Thứ Ba, 28 tháng 2, 2017

Xé nát Xưa Nay Tập 3

Vô Ưu
Tùy Bút : Xé nát Xưa Nay Tập 3


Tắc công án của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
- Thay Lời Tựa -
Một hôm, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn triệu tập môn đồ rồi bảo:
- Sinh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ biết cầu phước, chẳng cầu lìa khỏi biển khổ sinh tử, tự tánh nếu mê phước làm sao cứu được? Các ngươi mỗi người hãy làm một bài kệ trình cho ta xem, nếu ngộ được đại ý thì ta sẽ truyền y bát cho làm Tổ thứ sáu. Hãy mau lên chẳng được chậm trễ, hễ lọt vào suy lường thì chẳng dùng được. Người kiến tánh vừa nghe phải liền thấy.
Môn đệ Ngũ Tổ nhìn nhau hội ý “Thần Tú làm giáo thọ ắt hẳn sẽ trình kệ và nhận lấy y bát làm Tổ”. Số môn đệ này đã rơi vào suy lường, thật chẳng thấy tánh. Luống uổng công phu tu học bấy lâu. Lại chẳng biết Phật tánh chẳng phân nam bắc, thượng trung hạ. Người học Phật mà lại chẳng tin vào tự tâm, không rõ biết tự tánh, chỉ nương cầu tha lực thì biết đến bao giờ mới khai ngộ Tri kiến Phật, liễu thoát sinh tử. Đây là người học Phật hàng Thanh văn.
Giáo thọ Thần Tú - cao đồ của Ngũ Tổ cũng rơi vào suy lường nên nỗi nội tâm bấn loạn về sau viết kệ trên tường, trình cái thấy tự tâm cho Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Kệ viết:
Thân thị bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.

Thân như cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ cho dính bụi trần.
Ngũ Tổ xem kệ cho gọi riêng Thần Tú và nói:
- Kệ này chưa thấy bản tánh, chỉ đến ngoài cửa. Kiến giải như thế tìm Vô thượng bồ đề chẳng thể được. Vô thượng bồ đề phải khi vừa nói liền rõ biết bản tâm, thông suốt tự tánh chẳng sinh, chẳng diệt, bất cứ giờ nào niệm niệm tự thấy, vạn cảnh tự như như, cái tâm như như tức là chân thật. Nếu được thấy như thế là cái thấy của tự tánh. Hãy làm bài kệ khác trình lên.
Dù vậy bài kệ của giáo thọ Thần Tú cũng có chỗ hữu dụng nên Ngũ Tổ đã truyền cho các môn đồ khá hay trì tụng. Y kệ này tu, khỏi đọa vào ác đạo, được lợi ích lớn. Bài kệ về sau trở thành đường lối tu tiệm tu, phương pháp học Phật của trường phái Bắc Tú. Theo lối tu này, người học Phật cần miên mật hành trì, bảo nhậm bản tâm không sinh các việc ác tham, sân, si, mạn, nghi.
Lúc bấy giờ, Huệ Năng đang khi giã gạo nghe bài kệ của giáo thọ Thần Tú, rõ biết kệ chưa thấy tự tánh dù vậy vẫn xin được tham bái và nhờ sư huynh Trương Nhật Dụng viết kệ trình cái thấy tự tâm của bản thân.
Kệ viết:
Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?

Bồ đề vốn không cội
Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật
Có gì dính bụi trần?
Bài kệ của Huệ Năng thấy được tự tánh cho nên được Ngũ Tổ truyền trao y bát làm Tổ thứ sáu - Lục Tổ Huệ Năng. Bài kệ trên thể hiện đường lối tu đốn ngộ, là phương pháp học Phật của trường phái Nam Năng.
Trước Tắc công án của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, mời bạn trình cái thấy của tự tánh. Cảm ơn!
 Tắc công án đắc pháp của Thiền sư Đức Sơn
Sư Đức Sơn là người họ Chu, quê ở Kiến Nam, Giản Châu, xuất gia lúc 20 tuổi. Sư thông suốt các bộ Kinh, Luật, Luận. Vì thường giảng Kim Cang bát - nhã - ba - la - mật đa kinh nên người đời gọi Sư là Chu Kim Cang. Sư lại được nghe “Phương nam Thiền tông hưng thịnh, tùy cơ hoằng dương Phật pháp”, Sư bất bình nói:
- Kẻ xuất gia muôn kiếp học uy nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật. Những kẻ ma ở phương nam dám nói “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Thật là giọng điệu của bọn tà ma, ngoại đạo! Thật quá ư cuồng ngạo, hư vọng! Ta phải ruồng tận hang ổ của chúng mà diệt hết dòng giống tà ma, ngoại đạo để đền trả ân Phật.
Sư bèn khăn gói lên đường xuôi về phương nam, gánh theo 3000 bộ Kinh Kim Cang (Kinh sách xưa được viết trên thẻ tre nên sách xưa khá nặng vì thế Sư phải gánh). Đến Lễ Châu, Sư gặp một bà lão bán xôi. Đặt quang gánh xuống, Sư hỏi bà lão “Đường đến nơi ở của Thiền sư Long Đàm Sùng Tín và cũng nói qua ý định thu phục kẻ tà ma dối truyền pháp Phật”. Tiếp đến, Sư bảo bà lão bán cho ít xôi đặng dùng điểm tâm. Bà lão sau khi chỉ đường đến nơi ở của Thiền sư Long Đàm rồi lại nhìn gánh sách của Sư và dò hỏi:
- Sư đang gánh gì?
Sư trả lời:
- Kinh Kim Cang 3000 bộ.
Bà lão nói:
- Tôi có một câu hỏi nằm trong bộ Kinh Kim Cang mà Thầy đang “gánh vác”. Nếu Thầy đáp được tôi xin cúng dường xôi cho Ngài. Còn nếu Thầy đáp không được thì mời Thầy đi cho và tôi cũng không bán xôi cho Ngài.
Sư tin chắc sẽ trả lời đặng vì từng câu, từng chữ trong Kinh Kim Cang Sư thuộc nằm lòng, Sư gật đầu chấp thuận, bà lão liền hỏi:
- Trong kinh Kim Cang có câu “Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc” (Tâm quá khứ chẳng thể có, tâm tương lai chẳng thể có, tâm hiện tại chẳng thể có). Vậy chẳng hay Thầy muốn lấy tâm nào dùng điểm tâm?
Sư lặng thinh, không thể đáp được. Sư đành phải chào bà lão bán xôi và rời đi. Theo hướng chỉ dẫn của bà lão, Sư lần đến nơi ở Thiền sư Long Đàm với cái bụng trống không. Vừa đến nơi ở của Thiền sư Long Đàm, Sư đã dõng dạc:
- Nghe danh Long Đàm đã lâu, nay ta đến đây, cớ sao đầm (đàm 潭) cũng không thấy mà rồng (long 龍) cũng chẳng hiện?
Thiền sư Long Đàm nghe tiếng, bước ra, nói:
- Người đã tới Long Đàm rồi chăng? (Ngụ ý hỏi là Sư Chu Kim Cang phải chăng đã từng đến Đầm Rồng và gặp được rồng. Cho nên hôm nay quay lại mà không thấy rồng hiện mới buông lời phiền trách).
Sư không đáp được, liền dừng lại đây. Một hôm, Sư hầu chuyện với Thiền Sư Long Đàm đến tận khuya. Sau khi dừng chuyện sư Long Đàm bảo:
- Đêm khuya sao chẳng về?
Sư cúi chào bước ra, rồi lại trở vào thưa:
- Bên ngoài trời tối đen.
Thiền sư Long Đàm thắp đèn đưa Sư. Sư toan tiếp lấy, sư Long Đàm liền thổi tắt. Sư bỗng nhiên đại ngộ, tất cả kiến chấp đều tan vỡ, Sư liền quì xuống lễ bái. Thiền sư Long Đàm hỏi:
- Ngươi thấy được gì?
Sư thưa:
- Từ nay về sau con chẳng còn nghi lời nói của chư Tăng trong thiên hạ.
Sau đó, Sư đem bộ Kinh Kim Cang ra chất đống, nổi lửa đốt và nói “Tột cùng các biện luận siêu huyền cũng chỉ như là một mải lông ném vào trong hư không, hết sạch các trọng yếu trong đời khác chi một giọt nước rơi vào biển lớn”.
Sư lễ tạ và từ biệt Thiền sư Long Đàm du phương.
Hỏi:
- Vì sao chỉ với việc thổi tắt ngọn đèn của Thiền sư Long Đàm mà Sư Chu Kim Cang, một người vốn tự thị học rộng, biết nhiều với đầy những kiến chấp về pháp Phật lại có thể đại ngộ tâm yếu của Phật Thích Ca?
Nếu bạn có thể giải trình Tắc công án này thì tôi mời bạn.
 Tắc công án của Vô Ưu
Có một cư sĩ tại gia qua một quá trình tham học pháp Phật, nghe có danh sư xuất hiện ở một ngôi chùa lớn, đã lần tìm đến tham bái. Đáng tiếc, nhân duyên không đủ cho nên vị cư sĩ không gặp danh sư chỉ chiêm ngưỡng được tôn tượng của người.
Không nản chí, vị cư sĩ trở về quê nhà tiếp tục học hỏi giáo lý, hành trì thiền định. Về sau lại nghe có danh sư ở một tự viện lớn. Một lòng muốn học hỏi nên vị cư sĩ nọ đã vượt đường xa đến tự viện để tham bái. Vào đến tự viện, vị cư sĩ tình cờ nhìn thấy tượng bán thân của danh sư. Cư sĩ lẳng lặng nhìn ngắm núi sông thanh bình, trầm mặc rồi lần xuống núi.
Về sau, lại có bạn đồng tu gọi đi tham bái một danh sư khác nghe chừng đã đắc đạo. Được biết vị danh sư này cũng đã tạc tượng bán thân, vị cư sĩ lắc đầu không đi tham bái và thuận tay ném quyển kinh Kim Cang ra ngoài sân, miệng lại nói “Giấy quả thật không gói được lửa”.
Người bạn đồng tu giật mình kinh ngạc thì lại thấy vị cư sĩ nọ đã bước ra sân kính cẩn nhặt quyển kinh Kim Cang và nói “Người xuất gia nên mở không nên trói”.
CHƯƠNG I
CHUYỆN XƯA - TÍCH CŨ - LUẬN NAY

  1. Chuyện Xưa - Tích Cũ.
 Chuyện con ve sầu và nước Ngô
Một sớm, Thái tử Hữu mang cung tên vào cung, vừa lúc gặp vua cha Ngô Phù Sai.
Nhà vua hỏi:
- Con mang cung tên đi đâu mà áo quần ướt sũng thế này?
Thái tử nói:
- Con đi săn vô ý bị sụp hầm.
Vua Ngô gạn hỏi:
- Sao lại vô ý sụp hầm?
Thái tử nói:
- Con thấy con ve đang kêu, toan rình bắt. Bất ngờ, con thấy con bọ ngựa đưa càng lên bắt con ve, lại thấy con chim sẻ đậu gần đó muốn đớp con bọ ngựa. Con bèn lui lại chuẩn bị bắn con chim sẻ, không ngờ con bị sa xuống hố sình!
Nhà vua nói:
- Con chỉ biết ham cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến cái hại phía sau. Thiên hạ có ai ngu như con không?
Thái tử nói:
- Vậy mà có kẻ ngu hơn con! Lỗ vốn là nước lễ nhạc, trước có Chu Công, sau có Khổng Tử, không xâm phạm gì đến Tề, thế mà Tề vẫn cất quân đánh, tưởng là lấy được Lỗ. Nước Ngô muốn cứu nước Lỗ xuất quân đánh Tề. Nào hay khi nước Ngô đang vượt ngàn dặm đánh Tề thì nước Việt đem quân cảm tử đánh úp nước Ngô!...
Ngô Phù Sai nổi giận hét:
- Cút! Cút... Đó là luận điệu của thằng giặc già Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư )! Thằng giặc ấy tao đã giết rồi! Nếu mày là con tao từ nay đừng nói đến việc đó nữa!
Thái tử Hữu sợ hãi lui ra.
Lời Bàn:
Trước đây tướng quốc nước Ngô là Ngũ Tử Tư lao tâm, khổ trí can gián vua Ngô Phù Sai về việc vua Ngô đem quân đánh nước Tề, cứu nước Lỗ. Vì Ngũ Tử Tư tiên liệu nước Việt sẽ thừa dịp đem quân đánh úp nước Ngô. Kết quả Ngũ Tử Tư bị Ngô Phù Sai giết đi vì vua Ngô tin rằng nước Việt sẽ không bao giờ làm phản. Thái tử Hữu biết chuyện mượn hình ảnh con ve, con bọ ngựa, con chim sẻ và việc bản thân bị sụp hầm để chỉ rõ tình hình ở các nước Lỗ, Tề, Ngô, Việt  nhằm nói lên cục diện mà nước Ngô đang đối mặt những mong Ngô Phù Sai không hành sự sơ suất, bất cập, phạm lỗi lầm...
Đáng tiếc!Người đời nói:"Không kẻ nào điếc bằng lòng người không muốn nghe, không kẻ nào mù bằng người không muốn thấy".
Ngô Phù Sai không ngu nhưng ông không muốn nghe những lời can gián phải. Ngô Phù Sai không giết con mình nhưng ông hội các nước chư hầu, cất quân đi đánh Tề thêm lần nữa. Ngờ đâu nước Việt kéo đại quân sang, đánh úp nước Ngô và giết chết Thái tử Hữu. Việc này chẳng khác nào Ngô Phù Sai giết con.
Nếu mắng Ngô Phù Sai vừa đui, vừa điếc đã phạm sai lầm dẫn đến nước mất, nhà tan, gián tiếp hạ sát con mình thì hẳn là Ngô Phù Sai không nhận lỗi dù rằng lỗi lầm rõ ràng, xác thực.
Tiếc thay! Không kẻ nào điếc bằng lòng người không muốn nghe, không kẻ nào mù bằng người không muốn thấy.

