữu lậu hoàn toàn không khởi diệt, và đó là ly hệ.
4. Bất động: Là rời ý muốn trú cõi Biến tịnh, đắc đệ tứ tĩnh lự, ở khoảng giữa ấy, ly hệ đối với khổ lạc.
5. Tưởng thọ diệt: Là rời ý muốn trú cõi Vô sở hữu xứ, nhập diệt tận định, ly hệ vì tâm và tâm pháp không thường hiện hành bị diệt, và vì một phần tâm và tâm pháp thường hiện hành bị diệt.
6. Thiện pháp chân như: Là cảnh giới thanh tịnh nơi thiện pháp
7. Bất thiện pháp chân như: Là cảnh giới thanh tịnh nơi bất thiện pháp.
8. Vô ký pháp chân như: Là cảnh giới thanh tịnh nơi vô ký pháp. Lại nữa, năm pháp như vậy (tâm, tâm sở hữu pháp, sắc pháp,bất tương ưng hành pháp, vô vi) (hết trích)