Biết lẽ ngược xuôi

Ở đời có lắm việc trông có vẻ như ngược mà sự thật thì xuôi, có lắm việc có vẻ như xuôi mà thật ra lại ngược. Ai biết rõ việc thật giả, ngược xuôi sáng rõ thì người ấy mới được xem là người có hiểu biết. Phàm cái gì đã đến cùng cực thì tất nhiên phải quay trở lại, dài quá thì tất phải ngắn dần đi, ngắn quá thì tất lại dài ra. Đó là cái lẽ tự nhiên như thế.
Trang Vương, vua nước Kinh muốn đánh nước Trần, cho người sang nước Trần do thám.
Viên tướng sang nước Trần do thám một thời gian rồi trở về, nói:
- Nước Trần không nên đánh.
Trang vương hỏi:
- Tại làm sao không nên đánh?
Viên tướng do thám thưa rằng:
- Vì nước Trần có thành cao, hào sâu, kho lương tích trữ nhiều,... Thế nên, nước ta rất khó đánh thắng nước Trần,...
Lúc bấy giờ, Ninh Quốc là một triều thần của nước Kinh bước ra, nói:
- Như thế thì nên đánh nước Trần lắm.
Trang vương lại hỏi:
- Tại làm sao nên đánh?
Tướng Ninh Quốc liền trình bày:
- Bởi lẽ nước Trần vốn là nước nhỏ mà kho tàng tích trữ nhiều thì chắc hẳn là thuế má nặng, thuế má nặng thì tất dân đói nghèo và oán thán triều đình. Thành cao, hào sâu thì phục dịch nhiều, phục dịch nhiều thì tất sức dân kiệt quệ, nhuệ khí, tinh thần dân tộc suy giảm. Nếu đại vương đem quân sang đánh tất sẽ lấy được nước Trần.
Trang Vương nghe lời, cất quân đánh sang, quả nhiên lấy được nước Trần .
Lã Thị Xuân Thu
Lời Bàn:
Ở đời có lắm cái tưởng là xuôi mà thực là ngược, có lắm cái được cho là ngược mà thực lại là xuôi. Ngược xuôi điên đảo rất là khó phân định. Chỉ có người nào không chỉ xét đoán bề ngoài, rõ biết cái đầy vơi, tròn khuyết, dài ngắn,… ảnh hưởng qua lại lẫn nhau thì mới nhận định chuẩn xác được. Như viên tướng đi do thám của vua Trang Vương dù rằng đến tận nơi tìm hiểu, nắm bắt tình hình nước Trần mà vẫn không thể cho ra được nhận định đúng đắn về nội tình của nước Trần.
Do bởi viên tướng đó bị trói vào cái thấy nghe hay biết chủ quan, phiến diện. Tướng Ninh Quốc dù không trực tiếp sang nước Trần nhưng ông lại dùng sự khách quan, tổng thể và lấy cái lý lẽ thật giả, đúng sai, xuôi ngược,… tột cùng mà rõ biết nội tình của nước Trần.

 Khổng Tử - Mạnh Tử luận về thuyết Chính danh
 Thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử:
- Nếu vua nước Vệ mời thầy làm chính trị thì thầy làm điều gì trước nhất?
Tình trạng của nước Vệ lúc bấy giờ rất suy đồi. Trước câu hỏi của thầy Tử Lộ, Đức Khổng Tử trả lời:
- Trước hết là phải chính danh.
Đức Khổng Tử nói thêm:
- Vì nếu danh không chính thì lời nói sẽ không thuận mà lời nói không thuận thì việc làm ắt không thành.
Khi Tề Cảnh Công hỏi Đức Khổng Tử về chính sách cai trị, Đức Khổng Tử trả lời:
- Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử.
Tề Cảnh Công nghe xong liền nói:
- Phải lắm. Vua phải ra vua tức là phải làm tốt, chuẩn mực vai trò, trách nhiệm của một ông vua. Quan phải ra quan tức là phải làm đúng mực chức trách của một vị quan. Cha phải ra cha tức là phải làm đúng mực vai trò của người cha. Con phải cho ra con tức là phải đúng mực ở bổn phận, cương vị của một người làm con. Nếu vua mà không ra vua, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con thì tam cương, ngũ thường đổ nát, trật tự xã hội xáo trộn, thiên hạ đâu thể yên ổn. Đất nước mà rơi vào tình cảnh đó thì dù có đầy đủ lúa thóc, thực phẩm con người cũng chẳng thể ngồi yên mà ăn cho được.
Cho nên với Khổng Tử, muốn cho xã hội có trật tự, mọi việc đâu ra đó, mọi người đều phải giữ đúng vai trò của mình, làm tròn bổn phận tương xứng với danh xưng của mình. Chính danh là định phận như vậy.
Về sau, có người đặt vấn đề hỏi thầy Mạnh Tử. Người đó nói:
- Châu Văn Vương vốn là bề tôi của Trụ Vương. Châu Văn Vương đã nổi lên giết chết Trụ Vương để lập nên nhà Châu. Bề tôi mà giết vua thì có đáng tội hay không? Tại sao nhà nho đã không kết tội Châu Văn Vương mà lại còn tôn sùng xem Châu Văn Vương như là bậc thánh nhân?
Thuận theo thuyết chính danh, thầy Mạnh Tử đã trả lời:
- Ta nghe nói Châu Văn Vương có giết một kẻ thất phu tên là Trụ, chớ ta chưa hề nghe nói Châu Văn Vương có giết vua bao giờ.

Chú Thích:
Khổng Tử tên là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 TCN vào thời Xuân Thu, người nước Lỗ. Ông là một nhà chính trị, một nhà tư tưởng lỗi lạc, một người thầy vĩ đại của Trung Hoa và nhân loại. Học thuyết của Khổng Tử dựa trên nền tảng tu dưỡng đức hạnh cá nhân, việc quản lý xây dựng xã hội, lãnh đạo đất nước dựa trên cơ sở Đạo, Đức và Nhân.
Việc “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” cần phải được cụ thể, rõ ràng qua thuyết Chính danh định phận với các đức Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín. Khổng Tử được xem là ông tổ khai sáng ra Nho Giáo.
Mạnh Tử tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, người nước Lỗ, ông là nhà Triết gia, nhà tư tưởng lớn ở thời Chiến Quốc. Học thuyết của ông chịu ảnh hưởng của thuyết Tính Thiện của Đức Khổng Tử, ông đã xây dựng, phát triển hoàn chỉnh hơn về “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” dựa trên nền tảng Đức Trị và Nhân Trị. Ông được xem là ông tổ thứ hai của Nho giáo.
Mạnh Tử đề cao 4 tiêu chuẩn của một con người hoàn thiện gồm:
- Một là lòng trắc ẩn thể hiện tâm nhân từ, biết thương yêu của con người.
- Hai là sự hổ thẹn biết nhận lỗi, sửa sai thể hiện khí tiết của con người.
- Ba là tâm khiêm nhường thể hiện tính lễ độ, đạo đức nhân cách con người.
- Bốn là sự hiểu biết sáng rõ, khách quan thể hiện trí tuệ của con người.
Mạnh Tử cả đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình bày và phân tích lý luận triết học. Ông kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời nói nào cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt con người hướng thiện.
Lời Bàn:
Theo cách nhìn nhận của thầy Mạnh Tử thì Trụ Vương không đáng được gọi là vua, ông ta chỉ là một kẻ thất phu, kém cỏi. Gọi ông ta là vua là danh không chính.
Tại sao?
Vì Trụ Vương khi ở ngôi vị ông vua đã không làm trọn đạo của một người làm vua. Theo nho giáo người làm vua là người thay trời để trị dân. Trời thương dân như con đẻ thì người làm vua, người thay trời để lo cho dân cũng phải thương dân như con đẻ. Thương dân, lo cho dân, đem bình an trật tự lại cho xã hội, làm cho người dân được thái bình no cơm, ấm áo. Đó là bổn phận của nhà vua đối với người dân.
Trong khi đó, vua Trụ lúc tại vị đã không làm tròn sứ mạng cao quí của một vị vua. Ông chỉ là một kẻ tàn ác, bạo ngược, ngồi trên ngai vàng chỉ mãi hà hiếp, áp bức, làm khổ, giết hại dân lành chớ không hề làm được một việc tốt đẹp nào đáng được xem là thay trời để lo cho dân.
Đã không làm tốt vai trò của một ông vua tất nhiên Trụ Vương chỉ được coi như một kẻ thất phu, tàn bạo. Gã thất phu đó sẽ bị truất phế, bị trừng trị đích đáng bởi những tội lỗi mà hắn đã gây ra và được thay thế bởi một  người xứng đáng hơn. Người đó là Châu Văn Vương, một người đã được trời lựa chọn để thay ý trời lo cho dân.
Thật sự, đối với nhà nho trời không ở đâu xa, trời ở rất gần dân. Nhà nho bảo lòng trời là lòng dân, cái gì người dân muốn là trời muốn. Thành ra trời với dân chỉ là một. Dân là trời vậy.
Đối với chúng ta ngày nay, thuyết chính danh còn có giá trị gì không ngoài giá trị lịch sử?
Một số người ngày nay chạy theo tư tưởng tự do được cho là tiến bộ của phương Tây xem thường luận lý Khổng - Mạnh như những sợi dây trói buộc con người không cho phép cá nhân được phát triển toàn vẹn, không cho con người được tự do mưu cầu hạnh phúc cá nhân.
Có lập luận cho rằng “Khi sống với Tam cương ngũ thường, con người chỉ còn là một kẻ lúc nào cũng bị chi phối bởi những bổn phận đối với người khác mà không còn là một con người sống cho tình cảm tự nhiên và hạnh phúc cá nhân”.
Lúc nào, người dân cũng chỉ là một bề tôi, bắt buộc phải trung thành, phải răm rắp làm theo mệnh lệnh của nhà vua. Và là một người con bắt buộc phải làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, phải nghe theo cha mẹ, sống theo ý muốn của cha mẹ, chớ không hề được sống cho lối sống, tư tưởng cá nhân. Đã có lúc luân lý của Khổng - Mạnh bị cho rằng là khắc khe đến mức dường như không còn chỗ nào cho cá nhân con người  được sống thật sự. Con người lúc nào cũng bị chìm đắm trong các bổn phận nặng nề của hai chữ trung hiếu.
Địa vị của người phụ nữ lại còn thấp thỏi hơn khi họ phải giữ đúng Tam tòng (Tức là tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Cuộc sống người phụ nữ hoàn toàn lệ thuộc vào người chồng, phải giữ sự trinh tiết, phải tròn cả hiếu trung.
Phải chăng người phụ nữ trong xã hội phong kiến nho gia cơ hồ như chẳng còn gì là sống riêng cho cá nhân nữa?
Thật ra là đạo Nho ở thời Khổng - Mạnh không khắt khe đến mức vô lý đến vậy. Nhà nho đặt ra bổn phận nhưng bổn phận cho tất cả mọi người, chớ không riêng cho ai cả. Trong đó, có bổn phận của kẻ bề tôi thì cũng có bổn phận của một ông vua. Có bổn phận cho kẻ làm con thì cũng có bổn phận cho người làm cha. Nhà nho bảo: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là khi nhà vua bảo quần thần chết thì quần thần phải tuân theo lệnh vua mà chết nếu không thì sẽ mang tội bất trung. Nhưng nhà vua phải thế nào thì bề tôi mới phải giữ được lòng trung thành tuyệt đối như vậy. Cho nên nhà nho bảo “quân” phải “chính” thì “thần” mới “trung”. Cũng như “phụ” phải “từ” thì “tử” mới “hiếu”. Phải là nhà vua đạo đức, ngay thẳng, công bằng, biết thương, biết lo cho dân, biết làm hết bổn phận của nhà vua đối với quần thần, dân chúng thì mới mong có bề tôi làm tròn bổn phận của bề tôi đối với vua được. Người làm cha cũng vậy, cũng phải trọn đạo làm cha thì mới mong con mình đóng trọn vai trò làm người con hiếu thảo.
Hiện tại, tư tưởng chính danh định phận vẫn còn có giá trị đối với nhân loại.
Cụ thể là một chính quyền bao gồm những người cầm quyền cai trị trong một nước phải sống cho xứng đáng với danh xưng đó, phải có bổn phận lo cho người dân, bảo vệ người dân. Phát triển quốc gia, làm cho đời sống của người dân được ấm no, hạnh phúc. Nếu người cầm quyền không làm được việc đó hay làm ngược lại lòng dân thì chính quyền đó sẽ bị coi như không xứng đáng với danh xưng chính quyền theo thuyết chính danh.
Một chính quyền mà danh không chính thì lời nói của chính quyền đó thường không có hiệu quả, không thu phục được lòng người vì người dân sẽ không ủng hộ.
Một nhóm người cai trị bạo ngược, có thể dùng sức mạnh đàn áp, cưỡng bức, hà hiếp, đày ải, giết chóc người dân làm cho đời sống của người dân phải nghèo đói, khốn khổ,… Nhóm người đó không xứng đáng với danh xưng chính quyền. Đó chỉ là những kẻ thất phu cướp quyền.
Ở các nước dân chủ thật sự thì hạng người cướp quyền, bạo quyền,… như vậy sẽ dễ dàng bị thay thế bởi những người xứng đáng hơn bằng lá phiếu của người dân, qua các cuộc bầu cử công bằng, dân chủ, tự do.
Còn đối với những quốc gia không có nền dân chủ thì những kẻ cướp quyền cai trị bao giờ cũng đi đến một bạo quyền, một thể chế chính trị độc tài, tàn bạo, dùng mọi hình thức áp bức, bóc lột, vơ vét,… để cai trị. Trong những trường hợp như vậy, người dân không còn dùng được lá phiếu để nói lên nguyện vọng chính đáng của mình.
Rơi vào bối cảnh đó thì sẽ lại có người đứng ra lãnh đạo nhân dân nổi lên lật đổ triều đình bạo quyền giống như là việc Châu Văn Vương nổi dậy lật đổ Trụ Vương.
Lẽ dĩ nhiên là đối với các loại vũ khí tối tân, hiện đại cùng mạng lưới tình báo, quân sự được tổ chức chính quy, chặt chẽ, tinh nhuệ của các nhà lãnh đạo độc tài quân sự thì những cuộc phản kháng, đứng lên của người dân không dễ dàng thực hiện thành công. Tuy nhiên, khó khăn không có nghĩa là không thể xảy ra. Sự nổi dậy của người dân dù khó khăn đến đâu vẫn có thể thành công và bạo quyền dù có mạnh đến mấy rồi cũng có ngày sụp đổ.
Tóm lại, hoặc là nhà cầm quyền phải sửa sai, phải thật tâm làm việc lo cho dân, vì dân, phải làm hết bổn phận đối với người dân để xứng danh là chính quyền. Hoặc giả tiếp tục chính sách bạo ngược, tàn hại dân chúng,… thì sẽ có ngày chính quyền tàn bạo, thối nát,…đó bị dân chúng nổi dậy lật đổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Trên phương diện chính trị - kinh tế - xã hội, thuyết Chính danh định phận vẫn là một tư tưởng có giá trị đối với con người ngày nay.
Ở những thành phần, vấn đề khác cũng đều như vậy. Từ gia đình đến xã hội, mỗi người đều hãy nên làm đúng đắn, chuẩn mực vai trò, vị trí bản thân tương ứng với khả năng của tự thân. Mọi người ở trong mỗi vị trí hãy nên làm đúng bổn phận, vai trò tự thân phù hợp với vị trí được giao phó, đảm nhận nhằm xứng đáng với cái danh xưng, vị trí của mình. Làm thầy thì phải biết thương yêu lo lắng dạy dỗ, chỉ bảo cho học trò để cho học trò có cơ hội kính trọng, nể vì. Làm trò thì phải biết tôn kính thầy cô, trọng bạn và làm tròn bổn phận của một người học trò.
Nếu nền giáo dục chỉ chạy theo thành tích, không coi trọng chất lượng, giá trị của việc giáo dục thì những người đứng đầu ngành giáo dục không xứng với danh xưng là những người đại diện cho hệ thống giáo dục.
Nếu người thầy chỉ nghĩ đến đồng lương, cơm áo gạo tiền, việc dạy học tắc trách thì người thầy đó không xứng đáng được gọi là thầy nữa.
Trong gia đình, người cha phải làm tròn bổn phận của cha đối với con cái để con cái có thể theo đó mà trọn đạo làm con.

 Đạo của Khổng Tử
 Một hôm, Khổng Tử cùng học trò tìm đường sang nước Sái, Khổng Tử thấy hai người đang cày ruộng. Đó là hai bậc ẩn sĩ là Tràng Thư và Kiệt Nịch, Khổng Tử bảo Tử Lộ đến hỏi dò đường.
Gặp Tràng Thư, Tử Lộ cất tiếng hỏi:
- Chào điền chủ! Chúng tôi muốn sang nước Sái chẳng hay nên đi theo con đường nào?
Tràng Thư nghe xong, không vội trả lời mà hỏi:
- Người cầm cương trên xe kia là ai?
Tử Lộ trả lời:
- Đây là ông Khổng Khâu (Khổng Tử)
Tràng Thư lại hỏi:
- Có phải là Khổng Khâu người nước Lỗ không?
Tử Lộ đáp:
- Thưa phải.
Tràng Thư nói:
- Ông ấy chu du đã lâu để dạy Đạo cho đời, hẳn là biết đường rồi, đâu còn phải hỏi ai nữa.
Tử Lộ đành quay sang hỏi Kiệt Nịch.
Kiệt Nịch hỏi lại Tử Lộ:
- Anh là ai?
Tử Lộ đáp:
- Tôi là Trọng Do
Kiệt Nịch lại hỏi:
- Anh là học trò của Khổng Khâu, người nước Lỗ phải không?
Tử Lộ trả lời:
- Thưa phải.
Kiệt Nịch bèn nói:
- Đời loạn đã lâu, cuộc đời cuồn cuộn như dòng nước chảy mãi không thôi. Làm sao mà đổi loạn ra mà trị cho được? Anh đi theo Khổng Tử là kẻ tị nhân (là kẻ bị người đời xa lánh) sao bằng đi theo ta là người tị thế (là người xa lánh cuộc đời) có phải tốt, yên ổn, nhàn nhã hơn không?
Tử Lộ quay lại trình Khổng Tử mọi việc.
Khổng Tử nghe xong buộc miệng than “Ta không thể vào rừng làm bạn với cầm thú được. Người mà không cùng ở với xã hội loài người thì sống với ai? Nếu như thiên hạ đã có đạo rồi thì Khổng Khâu này đâu cần dấn thân lo việc đổi đời loạn ra mà trị, làm cho xã hội loài người an ổn, trăm họ thái bình,… mà chi nữa!”.

Khổng Tử luận đạo cùng học trò

Khổng Tử vẫn bôn ba chỉ bày con người sống hướng thiện, thuận đạo, giữ đức mà không được các vị vua đương thời tin nhận, vận dụng nên chiến tranh giữa các nước chư hầu diễn ra triền miên, xã hội loạn lạc mãi nên lòng không khỏi chán chường, cảm thán.
Vì lẽ đó Khổng Tử đã hỏi Tử Lộ:
- Đạo của ta sai rồi chăng mà sao ta gặp phải cảnh này?
Tử Lộ đáp:
- Theo ý con có lẽ vì ta chưa “nhân” chăng nên người chưa tin nhận ta? Có lẽ ta chưa “trí” chăng nên người không theo đạo ta?
Khổng Tử bảo:
- Nào phải vậy. Này anh Do, nếu người nhân luôn được người đời tin nhận thì sao Bá Di, Thúc Tề phải chết đói trong núi? Nếu lời người trí được người đời nghe theo thì sao Tỷ Can lại bị giết?
Khổng Tử lại hỏi Tử Cống:
- Đạo của ta sai rồi chăng mà sao ta gặp phải cảnh này?
Tử Cống đáp:
- Đạo của thầy cao quá cho nên thiên hạ không ai dung nạp được. Thầy nên hạ thấp đạo xuống một chút.
Khổng Tử bảo:
- Này anh Tứ, người giỏi nghề nông, vãi giống rồi nhưng không tin chắc sẽ được gặt. Người thợ giỏi tuy làm khéo nhưng cũng không tin chắc là họ làm vừa lòng khách hàng. Người quân tử trau dồi đạo đức, theo đường chính mà giữ đạo, tùy thuận theo đạo, nhưng không thể làm việc sửa đổi đạo nhằm mục đích lôi kéo người đời theo. Anh không lo trau dồi đạo của anh mà chỉ cầu người dung nạp anh. Chí của anh thật không xa.
Tử Cống ra, Nhan Hồi vào. Khổng Tử lại hỏi như trước:
- Chẳng phải con tê ngưu, chẳng phải con hổ mà cũng lang thang ở nơi rừng vắng. Có phải đạo của ta sai rồi nên ta mới gặp phải cảnh này?
Nhan Hồi đáp:
- Đạo của thầy cao quá cho nên thiên hạ không ai theo được, nhưng thầy cứ theo đó mà làm. Người không dung nạp được thầy thì đâu có hại gì? Đạo không được trau dồi, đó là điều làm ta xấu hổ. Đạo đã được trau dồi rồi mà người vẫn không dung nạp, thì đó là điều xấu hổ của kẻ làm vua, của người trong thiên hạ. Người đời không dung nạp được thầy thì đâu có hại gì?

 Đạo của Khổng Tử dùng lòng chân thành làm căn bản
 Có một lần, Khổng Tử và các học trò đàm luận về cách đối nhân xử thế ở đời.
Tử Lộ nói:
- Nếu người khác dùng thiện ý đối xử với con, con cũng đối xử tốt với họ. Nếu họ đối xử không tốt với con, con cũng sẽ không tốt với họ.
Khổng Tử nói:
- Đây là cách làm của những người không có đạo đức, lễ nghĩa.
Tử Cống nói:
- Nếu người khác dùng thiện ý đối xử với con, con sẽ đáp lại tốt với họ. Nếu họ không đối xử tốt với con, con sẽ chỉ dẫn cho họ theo hướng thiện.
Khổng Tử nói:
- Đây là cách nên làm giữa những người bạn.
Nhan Hồi nói:
- Nếu người khác dùng thiện ý đối xử với con, con cũng đối xử tốt với họ. Nếu người khác không đối xử tốt với con, con vẫn dùng thiện ý đối tốt với họ và chỉ dẫn họ theo hướng thiện.
Khổng Tử nói:
- Đây là cách nên làm giữa những người thân sống hết lòng vì nhau. Nếu các con có thể mở rộng tư tưởng và đối xử với tất cả mọi người trong thiên hạ bằng lòng chân thành, thì mới thực sự là dùng thiện tâm để đối xử với người!
 Chữ hiếu trong đạo của Khổng Tử
Thầy Tăng Sâm bừa cỏ ruộng dưa, do vụng về làm đứt mất ít rễ. Cha là Tăng Tích cả giận, cầm gậy đánh vào lưng. Tăng Sâm đau quá, ngã gục xuống, chết giấc một lúc mới hồi tỉnh lại.
Khi về nhà, thầy liền đến thưa với cha rằng:
- Lúc nãy con có tội để đến nỗi cha phải đánh, làm đau tay cha, thực là con lỗi đạo. Nói xong, thầy lùi xuống vừa gẫy đàn, vừa cất tiếng hát, cố ý để cha nghe tiếng biết rằng mình không còn đau đớn.
Đức Khổng Tử biết chuyện, bảo học trò cấm cửa không cho Tăng Sâm vào gặp. Thầy Tăng Sâm tự nghĩ mình vô tội nên nhờ bạn lại hỏi “Vì cớ gì mà thầy Khổng Tử giận?”.
Đức Khổng Tử nói:
- Ngày trước ông Tăng Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu, lúc cha sai khiến việc gì thì ở luôn bên cạnh nghiêm cẩn thực hiện. Lúc cha giận dữ muốn giết thì lánh xa. Cha đánh bằng roi vọt thì cam chịu, đánh bằng gậy gộc thì chạy trốn. Thế cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng là bất từ. Nay Tăng Sâm thờ cha liều mình để chiều cơn giận của cha đến nỗi ngất đi. Chẳng may cha đánh nặng tay mà chết thì có phải là làm cho cha mắc tội không? Việc của Sâm làm có phải là tội bất hiếu? Người làm con mà phạm tội bất hiếu như vậy thì sao dám nhận là học trò của Khổng Khâu được.
Tăng Sâm nghe bạn thuật lại, nhận rõ lỗi lầm, liền đến tạ tội với Đức Khổng Tử.
Thuyết Uyển
Lời Bàn:
Người làm con có hiếu thì dẫu vì cha mẹ mà phải hy sinh tính mạng cũng không có gì là quá mức. Song, nếu người con liều mình mà cứu cha mẹ trong khi nguy cấp là chí hiếu, còn người con để cha mẹ nhân cơn giận dữ đánh đập, lỡ nguy hại đến tính mạng, thì chẳng những là bất hiếu mà còn mang tiếng là hãm cha mẹ vào tiếng bất từ. Thầy Tăng Sâm là người con rất hiếu thảo nhưng chưa đúng cách, Tăng Thuấn cũng là người con có hiếu nhưng rõ biết lẽ phải trái, biết việc nên làm và điều không nên làm mà giữ tròn đạo hiếu.
 Người con có hiếu 
Thầy Tử Lộ vào hầu Đức Khổng Tử và nói rằng:
- Đội nặng đi đường xa thì tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ già thì con làm được gì thì phụng dưỡng cha mẹ theo khả năng của mình. Không đợi có quyền cao, chức trọng rồi mới phụng dưỡng. Lúc song thân còn, Do này chỉ phụng dưỡng cơm lạt dưa muối, đường xa trăm dặm Do đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, Do được làm quan ở nước Sở có xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt. Mỗi khi nhớ đến song thân lại muốn dưa muối, đội gạo để nuôi người như trước thì không sao được nữa! Cha mẹ già như bóng câu qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, con muốn phụng dưỡng mà cha mẹ không còn sống.
Đức Khổng Tử nói:
- Này Do, anh phụng sự song thân như vậy rất là phải.
Gia Ngữ
Lời Bàn:
Khi cha mẹ còn hết lòng nuôi nấng, khi cha mẹ mất hết lòng thương nhớ. Đó thực là cái đạo hiếu của con đối với cha mẹ. Làm trái lại hẳn như thế là bất hiếu, là tội trọng. Không chỉ vậy lúc cha mẹ còn thì thờ ơ, chểnh mảng chăm nom. Lúc cha mẹ mất thì nấu “mâm cao cỗ đầy, làm văn tế ruồi” như thế cũng là bất hiếu. Cho nên người con có hiếu còn cha mẹ ngày nào nên vui ngày ấy, kịp ăn ở cho trọn đạo, chớ để đến lúc cha mẹ mất rồi, có hối lại cũng không sao được. Vì rằng làm con mà được còn có cha mẹ để báo đáp là một việc hạnh phúc nhất ở trên đời, là một việc rất đáng làm.
Đạo của Mặc Tử
Mặc Tử là người ở nước Lỗ nhân dịp sang nước Tề, đã ghé qua nhà người bạn cũ.
Người bạn nói với Mặc Tử rằng:
- Bây giờ thiên hạ ai còn biết đến việc nghĩa, một mình ông tự khổ thân để làm việc nghĩa, thì có thấm vào đâu! Chẳng thà thôi đi có hơn không?
Mặc Tử nói:
- Bây giờ tôi hỏi ông “Một nhà có mười đứa con, một đứa đi cày, chín đứa ngồi ăn không làm thì đứa đi cày chẳng nên càng chăm cày hơn lên ư? Tại sao thế? Tại đứa ngồi ăn không thời nhiều, đứa đi cày thời ít, không gắng sức làm thì lấy gì mà ăn? Bây giờ người thiên hạ chẳng ai chịu làm việc nghĩa thì ông phải biết khuyên tôi càng nên làm mới phải, có đâu lại ngăn tôi như thế!".
Chú Thích:
Mặc Tử là tên bộ sách của Mặc Ðịch soạn, ông sinh vào thời Chiến Quốc. Là một học giả, nhà tư tưởng lớn của đất nước Trung Hoa. Học thuyết của Mặc Địch thể hiện ông là người sống rất gần gũi với thực tế xã hội và người lao động. Tư tưởng của Mặc Tử chứa đựng chủ nghĩa kiêm ái, yêu người như yêu mình.
Ở 10 chủ trương lớn trong sách Mặc Tử có chủ trương Thượng đồng với nội dung thể hiện sự ràng buộc con người thuộc mọi thành phần, tầng lớp xã hội đều phải tuân thủ nghiêm ngặt theo lý lẽ và cả quan niệm tốt xấu, đúng sai chung nhất mang tính đa số hoặc do sự quy định, các nguyên tắc, quan điểm,… ở người đứng đầu, người lãnh đạo. Những con người thuộc thành phần, tầng lớp bị trị không được có chủ trương, chính sách riêng khác,…
Về sau, Hàn Phi đã kế thừa, phát huy và trình bày hệ tư tưởng này  lại một cách rõ ràng, sát với thực tiễn cuộc sống. Cụ thể là:
Pháp luật không dựa theo người sang... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn ngoan, gian xảo cũng không bỏ qua, nhân nhượng; kẻ trí dũng, cuồng ngông cũng không dám tranh, không tự tiện làm càn. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, người có công, thưởng cái đúng không bỏ sót nơi kẻ thất phu, hạ tiện,…
Lời Bàn:
Trong khi nhân tâm thế sự suy đồi, mình là người còn đứng vững được thì sao lại chịu suy đồi với thiên hạ cho cùng trôi một loạt. Vì nếu ai cũng như thế cả thì còn đâu là người cảnh tỉnh được kẻ u mê để mà duy trì lấy nhân tâm thế đạo nữa? Cho nên những người thức thời, có chí dù ở vào cảnh đời biến loạn đến đâu cũng không chịu đắm đuối vào sự bất nghĩa. Khác nào như cây tòng, cây bách, mùa đông sương tuyết mà vẫn xanh, như con gà trống khi bình minh lên thì dù cho mưa gió tối tăm mà vẫn gáy,... Những bậc ấy chẳng những thế mà thôi, lại còn đem bao nhiêu tinh lực, tâm trí ra cố gắng giữ lấy phong hóa mà dìu dắt, mà đưa đường cho những kẻ u mê, đắm lối.
Như thầy Mặc Tử, rõ biết đạo đời đang suy biến vì thế đã coi sự làm việc "Nghĩa", sự cổ động việc nghĩa như trách nhiệm, là việc của chính mình cần phải làm.

Đạo của Trang Tử
Một hôm Trang Tử dẫn học trò đi ngao du, tiện đường ghé vào thăm nhà một người bạn.
Chủ nhà tay bắt, mặt mừng nói:
- Tiếng tăm tiên sinh vang dội như sấm động. Hôm nay, tiên sinh ghé thăm nhà tôi thật là vạn hạnh.
Nói rồi, người bạn của Trang Tử quay lại gọi gia đinh bảo:
- Hôm nay ta gặp khách quý, để mở đầu câu chuyện ngươi hãy thịt một con chim cho ta đãi khách!
Đứa ở hỏi:
- Vâng ạ! Nhưng thưa chủ nhân nhà ta có hai con chim. Một con hót hay, một con không biết hót chủ nhân bảo “Thịt con nào?”.
Người chủ nhân lại nói:
- Dĩ nhiên phải thịt con chim không biết hót, thứ vô dụng đó để mà làm gì?
Trang Tử cùng chủ nhân ngồi nhâm nhi ly rượu với thịt chim, luận việc thế thái nhân tình, đoạn từ giã chủ nhà, dẫn học trò ra đi. Họ đi ngang một cánh rừng, thấy một tiều phu chống búa giữa cảnh rừng núi bao la. Trước mắt lão là một cây cổ thụ.
Trang Tử thấy vậy hỏi:
- Trời chiều mà chưa thấy ông đẵn được cây nào. Gặp cây này cao thẳng sao ông không hạ đi?
Lão tiều thở dài nói:
- Tôi cũng muốn hạ nó, nhưng ngặt nỗi gỗ nó xốp lắm, thứ vô dụng đó đẵn mà làm chi?
Một học trò nghe vậy, hỏi thầy:
- Cây vô dụng thì không dùng, con chim vô dụng thì giết. Con thật không hiểu hết thói đời?
Trang Tử mỉm cười nói:
- Ta nên ở vào khoảng hữu dụng và vô dụng đó. Chỉ có người đạt đạo mới tránh khỏi tai họa mà thôi.

Chú Thích:
Trang Tử  có tên tự là Trang Chu, sinh ra thời Chiến Quốc, ông là một triết gia, một nhà tư tưởng lớn của đất nước Trung Hoa.
Sử ký Tư Mã Thiên có đoạn viết một câu truyện liên quan đến Trang Tử:

Uy Vương, vua  nước Sở nghe nói Trang Tử là bậc hiền tài bèn sai sứ đem vàng lụa đến mời, hứa cho làm tướng. Trang Tử cười nói với sứ giả rằng:
- Ngàn vàng đáng trọng thật, khanh tướng tôn quý thật nhưng ông có thấy con lợn bị đem đi tế lễ không? Nó được nuôi nấng, chăm sóc no đủ một thời gian rồi được choàng quần áo sặc sỡ và đưa đến Thái Miếu. Lúc đó, nó muốn làm con lợn đơn độc có được nữa chăng? Ông hãy về đi, chớ làm ta nhơ bẩn. Ta thà cứ rong chơi ở nơi ô trọc này còn thấy sướng hơn là bị người chủ nước nọ trói buộc thân ta.

Chí của Trang Tử ẩn chứa nền tảng tư tưởng Đạo gia, ẩn dật, tự tại, quay về sống hòa hợp với thiên nhiên, không muốn tham dự vào tranh quyền, đoạt lợi, xa lánh những thị phi điên đảo ở đời. Nhân sinh quan gần như đối lập với đạo Khổng mang bản thể trần tục, dựa vào thực tế, trọng lời nói, việc làm và tôn trọng chủ nghĩa nhân văn.
Trang Tử là người kế thừa tư tưởng của Lão Tử, nhưng lại phát triển sai khác với nguyên gốc thể hiện rõ tính thoát tục, lánh đời.

Lời Bàn:
Câu kết của Trang Tử nói nghe như không khớp với câu hỏi của người học trò. Vì chim và cây không phải là người mà hàm ý câu trả lời của Trang Tử thì hữu dụng, vô dụng lại là hai mặt của cuộc đời...
Ngụ ý của Trang Tử là muốn những người học trò của ông nên đặt thân mình vào giữa khoảng hữu dụng và vô dụng.
Trang Tử nói “Chỉ có người đạt đạo mới có thể sống ở khoảng giữa hữu dụng và vô dụng”. Bởi lẽ người dù vô dụng đến mấy thì cũng không hẳn không làm được việc gì. Ít ra họ cũng biết trông coi vườn tược, cũng biết dọn dẹp nhà cửa,...
Người vô dụng có thể bị người khôn khéo, bóc lột công sức cho đến khi sức tàn, lực kiệt.
Còn người hữu dụng thì sao? Người hữu dụng thấy việc gì cũng làm được, thành ra việc gì cũng ôm đồm, cáng đáng, nhận làm. Cuối cùng cũng làm con rối cho bọn quyền thế cường hào hoặc bị lao tâm, lao lực do tự làm nô lệ cho bản thân, danh lợi, địa vị, bạc tiền, đánh mất sự an lạc, sức khỏe và hạnh phúc.
Tóm lại, hữu dụng hoặc vô dụng mà thiếu sự hiểu biết và chừng mực thì cũng đều bị tận dụng, bị vắt kiệt sức lực cùng tinh thần. Người hiểu biết thông đạt đạo lý xưa là người hiền trí. Trí để không ai lợi dụng mình. Hiền để không ai ghét mình.
Đọc sách Trang Tử, bạn sẽ nhận thấy Trang Tử trước học theo đạo của Khổng Tử, sau theo về đạo của Lão Tử nhưng chữ Nhu có trong đạo của Trang Tử có chứa đựng chữ Nhược chứ không là chữ Nhu có chứa đựng chữ Tùy ở đạo của Lão Tử. Vì thế đạo của Trang Tử có phần yếm thế, lánh đời. Chính vì vậy mà đạo của Trang Tử không được người đời trọng dụng và sớm bị mai một.

Tu Thân

Thấy người hay thì phải cố mà bắt chước học hỏi. Thấy người dở thì phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi.
Chính mình có điều hay thì phải cố mà giữ lấy. Chính mình có điều dở thì phải cố mà trừ đi.
Người chê ta mà chê phải tức là thầy ta. Người khen ta mà khen phải tức là bạn ta. Còn người nịnh nọt, bợ đỡ ta lại là người cừu địch hại ta vậy.
Cho nên người quân tử trọng thầy, quý bạn, rất sợ cừu địch, thích điều phải mà học và làm theo không biết chán, nghe lời trái tai mà nhận biết đó là những lời khuyên răn chân thành, ngay thẳng thì tùy thuận theo,… Như thế thì dù muốn không hay cũng không được.
Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cực bậy mà lại ghét người chê mình, rất dở mà lại thích người khen mình, bụng dạ như sài lang, ăn ở như cầm thú mà thấy người không phục thì lại không bằng lòng. Thân cận với kẻ xiểm nịnh, xa cách người can ngăn. Những kẻ ấy thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê ,... Như thế thì dù muốn không dở cũng không được.

Tuân Tử

Chú Thích:
Tuân Tử : Tên là Huống, tự là Khanh, người nước Triệu, sinh ra sau Mạnh Tử khoảng 50 năm vào cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử nhận thấy đời bấy giờ cứ loạn lạc mãi. Phong tục, tập quán, lễ nghi suy đồi nên ông đã viết sách nói về lễ nghĩa, lễ nhạc, cốt ý để tu chỉnh đức và đề cao đạo. Nhân sinh quan của Tuân Tử đề cập đến Tính Ác có trong nội tâm con người cơ hồ ngược lại quan điểm của Khổng - Mạnh là bản thể con người mang Tính Thiện.

Lời Bàn:
Cái đạo tu thân rút gọn lại chỉ gồm việc biết làm theo điều hay, biết tránh làm điều dở. Muốn đạt được cái mục đích ấy thì không những là tự mình phải xét mình, lại còn phải xét cái cách người đối với mình. Ðối với người, cần phải biết hai điều:
- Ai khen chê phải, khuyên răn hay thì phục, thuận làm theo.
- Ai chiều lòng, nịnh nọt thì tránh cho xa coi như cừu địch.
Nên ưa người khuyên mình hơn là người khen mình có như thế mới tu thân được.

Cách phục lòng người
- Mình là người sang trọng, giàu có thì chớ nên kiêu mạn.
- Mình là bậc thông minh, tài trí thì chớ nên khinh người.
- Mình có quyền thế, sức mạnh thì chớ nên chèn ép, đè nén người.
- Mình ăn nói lanh lợi, hoạt bát thì chớ nên dối trá, lừa gạt người.
- Mình còn kém thì phải học, chưa biết thì phải hỏi, phải biết lắng nghe.
- Ðối với làng nước thì phải giữ cái thứ bậc, trật tự trên dưới.
- Ðối với người nhiều tuổi thì phải giữ cái nghĩa con em.
- Ðối với người bằng vai thì phải giữ cái nghĩa bè bạn.
- Ðối với trẻ thơ thì phải dạy bảo khoan dung, độ lượng.
Như vậy thì ai cũng yêu, ai cũng kính, không tranh giành với ai. Tâm địa rộng rãi thênh thang như trời đất, thì bao bọc được cả muôn loài.

Hàn Thi Ngoại Truyện
Sự quyền biến, cơ mưu có trong sách Hàn Phi Tử
Ngày trước, Di Tử Hà được vua nước Vệ tin yêu. Theo pháp luật của nước Vệ, ai tự tiện trưng dụng xe của nhà vua để đi lại là bị tội chặt chân.
Một hôm, mẹ Di Tử Hà lâm bệnh nặng. Di Tử Hà nghe tin báo vào lúc nửa đêm vội vàng lấy xe ngựa của vua về nhà chăm nom bệnh tình cho mẹ. Nhà vua nghe tin cho là người hiền, đã miễn tội chặt chân.
Vua nước Vệ nói:
- Di Tử Hà thực là người con có hiếu! Sẵn lòng vì mẹ mà chịu tội chặt chân.
Hôm khác, Di Tử Hà cùng đi với vua trong vườn thượng uyển. Di Tử Hà đang ăn quả đào thấy ngon, không ăn hết mà dâng cho vua nước Vệ.
Nhà vua nói:
- Anh ta thật yêu ta! Của đang ngon miệng mà biết nhớ nghĩ, nhường lại cho ta.
Về sau, nhà vua không còn lòng tin yêu, trọng dụng Di Tử Hà.
Một dịp Di Tử Hà phạm lỗi, vua cả giận nói rằng:
- Di Tử Hà đã từng có lúc dám tự tiện lấy xe của ta đi. Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa. Thật là mang tội với ta đã rất nhiều lần.
Nói xong, nhà vua sai người bắt Di Tử Hà đem đi trị tội.

Di Tử Hà ăn ở với vua trước sau vẫn vậy. Thế nhưng lúc trước vua khen, về sau vua bắt tội là vì khi yêu ghét khác nhau mà thành ra nơi sự có khác biệt. Lúc được vua yêu, việc làm chính thật là tạo tội thì lại hóa công thần. Tuy vậy, đến khi vua chán ghét, việc làm chính ra không đáng tội thì lại hóa ra thành tội. Cho nên người muốn can ngăn, đàm luận với vua điều gì, thì trước phải xem xét cái lòng vua yêu hay ghét thế nào rồi hãy nói.

Hàn Phi Tử
Lời Bàn:
Đó là vì lòng yêu ghét có sự thay đổi. Cho nên được nhà vua yêu thì cái khôn của mình càng làm cho mình được thân, bị nhà vua ghét thì cái hay của mình càng làm cho mình bị ruồng bỏ, hại mạng.
Sự yêu ghét thường làm cho con người nhìn nhận vấn đề trở nên lệch lạc, không thật đúng với sự thật, bản chất; không rõ biết được cái giá trị của người được yêu hay bị ghét là như thế nào?
Không nói gì yêu người này, ghét người nọ, cũng chỉ một người ấy, lúc yêu cho ra thế này, lúc ghét cho ra thế kia. Cái thói thường yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu. Trong lòng đã vậy thì sự cư xử cũng theo đó mà biểu hiện. Lúc yêu nhiều bao nhiêu thì đến lúc ghét lại hận bấy nhiêu.
Kinh nghiệm người xưa đã đúc kết lại “Yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười”.
Lại chẳng những yêu ghét riêng một người ấy thường yêu ghét đến cả những sự việc hay những người có liên quan đến người ấy. Vì lẽ đó, dân gian có câu “Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi, họ hàng”.
Sự yêu ghét làm cho con người thiên vị và lầm lộn, xáo trộn mọi thứ. Cho nên con người muốn cho công bình, ngay thẳng, đúng mực thì khi yêu, khi ghét phải nên rõ cái giá trị của người được yêu hay bị ghét, rõ biết cả chỗ phải và chỗ trái.

Luận thuyết của Hàn Phi Tử
Cái khó trong việc du thuyết không phải là ở chỗ biết những điều cần phải đưa ra nói. Cũng không phải ở chỗ người du thuyết không giỏi biện luận. Cũng không phải ở chỗ không trình bày được rõ ràng ý nghĩ của mình. Cũng không phải ở chỗ không dám nói ngang, nói dọc cho hết cái ý của mình. Phàm cái khó trong việc du thuyết chính là ở chỗ làm thế nào biết được cái mong mỏi ở con người mình muốn thuyết phục để dùng cái thuyết của mình mà ứng biến, đối phó.
Nếu tính cách của người mà mình muốn thuyết phục chỉ nghĩ đến cái danh cho cao, mà người du thuyết lại đem cái lợi lớn ra thuyết với họ thì họ sẽ cho mình là bọn hèn hạ và đối xử người du thuyết như đối với bọn ti tiện. Thế thì rõ thật là không ổn.
Nếu tính cách của người mà mình muốn thuyết phục chỉ nghĩ đến cái lợi cho lớn, mà người du thuyết lại đem cái danh cao ra nói với họ thì họ sẽ cho ta không chú ý gì đến thế sự, nói chuyện viễn vông, không thực tế và họ cũng không tin dùng, xa cách người du thuyết. Đồng nghĩa với việc thuyết phục bị thất bại.
Nếu tính cách của người mà mình muốn thuyết phục trong bụng nghĩ đến cái lợi cho lớn nhưng bên ngoài làm ra vẻ muốn cái danh cho cao, mà ta đem chuyện danh cao ra thuyết thì bên ngoài họ làm ra vẻ dung nạp kết thân với ta, nhưng thực ra thì đã bỏ rơi ta.
Nhưng nếu ta đem chuyện lợi lớn ra nói với họ thì trong lòng họ đã thuận theo lời nói của ta, nhưng bên ngoài họ sẽ ra vẻ xa cách ta. Đó là những điều mà kẻ sĩ du thuyết không biết không được. Không biết là cầm chắc việc thuyết phục thất bại vậy.
Phàm việc làm mà thành là do ở chỗ bí mật. Lời bàn mà thất bại là do chỗ bị tiết lộ. Bản thân mình chưa chắc đã tiết lộ nhưng chỉ cần nói đến cái mà người ta giấu thì nguy đến thân rồi. Nhà cầm quyền có điều sai mà người du thuyết lại dùng những lời nói rõ ràng, xác thực. Dùng cái lý lẽ, biện bác hay, chuẩn mực để biện luận ra những sai trái của nhà cầm quyền thì hẳn là nguy đến thân mạng.
Nếu ta chưa được nhà cầm quyền tin dùng đến mà lại đem hết những điều ta biết ra nói thì hoặc là các biện pháp, kế hoạch, sách lược của ta được áp dụng và thu được kết quả nhưng ta chẳng được công trạng. Hoặc là các sách lược cải cách của người thuyết khách không được dùng thì sẽ dẫn đến sự thất bại ở kế hoạch thuyết phục. Thế là người du thuyết bị nghi ngờ, đố kỵ, ganh ghét. Như thế thì thật nguy đến thân.
Phàm nhà cầm quyền tin nhận và vận dụng cái sách lược, phương pháp của người du thuyết nhưng họ muốn xem đó là công trạng của chính họ, mà người du thuyết lại muốn cùng có công, thế thì nguy đến thân. Nếu nhà cầm quyền rõ ràng muốn làm một việc và cho đó là công lao của mình mà kẻ du thuyết lại cùng biết điều đó thì cũng nguy đến thân. Nếu mình cưỡng ép nhà cầm quyền, buộc nhà cầm quyền phải làm những điều mà nhà cầm quyền quyết không làm, cố xóa bỏ những điều nhà cầm quyền quyết không từ bỏ,… thì thật nguy đến thân.
Cho nên nếu ta đem những người được việc, hữu dụng trong giới lãnh đạo ra nói với nhà cầm quyền thì nhà cầm quyền sẽ cho là ta ly gián. Nếu ta đem những người thấp hèn ra nói với nhà cầm quyền thì nhà cầm quyền sẽ cho rằng ta muốn thâu tóm quyền lực. Ta bàn đến cái nhà cầm quyền thích thì nhà cầm quyền sẽ cho là ta xu nịnh, a dua. Ta bàn đến cái nhà cầm quyền ghét bỏ thì nhà cầm quyền sẽ cho là ta đang thăm dò, gián điệp.
Nếu ta nói tóm tắt, ít lời thì nhà cầm quyền sẽ cho rằng kiến thức ta kém cỏi nên rẻ rún, coi khinh. Nếu ta nói mênh mông, “bàn huyền, nói diệu”, lời lẽ phù phiếm thì nhà cầm quyền sẽ nhận định ta vẽ vời nên chán ghét. Nếu ta cứ trình bày sự việc theo ý muốn nhà cầm quyền thì nhà cầm quyền sẽ bảo ta "nhút nhát, không dám nói hết sự lý", không có chính kiến. Nếu ta rà soát kín kẽ sự việc rồi nói rộng ra thì nhà cầm quyền lại nói ta "lắm chuyện và ngạo mạn". Tất cả những điều khó này trong việc du thuyết không thể không biết đến.
Phàm việc thuyết phục là cốt ở chỗ biết tô điểm cho cái mà nhà cầm quyền coi trọng. Từ bỏ, tránh chạm đến cái mà nhà cầm quyền không muốn đề cập. Hễ nhà cầm quyền tự cho cái sách lược, kế hoạch người thuyết khách sai, hoặc không ổn thì ta chớ nói ra chỗ nói sai lầm ở nhận định nhà cầm quyền mà bắt bẻ đến cùng, là việc làm nguy hại đến thân.
Nếu nhà cầm quyền tự cho mình dũng mãnh ở chỗ quyết đoán một việc gì thì ta chớ đưa ý của ta ra chống lại mà làm cho nhà cầm quyền nổi giận. Nếu nhà cầm quyền cho rằng quyền lực của họ đủ để làm một việc gì thì ta chớ đem cái khó ra can gián, ngăn cản. Nếu nhà cầm quyền muốn mưu toan việc gì cùng với một người khác, hay khi khen một người mà nhà cầm quyền đang cùng bàn mưu với họ thì ta nên tô điểm cho họ và chớ nói những lời có hại, không hay đến những người đó. Nếu nhà cầm quyền và người ấy thất bại thì hãy cố gắng tô điểm làm như họ không tạo ra sai lầm.
Kẻ đại trí không dùng lời lẽ làm trái ý nhà cầm quyền. Lời can gián cũng không cốt đả kích, gạt bỏ ai. Lời can ngăn hợp lẽ thì thế nào cũng được nghe. Người làm tôi phải biết kiên nhẫn và lựa lời. Sau đó mới đem cái tài biện luận và cái khôn của mình ra. Như thế cho nên gần gũi với nhà cầm quyền, không bị nhà cầm quyền ngờ vực, đề phòng, xa cách.
Biết hết cái đạo thờ nhà cầm quyền là rất khó. Phải chờ đến khi nào làm việc cùng nhau đã đủ lâu, được công trạng  nhiều. Bày mưu kế sâu mà không bị nghi nan, mềm mỏng, tùy thuận, không xung đột trực diện lại ý muốn nhà cầm quyền và không bị gán ghép tội. Lúc bấy giờ mới bày rõ điều lợi hại. Muốn lập được đại công thì phải nói ra được điều phải, điều trái để cho nhà cầm quyền trọng dụng, tin yêu. Khi nào nhà cầm quyền và mình đối với nhau được như vậy lúc đó là lúc việc du thuyết sẽ thành công.
Chú Thích:
Hàn Phi Tử có tên tự là Hàn Phi, là người nước Hàn, sống cuối thời Chiến Quốc, là nhà chính trị theo tư tưởng Pháp Gia (Là chính sách trị nước bằng các biện pháp hình luật, chế tài,…).
Lời Bàn:
Do ảnh hưởng tư tưởng “Bản chất của con người là mang tính ác” của người thầy là Tuân Tử nên Hàn Phi đã xây dựng học thuyết mang tính đối trị tính ác của con người bằng cách biện pháp trừng phạt, cai trị hà khắc, bức ép,… dồn đời sống con người vào khuôn khổ, nguyên tắc chuyên quyền.
Ban đầu, chính sách cai trị, quản lý theo Pháp Gia của Hàn Phi cũng giúp Tần Thủy Hoàng ổn định, thống nhất được đất nước Trung Hoa nhưng sự hà khắc của các biện pháp cai trị đã khiến người dân túng quẩn, cùng đường, dẫn đến việc coi thường sự sống chết thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa do Trần Thắng, Ngô Quảng và con cháu của các nước chư hầu cũ. Kết quả của những cuộc nổi dậy là việc sụp đổ nhà Tần.
Điểm qua các tư liệu sách của Hàn Phi viết, ta sẽ nhận thấy sách của Hàn Phi khiến cho con người trở nên gian ngoan, trí xảo, nhiều toan tính,… Theo cách nói ẩn trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử, điều này làm cho sự trí trá, quyền biến nơi lòng người tăng trưởng, dẫn đến sự rối loạn Tam cương - Ngũ thường, con người ngày càng xa rời đạo, mất đức.
Cuối cùng, chính Hàn Phi đã bị sự trí trá có trong tư tưởng, học thuyết ở sách Hàn Phi Tử bức hại và chết thảm. Lý Tư, là bạn đồng học của Hàn Phi, tự nhận biết mình kém cỏi hơn Hàn Phi. Vì sợ Tần Thủy Hoàng trọng dụng Hàn Phi, phế truất mình nên đã dùng gian kế đẩy Hàn Phi vào chỗ chết. Hàn Phi bị buộc uống thuốc độc và chết ở trong ngục tối. Có lẽ cho đến khi chết, Hàn Phi vẫn không ngờ rằng “Sự khôn khéo, gian ngoan, nhiều mưu trí,… có trong học thuyết của chính mình đã đẩy ông vào chỗ chết”.
Sự trí trá có trong sách Hàn Phi Tử khiến cho những kẻ cơ hội, gian thần nhận rõ chân tướng, diện mạo của người tài, người đức và nếu cảm nhận thấy mối nguy bị mất quyền lợi, bị thất sủng,… những mưu sĩ tiểu nhân, gian thần,… sẽ dùng “mưu sâu, kế độc”, hãm hại người hiền tài, hiền đức nhằm bảo toàn quyền lợi, địa vị.

Vấn nạn mê tín dị đoan thời xưa
 Ngụy Văn Hầu sai Tây Môn Báo làm Thái Thú trấn nhậm Nghiệp Quận. Đến nơi, ông thấy quang cảnh tiêu điều, xơ xác. Dân chúng thưa thớt, hốt hoảng. Tây Môn Báo hỏi thăm vài người, họ bảo:
- Nghiệp Quận khổ vì Hà Bá cưới vợ.
Ông ngạc nhiên hỏi:
- Hà Bá cưới vợ ư?
Người dân đáp:
- Hà Bá là thần sông Chương này. Thần rất thích vợ đẹp. Mỗi năm, Hà Bá bắt dân phải nộp một thiếu nữ nhan sắc, thần mới cho mưa thuận, gió hòa. Nếu không thần sẽ cho bão lụt, dâng nước cuốn trôi nhà cửa.
Tây Môn Báo hỏi:
- Ai bày ra việc ấy?
Người dân đáp:
- Bọn đồng cốt và tam lão (Tam lão là ba ông lão già làng có uy tín, thay mặt chính quyền địa phương giải quyết việc làng). Dân làng ở đây rất sợ Hà Bá làm lũ lụt. Bọn đồng cốt, tam lão, hào trưởng bắt dân phải nạp mấy trăm quan tiền cúng Hà Bá cưới vợ. Mỗi năm chúng bắt đầu đi dạo, nhà nào có con gái thì chúng nói "Đáng làm vợ Hà Bá". Nhiều người sợ phải nạp tiền thật nhiều cho chúng, nhà không tiền thì phải nạp con gái. Chúng chọn ngày tốt bắt kẻ xấu số kia đi tắm sạch sẽ, mặc đồ đẹp cho ngồi vào thuyền cỏ đẩy ra giữa sông. Thuyền cỏ chìm, thiếu nữ ấy cũng biệt tích. Nhiều người không tiền đành trốn đi. Nghiệp Quận ngày càng thưa dân.
Tây Môn Báo nói:
- Hà Bá đã linh thiêng như vậy thì hôm nào đến ngày Hà Bá lấy vợ cho ta biết để hợp sức mà cầu.
Đến ngày đó, Tây Môn Báo mặc triều phục ra bờ sông, thấy hào trưởng, đồng cốt, tam lão và dân chúng cả ngàn người kéo đến xem. Bọn tam lão đưa một bà đồng cốt với vẻ mặt vênh váo, kiêu ngạo liền theo sau chừng hai chục đệ tử, trang phục cực kỳ diêm dúa xếp làm hai hàng đi đến.
Sau khi để bọn đồng cốt huyên thuyên, Tây Môn Báo mới nhìn ngắm cô thiếu nữ được tuyển chọn làm vợ Hà Bá rồi nói với bà đồng:
- Hà Bá là Phúc thần thì phải tìm một thiếu nữ cho đẹp mới được, coi ra cô gái này thật không xứng. Phiền mụ xuống nói với Hà Bá rằng “Mọi người đang vâng lệnh quan Thái thú đi tìm một thiếu nữ nhan sắc sẽ nạp sau. Làm như vậy có được không?”.
Nói dứt tiếng, Tây Môn Báo sai lính ném bà đồng xuống sông, ông ngồi im chờ đợi…
Hồi lâu không thấy gì, Tây Môn Báo nói:
- Bà đồng này, tuổi già không làm được việc, đi đã lâu mà không thấy trả lời. Các đệ tử mau xuống giục bà ấy lên cho ta.
Nói xong, bắt hai đệ tử của bà đồng nắm tay nhau nhảy xuống sông. Rồi ông cũng ngồi im như trước.
Một lúc, Tây Môn Báo lại nói:
- Sao lại không thấy lên?
Rồi sai hai đệ tử khác "đi giục", lại chê chậm, rồi lại bắt đi...
Sau đó, Tây Môn Báo nói với tam lão:
- Họ là những người yếu đuối, ăn nói không rõ ràng. Phiền tam lão xuống nói cho minh bạch.
Tam lão không chịu đi. Tây Môn Báo hét:
- Đi mau, rồi về nói lại cho ta biết.
Lính lôi tam lão đẩy xuống sông. Mọi người khiếp sợ, Tây Môn Báo đứng chắp tay kính cẩn đợi chờ, hồi lâu nói:
- Tam lão cũng không xong việc. Phiền các hào trưởng vì dân làng đi một chuyến vậy.
Các hào trưởng cả sợ, dập đầu lạy đến chảy máu, luôn miệng xin tha. Tây Môn Báo nói:
- Nước sông cuồn cuộn, Hà Bá ở chỗ nào? Các ngươi hại không biết bao nhiêu thiếu nữ vô tội ở vùng này. Phải đền mạng cho họ.
Các hào trưởng vừa lạy, vừa nói:
- Chúng tôi bị bọn đồng cốt lừa dối.
Tây Môn Báo nói:
- Bà đồng chết rồi, từ nay kẻ nào nói Hà Bá cưới vợ ta sẽ trị tội. Còn bọn hào trưởng lấy của dân bao nhiêu thì phải trả lại cho đủ.
Từ đó việc đồng cốt ở Nghiệp Quận mới được trừ dứt.
Lời Bàn:
Đồng cốt là một trong những việc mê tín có từ thời thượng cổ. Những năm gần đây vấn nạn mê tín dị đoan bùa chú, đồng cốt, bói toán,… đang có dấu hiệu khôi phục và phát triển lớn mạnh trở lại. Chuyện cảm ứng không hẳn là không có nhưng những tệ nạn mê tín dị đoan không mang lại nhiều lợi ích cho người sống, phần lớn khiến cho lòng người bấn loạn, hoang mang.
Qua câu truyện trên ta thấy đám đồng cốt là một lũ dã man, tàn nhẫn, ác độc,… chúng cấu kết với đám cường hào, ác bá làm việc hại dân, hại nước. Chúng lợi dụng lòng tín ngưỡng chất phác của người dân đưa họ vào con đường mê tín dị đoan.
Tây Môn Báo đến Nghiệp Quận thấy cảnh vật tiêu điều, hoang vắng. Dân tình không có sinh khí, những gương mặt héo hắt, sầu thảm,… hỏi ra mới biết nguyên nhân. Ông không vội vàng, hấp tấp, hoặc ra lệnh bắt giết, trừng trị lũ người gian trá, xảo quyệt, tàn độc vì rõ biết làm như vậy sẽ không thể diệt hết tận gốc ung nhọt xã hội và chạm đến sự tín ngưỡng thuần thành của dân.
Người dân thời đó đâu thể phân biệt được đâu là tín ngưỡng và đâu là mê tín. Ông đã chọn cách trừng trị bọn dã man mà không ai phản đối và cũng không va chạm đến tín ngưỡng của dân mà còn làm cho dân ý thức được rằng đồng cốt là bọn bá đạo, lũ lường gạt, buôn thần bán thánh, là đám giết người cướp của một cách công khai, tội còn nặng hơn những tên cường đạo.
Tây Môn Báo tham dự buổi lễ "Hà Bá cưới vợ", với vẻ trang nghiêm kính cẩn, vẫn mặc đồ đại lễ và có một vài tên cận vệ mang hoa quả theo, vờ như tin Hà Bá cưới vợ là chuyện có thật.
Cứ để mụ đồng nhảy nhót với gương mặt kiêu ngạo, vênh váo thỏa sức. Sau đó, Viên Thái Thú mới nhìn lại gương mặt cô vợ Hà Bá rồi lắc đầu nói "Coi ra cô gái này không xứng. Phiền bà đồng xuống nói với Hà Bá rằng vâng lệnh quan thái thú đi tìm một thiếu nữ nhan sắc sẽ nạp sau". Vì Hà Bá ở dưới nước nên bắt bà đồng bỏ xuống nước, rồi ngồi đợi, vờ như bà đồng sẽ lên phúc đáp thật.
Các bà đồng con son phấn diêm dúa, gương mặt tự đắc khi nãy giờ thì đôi mắt trắng nhợt, biến sắc kinh hoảng cũng lần lượt ra đi mà vẫn không thấy Hà Bá đâu, cũng không thấy ai trở lại phúc đáp.
Bây giờ dân chúng mới hiểu rằng, không có sự linh ứng nào ở đây cả. Rõ ràng bọn này là lũ lường gạt, hại người.
Tây Môn Báo đã làm một cuộc cách mạng tinh thần, làm hồi sinh cho Nghiệp Quận. Nếu giết những tên bất lương mà Nghiệp Quận vẫn còn "nước dâng, cuốn nhà", thì dân chúng phải nghĩ là “Hà Bá nổi giận”, bởi vậy ông phải làm cho ra lẽ.
Sử xưa viết:

Tây Môn Báo cho quân lính hợp với sức dân  đào 12 con rạch từ sông Chương ra sông Hoàng Hà (cách nhau khoảng 120 km), nhờ vậy mà Nghiệp Quận không còn lũ lụt nữa.

Đến đời Hán Vũ Đế, các quan nói làm đường cho vua đi, ra lệnh san lấp các con kênh đó, dân chúng đã nổi lên phản đối với khẩu hiệu "Phép tắc của bậc tiên hiền để lại không được thay đổi". Nghiệp Quận từ đó trở thành khu trù mật, dân cư sầm uất, là một trung tâm kinh tế lớn của nước Ngụy, nên người ta gọi là Nghiệp Quận là Nghiệp Đô". Tây Môn Báo đích thực là một vị quan sáng suốt và mẫu mực.

Khuất Nguyên đi coi bói
 Khuất Nguyên bị cấm ba năm không được gặp vua. Khuất Nguyên là người tận trí, tận trung mà lại bị bọn gian thần hãm hại, gièm pha khiến vua xa cách.
Lòng buồn, ý loạn Khuất Nguyên không biết phải đi con đường nào. Vì vậy ông mới đến nhà quan Thái bốc Trịnh Thiềm Doãn dò hỏi:
- Tôi có điều nghi, xin Tiên Sinh giải hộ cho.
Thiềm Doãn sửa ngay lại cỏ thi, phủi bụi mu rùa, hỏi:
- Ông muốn coi việc chi?
Khuất Nguyên đáp:
- Nằm lâu thì muốn dậy, bị giam lâu thì muốn được thả ra,... Tôi nghe rằng “Sự chứa đựng lâu rồi thì phải tiết ra. Sự bế tắc đến cùng cực rồi thì sẽ được thông đạt. Sự nóng đến cùng cực rồi thì nổi gió. Đông qua xuân đến,… không gì co rồi mà không duỗi, đi xa rồi thì trở lại, một đi một về,…”. Tôi còn có điều nghi. Xin tiên sinh chỉ bảo.
Thiềm Doãn nói:
- Ông đã biết cả rồi còn hỏi gì nữa?
Khuất Nguyên nói:
- Tôi vẫn chưa rõ biết lẽ huyền diệu ẩn trong đó. Xin ông giảng giải giúp.
Trịnh Thiềm Doãn đáp lời:
- Đạo Trời thân với gì? Chỉ thân với Đức mà thôi. Quỷ thần linh nhờ đâu? Nhờ người mà linh. Cỏ thi là thứ cỏ khô, mai rùa là thứ xương khô đều là vật vô tri. Ông sao không nghĩ đến ngày trước? Có ngày trước tất phải có ngày nay. Cho nên bây giờ đây là tường xiêu, gạch nát thì biết đâu ngày trước nơi này là cao lâu, tửu quán. Bây giờ là bụi hoang, cành gãy thì ngày trước biết đâu là hoa quỳnh, cây ngọc. Bây giờ đây là ma trơi, đom đóm thì ngày trước biết đâu đây là đèn vàng, nến bạc. Bây giờ đây là rau đắng, rau má thì ngày trước biết đâu đây là cao lương, mỹ vị. Bây giờ đây là lá phong hồng, bông địch trắng thì ngày trước biết đâu đây chẳng là gấm xứ Thục, lụa xứ Tề. Trước kia không có mà nay có, đâu phải dư. Trước kia có mà nay không, đâu phải thiếu. Vậy nên hết ngày thì đến đêm, hoa nở lại tàn, xuân qua thu đến, vật cũ rồi mới, dưới dòng nước chảy mạnh tất có vực sâu, dưới chân núi cao tất có hang thẳm. Quân hầu đã biết rõ lẽ ấy rồi, còn coi bói làm gì?
Khuất Nguyên lại nói:
- Tôi có nên khẩn khoản gìn giữ mãi một lòng trung chính hay nên đưa đón theo đời để khỏi khốn cùng?
- Có nên bừa cày hết sức làm ruộng mà nuôi thân hay nên giao du với người vinh hiển để cầu danh?
- Có nên nói thẳng, không vị nể đến thân sơ hay nên nói theo thói tục, cầu sang giàu để sống bê tha?
- Có nên siêu nhiên xuất thế để giữ gìn thiên chân hay nên nịnh hót, khúm núm, xum xoe, cười gượng theo thói thường bọn gian thần, xu nịnh?
- Có nên liêm khiết, chính trực để được sạch trong hay nên trơn tru, tròn trĩnh như cây cột tròn thoa mỡ?
- Có nên ngang tàng như con ngựa thiên lý hay nên lênh đênh như con vịt nước, cùng nhấp nhô với sóng mà bảo toàn được tấm thân?
- Có nên sống như loài kỳ lân hay noi theo cái thói của loài ngựa hèn ?
- Có nên sánh vai với loài hồng hạc hay nên tranh ăn như đám vịt gà?
- Đường nào kiết? Đường nào hung? Bỏ đường nào? Theo đường nào?
- Đời hỗn trọc, rối ren, điên đảo,… thì cánh ve là nặng mà vật nghìn cân lại là nhẹ. Cái chuông vàng thì bỏ nát còn cái nồi đất thì kêu vang. Kẻ gièm pha, xu nịnh thì tiếng tăm lừng lẫy, được trọng vọng,… còn người hiền trí thì không được trọng dụng, không tên tuổi, bị chà đạp,..
- Than ôi! Biết nói gì đây? Ai biết ta là trong sạch?
Thiềm Doãn nghe Khuất Nguyên nói xong, đặt cỏ thi xuống mà tạ rằng:
- Thước có khi lại ngắn, mà tấc có khi lại dài. Vật có chỗ không đủ, mà trí có chỗ không sáng. Số có chỗ đoán không tới, mà thần có chỗ cũng không thông. Ông cứ theo lòng mà làm cho đúng ý ông. Cỏ thi và mu rùa, quả thật là không thể biết được những việc ấy...

Chú Thích:
Khuất Nguyên tên Bình, biệt hiệu là Linh Quân, là một nhà thơ lớn, một nhà chính trị tài ba, ông giữ chức Tả Đồ cho Sở Hoài Vương. Về sau, Khuất Nguyên bị gian thần dùng gian kế hãm hại khiến vua Sở không còn tin dùng. Ông là người tính tình cương trực nên có phần cực đoan, cố chấp. Việc bị vua Sở ghét bỏ, trù dập khiến ông thất chí và ông đã tâm tình với ông lão đánh cá ở Giang Nam “Người đời đục cả, một mình ta trong. Mọi người say cả, một mình ta tỉnh. Bởi vậy nên ta bị bãi chức”.
Ông tự cho rằng “Mình là người trong lại sống trong thời đục. Lòng buồn, ý loạn, không tìm ra lối thoát cho tinh thần sau cùng ông đã ôm một khối đá rồi trầm mình xuống dòng sông Mịch La”.

Lời Bàn:
Than ôi! Biết nói gì đây? Ai biết ta là trong sạch?". Lời than của Khuất Nguyên thật chua chát, não nề,… ông không tìm được lối thoát cho nội tâm nên nhờ Trịnh Thiềm Doãn coi cho một quẻ để hóa giải, tìm lấy lối đi. Nhưng Thiềm Doãn cũng bị trói trong màng lưới nhị nguyên vô minh nên đã không thể giúp Khuất Nguyên. Quan Thái bốc Trịnh Thiềm Doãn chỉ biết chắc rằng “Dù có gieo quẻ cũng chẳng thể gỡ rối cho Khuất Nguyên”. Vì lẽ Thiềm Doãn nghĩ rằng “Khuất Nguyên sẽ không tin nhận” nên đành thành thật "Thần có chỗ cũng không thông.".
Sự thật là sự hiểu biết của Khuất Nguyên đã bị tấm màng vô minh của nhị nguyên che lấp. Quả thật không dễ gì khai thông cho đặng. Ngay nơi nhị nguyên luận thì đến thần thánh cũng mê mờ, không thể thông suốt. Do bởi không có người giúp Khuất Nguyên khai thông sự bế tắc trong tư tưởng nơi nhị nguyên nên dù rằng đã tự đưa ra hàng loạt giả thuyết cho phương thức sống ở đời nhưng Khuất Nguyên lại bí lối, không tìm được một hướng đi rõ ràng cho bản thân.
Sự bế tắc trong tư tưởng khiến Khuất Nguyên nghĩ rằng không ai hiểu mình, không ai cần đến ông nữa, có sống thêm cũng trở thành người thừa, là kẻ vô dụng nên ông tự tìm đến cái chết như là tìm đến sự giải thoát cho bản thân.
Ông tự tận và đó là một việc làm sai lầm vì thật sự là dù ông đã chết đi thì sự bế tắc trong tâm thức của ông vẫn còn nguyên vẹn.
Cụ thể là do tính tình cang cường, có phần cố chấp,… và việc cả đời Khuất Nguyên sống thiện lương nên ông được người dân trong vùng tưởng nhớ. Kết quả của việc “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” này là Khuất Nguyên đã nhiều lần cảm ứng, báo mộng cho nhiều người quanh dòng sông Mịch La về tình cảnh của ông.
Vong hồn Khuất Nguyên đã nói với người dân trong vùng về sự đói lạnh và nỗi oan khuất, việc bị gian thần hãm hại, việc ông bị vua nước Sở không trọng dụng, việc bị đày xuống Giang Nam,...
Do việc cảm phục, tiếc thương, tưởng nhớ và nhằm giúp vong hồn một con người trung nghĩa được siêu thoát người dân hai bên bờ sông Mịch La đã làm bánh ném xuống dòng Mịch La, làm lễ tiễn biệt Khuất Nguyên.
Đó chính thật là nguyên nhân sâu kín ẩn khuất trong cái chết của Khuất Nguyên, là cội nguồn của ngày tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 hàng năm của người Trung Hoa.
Cám ơn nguồn tri thức nhân loại!
  1. Luận thiên hạ xưa.
    1. Mở lối nhị nguyên.
Thánh nhân còn có lỗi lầm

Họ Trần ở nước Tề muốn mưu phản, đoạt ngôi vua song thấy họ Cao, họ Quốc, họ Tôn còn mạnh nên chưa dám hành động.
Trần Hằng trù tính kế hoạch xong, vào tâu với Tề Giản Công:
- Nước Lỗ đã từng dựa vào Ngô đem binh làm nhục bệ hạ, thù ấy nay phải trả.
Tề Giản Công nghe lời, phong Quốc Thư làm đại tướng, Cao Vô Bình, Tôn Lâu làm phó tướng rầm rộ kéo đại binh đi đến biên giới nước Lỗ.
Bấy giờ Khổng Tử đang ở Lỗ tuyển chép các kinh Thi, kinh Thư,… thì được tin nước Tề kéo quân đánh nước Lỗ, buông lời than:
- Lỗ là tổ quốc của ta, phải cứu.
Than rồi, Khổng Tử hỏi học trò:
- Có trò nào đi ngăn quân Tề đừng đánh Lỗ, được không?
Hai môn đệ Công Tôn Long và Chuyên Tôn Sư xin đi, Khổng Tử lắc đầu không đồng ý.
Thấy vậy, Tử Cống nói:
- Tứ con đi có được không?
Khổng Tử đáp:
- Được.
Tử Cống đến đất Tề xin vào yết kiến Trần Hằng. Hằng biết Tử Cống tên thật là Đoan Mộc Tứ là cao đồ của Khổng Tử đến đây thuyết khách cho Lỗ bèn mời vào, hỏi:
- Tiên sinh đến đây thuyết khách cho Lỗ đó chăng?
Tử Cống nói:
- Tôi đến đây vì nước Tề chứ không vì nước Lỗ.  Lỗ là nước khó đánh khó đánh sao ngài lại cho đánh?
Trần Hằng hỏi:
- Nước Lỗ khó đánh ở chỗ nào?
Tử Cống nói:
- Lỗ thành thấp, hào nông, vua yếu, quan hèn, sĩ tốt không luyện tập vì vậy mới là khó đánh. Còn nước Ngô, thành cao, hào sâu, binh hùng, tướng mạnh mà lại dễ đánh.
Trần Hằng lấy làm khó chịu nói:
- Khó và dễ tiên sinh nói nghe điên đảo cả.
Tử Cống mỉm cười nói:
- Cho lui kẻ tả hữu, tôi sẽ trình bày.
Trần Hằng cho tả hữu lui ra, Tử Cống nói:
- Nay tướng quốc đem quân đánh nước Lỗ là cốt lo “mặt trong” chứ không lo “mặt ngoài”. Người đời thường nói “Nếu lo mặt ngoài thì nên đánh nước yếu, lo mặt trong thì nên đánh nước mạnh. Thế của ngài hôm nay là không thể đồng sự với các đại thần kia. Các vị đại thần ấy mà đánh nước Lỗ thì tất sẽ lập công lớn. Vì vậy thế lực của họ ngày càng thêm mạnh. Còn Tướng quốc không có công trạng gì, không nguy sao được? Nếu tướng quốc quay sang đánh nước Ngô thì các vị đại thần ắt khổ, quyền chính trong nước sẽ thuộc về ngài”.
Trần Hằng nghe vậy tươi nét mặt nói:
- Tiên sinh hiểu ruột gan tôi lắm. Nhưng đại quân Tề đã đóng quân ở biên giới nước Lỗ, giờ làm sao mà quay sang đánh nước Ngô?
Tử Cống nghe Trần Hằng hỏi vậy, liền nói:
- Tôi sẽ thuyết phục vua Ngô đem quân đánh Tề. Ngài sẽ có cớ đánh Ngô.
Ngay sau đó, Tử Cống liền sang Ngô, vào yết kiến vua Ngô nói rằng:
- Trước đây, nước Ngô và nước Lỗ hợp binh đánh nước Tề, vua Tề rất căm thù nước Ngô. Nay vua Tề không dám đánh nước Ngô mà lại đem quân đánh Lỗ, rồi thừa thắng kéo xuống đánh Ngô, đó là chắc. Đại vương nên đánh Tề để cứu Lỗ. Nước Lỗ là chư hầu sẽ phục ngài.
Ngô Phù Sai nói:
- Tề là nước phản phúc “Sớm đầu, tối đánh”. Quả nhân muốn đem binh chinh phạt nước Tề nhưng sợ nước Việt đánh úp. Giờ quả nhân sẽ cất quân đánh nước Việt trước rồi đánh nước Tề sau.
Tử Cống nói:
- Không nên! Nước Việt yếu, nước Tề mạnh. Đánh nước Việt mà tha nước Tề sao gọi là trí dũng? Nếu đại vương có ngại vua Việt, tôi sẽ bảo vua Việt đem quân theo hầu đại vương.
Trận ấy Việt vương Câu Tiễn có gửi quân tham chiến và quân Ngô đại thắng quân Tề ở Ngãi Lăng.

Lời Bàn:
Mẩu truyện này nói lên tài thuyết khách của Tử Cống. Thầy của Tử Cống là Khổng Tử người nước Lỗ, mà nước Tề tỏ ý xâm chiếm nước Lỗ nên các đệ tử vì thầy mà ra sức cứu nước Lỗ. Tử Cống không dùng binh đao mà chỉ uốn ba tấc lưỡi đẩy lui quân Tề đi chỗ khác. Bởi do Tử Cống hiểu được tâm ý của Trần Hằng, muốn mượn bên ngoài trừ diệt họ Cao, họ Quốc, họ Tôn. Ý Trần Hằng là như vậy mà khởi binh đánh nước Lỗ thì quả thật là quá vụng vì đánh nước Lỗ tất nhiên nước Tề sẽ thắng. Tề thắng thì các quan họ Cao, Quốc, Tôn sẽ lập được đại công, được trọng dụng thì vị thế của Trần Hằng sẽ bị suy yếu. Vì lẽ đó Trần Hằng đã nghe lời Tử Cống đình binh lại không đánh nước Lỗ mà tìm cớ đánh nước Ngô.
Tuy nhiên, nay tôi đề cập đến mẩu truyện trên lại không vì việc đề cập đến tài thuyết khách của Tử Cống mà bắt lấy lỗi lầm của bậc thánh nhân Khổng Tử.
Đã hơn 2500 năm nhân loại vì hai chữ thánh nhân mà lờ đi sai phạm của Đức Khổng Tử. Do vậy mà nhân loại tiếp tục phạm phải rất nhiều sai lầm tương tự.
Qua mẩu truyện trên, bạn sẽ nhận thấy lẽ ra cuộc chiến loạn là việc giao tranh giữa 2 nước Tề và Lỗ. Nhưng do nước Lỗ là nơi Khổng Tử sinh ra nên ông không đành lòng nhìn đất nước mình rơi vào chiến loạn.
Đó phải chăng là lòng tự hào dân tộc của Khổng Tử?
Đó là vì Khổng Tử đã trói nhận thức, tư duy vào quan niệm “Đây là quê hương, đất nước của ta, ta phải tìm mọi phương cách để bảo vệ, giữ gìn”.
Kết quả của việc thể hiện cái tôi - cái ngã và cái của tôi - ngã sở của thầy Khổng Tử là không đành lòng nhìn dân tộc mình sống trong tang thương, mất mát bằng cách thông qua người học trò Tử Cống tạo ra cuộc chiến loạn giữa 3 nước Tề, nước Ngô và nước Việt.
Ngay khi ta nhìn ở hiện tượng thì cơ hồ thầy Khổng Tử đã làm đúng nhưng khi nhìn ở bản chất thì việc làm của thầy Khổng Tử không thật sự ổn vì có rất nhiều người dân vô tội ở nước Tề cùng với quân tướng nước Ngô, Việt, Tề bị chết thảm nhằm mang lại sự yên bình cho Khổng Tử và nước Lỗ.
Thêm một giả dụ khác nếu nước Lỗ không là nơi Khổng Tử sinh ra, phải chăng Khổng Tử sẽ không quan tâm đến việc nước Tề cất binh đánh nước Lỗ?
Có phải thầy Khổng Tử đã xử sự thiếu khách quan chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt, chỉ nghĩ đến danh tiếng và lợi ích cá nhân, dân tộc mình?
Về sau, Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc, thống nhất đất nước Trung Hoa.
Phải chăng việc thầy Khổng Tử dùng Tử Cống làm thuyết khách cứu nước Lỗ không bị nước Tề xâm chiếm trở thành một việc làm vô nghĩa?
Người Trung Hoa đã xem Khổng Tử là bậc thánh nhân của dân tộc, lẽ ra thầy Khổng Tử nên xử sự khách quan với tâm địa thênh thang, rộng mở với niềm tự hào “Là một con người biết sống thuận đạo, dưỡng đức” thì sẽ không tạo ra lỗi lầm đáng tiếc trên.
Tại sao đến ngay cả bậc thánh nhân Khổng Tử mà lại còn tạo ra lỗi lầm đáng tiếc?
Vì lẽ thầy Khổng Tử cũng rơi vào màng lưới vô minh nhị nguyên đối đãi. Thầy Khổng Tử bị trói vào quan niệm về cái tôi thường tại. Từ đó, tạo ra hàng loạt những ý niệm đối đãi liên quan đến cái ta, cái của ta, cái của người.
Khi rơi vào nhị nguyên với ý niệm phân biệt, đối đãi thì việc hành xử của con người sẽ đánh mất sự khách quan, không thật sự chuẩn mực nữa.
Cụ thể là cái của ta thì trân trọng, bảo vệ, gìn giữ, xem nhẹ cái của người hơn cái của ta. Nếu cái của người có giá trị hơn cái của ta thì ta sẽ tìm cách thu đoạt về,…
Khổ đau, chiến tranh, hận thù,… trong nhân loại từ xưa đến nay phải chăng đều có điểm xuất phát do con người bị trói nhận thức, tư duy,… vào trong màng lưới vô minh nhị nguyên đối đãi đó?
Kết quả là được gì?
Vật chất, danh lợi, địa vị, quyền lực,… chăng? Những thứ đó có ai, có tổ chức, có quốc gia nào đủ khả năng nắm giữ mãi không?
Chúng thật không thường tại vì chúng sẽ biến diệt theo thời gian. Nhưng từ sự sai lầm trong tư duy, nhận thức con người đã tạo ra rất nhiều sai lầm khác như là việc gieo rắc tội ác khắp mọi nơi. Chiến tranh, thù hận được gieo sâu vào lòng mỗi con người ở mỗi dân tộc, mỗi đất nước, mỗi tín ngưỡng tôn giáo,… Máu, nước mắt, khổ đau được con người tạo ra hết đời này sang đời khác và mãi về sau.
Tại sao con người cứ mãi hành xử như vậy xuyên suốt lịch sử phát triển của loài người?
Vì lẽ với tầm nhìn hạn hẹp, phiến diện, chủ quan,… khi làm một điều gì đó thì con người chỉ nhìn thấy cái lợi, cái được, cái hơn,… mà không nhận biết rõ cái hại, cái mất, cái thua,… Vì họ nghĩ đó là phần của người khác.
Do nghĩ là việc của người khác nên họ không quan tâm, không lo lắng nhiều đến tổng thể và thế là họ tạo ra ngày càng nhiều lỗi lầm.
Cụ thể là khi một tên cướp thực hiện việc giết người cướp của thì hắn chỉ nghĩ đến việc “Hắn sẽ có được món đồ có giá trị”. Đó là cái lợi, cái được, cái hơn,… của hắn dù rằng vật cướp được trước đó là của người bị giết nhưng giờ đây đã là của hắn. Tên cướp sẽ không quá đắn đo, lo nghĩ về cái mất của người bị giết dù rằng cái mất lớn nhất của người bị cướp là mạng sống con người.
Cũng lại như vậy, chiến tranh, xung đột vũ trang, bạo loạn,… có khác biệt gì với cách ứng xử của tên cướp không?
Có chăng chỉ khác nhau là chiến tranh ở mức độ biểu hiện cao hơn, máu, nước mắt, mạng sống chết nhiều hơn, thù hận và đau khổ sẽ được đắp cao hơn. Có một sự thật là cho dù cuộc chiến xảy ra và được biện luận với lý do chính đáng nào đi chăng nữa thì cũng có vô số xác người ngã xuống, nhà cửa tan hoang, đói nghèo, khổ đau, bệnh tật triền miên,…
Nhưng những kẻ tạo ra thảm cảnh tang thương lại không “để mắt” đến điều đó vì họ đang toan tính, chia chác với nhau phần được, phần hơn, phần lợi,… Còn những người dân nghèo, nạn nhân của chiến tranh thì cứ gánh lấy cái mất, cái thua, cái hại và đôi khi họ được xem là “gánh nặng của xã hội” vì họ đã bị tàn phế vì chiến tranh.
Với lối sống thực dụng hiện nay thì quan điểm sống như trên sẽ không ngừng phát triển lớn mạnh. Khi tư duy, nhận thức,… con người trói vào quan điểm “Mạnh được yếu thua”, “Cá lớn nuốt cá bé”, “Chết là hết”,… thì việc cướp bóc, chèn ép, việc xâm lược và chiến tranh leo thang là điều không khó xảy ra. Những người dân nghèo với hy vọng “đổi đời”, lại bị cuốn vào vòng xoáy “không giết người thì người giết mình, không giết người thì sẽ mất tất cả,…”.
Để bảo toàn mạng sống, quyền lợi những con người nghèo khó, mạng sống mong manh, nhỏ bé, đáng thương, đáng quý,… phải lao vào cuộc giết chóc mà không rõ phần thắng sẽ thuộc về ai?
Khi nào mình bị chết thảm?
Người được vẫn luôn được, kẻ mất vẫn cứ mất. Tạo hóa thật không có sự công bằng, khách quan chăng?
Có lẽ nào lại vậy. Thật ra đã có sự sai lầm ở nhận thức, tư duy của con người. Đó chính là sự giới hạn về tri thức nhân loại ở thời điểm hiện tại.
Cách đây hơn 2500 năm Phật Thích Ca đã chỉ ra sai lầm này. Đáng tiếc! Do lòng tham dục và việc giới hạn về hiểu biết mà con người lờ đi, hoặc là quên bỏ sự thật về việc tồn tại sự sống, loài người và vũ trụ.
Thực tế là với những con người chỉ biết cướp đoạt, thâu tóm những cái hơn, cái lợi, cái được,… về mình, họ sẽ phải trả giá và đánh mất rất nhiều thứ. Bởi lẽ trong cái được luôn có cái mất, cái hơn luôn có cái thua, cái lợi luôn có cái hại,…
Nếu đứng ở góc nhìn tổng thể, khách quan nhân loại sẽ dễ dàng nhận ra điều đó. Nếu tinh ý con người sẽ nhận biết ngay khi thu được cái hơn, lấy được cái lợi phi nghĩa thì con người đó cùng nhận về cái thua, cái hại, người đời nguyền rủa, xa lánh. Nếu nhìn ở góc nhìn rộng hơn thì người đó sẽ trả giá về sau nhất là những khi già yếu, bệnh tật. Khi đó, con cháu và người thân sẽ từ bỏ họ vì đó là những gì mà thế hệ sau được học hỏi ở việc làm của người đi trước. Kết quả là con cái, dòng họ, dân tộc, quốc gia,… hư đốn, trụy lạc, bại hoại, suy đồi, tan rã,... Đó là những cảnh đời nghiệt ngã, lối sống khốn cùng, xã hội con người biến loạn, rối ren.
Còn với tầm nhìn không bị giới hạn bởi không gian, thời gian thì con người làm việc xấu đó sẽ phải trả nghiệp quả ở những kiếp về sau trong 3 cõi 6 đường. Đó là quy luật rất khách quan của tạo hóa mà Phật Thích Ca nhận biết sáng rõ và Như Lai đã mượn ngôn từ gọi là nhân quả - nghiệp quả, là luân hồi.
Thế nên, đối với những việc làm trục lợi phi nghĩa, xấu xa, thiếu chừng mực, kém hiểu biết,… nơi con người nhằm thu về phần được, phần lợi, phần hơn,… ở hiện tại, ở đời này thì con người đó cũng sẽ nhận lấy cái mất, cái hại, cái thua kém,… ở hiện tại, ở tương lai, ở những đời tiếp theo vì chúng sinh trong 3 cõi 6 đường thật sự không dễ dàng “Chết là hết”.
Ở phần đầu của quyển sách này, tôi đã trình bày những điển tích xưa cũ từ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Thời điểm mà xã hội Trung Hoa cổ trải qua hàng loạt những cuộc chiến sống còn, đẫm máu giữa các quốc gia, dân tộc, những cuộc sát nhập rồi chia rẽ, chia rẽ rồi sát nhập nhằm phục vụ cho lợi ích riêng tư cho các chư hầu, chư bá, công khanh, hoàng thân, quốc thích, các vị Đế vương về quyền lực, địa vị, sức ảnh hưởng, phẩm vật và gái đẹp. Người dân đen lúc bấy giờ chỉ là những con cờ trong ván cờ tranh giành quyền lực phi nghĩa, họ sẽ chết vì niềm tự hào dân tộc ảo tưởng, đánh đổi mạng sống nhằm giành giật những thứ thực sự không thuộc về bản thân họ, vĩnh viễn không là của họ.
Trong khi người dân đen và những viên tướng trung dũng tranh đấu sống còn cho niềm tự hào dân tộc, bảo vệ quốc gia thì ở trong những tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ có vô số những vị vua vô đạo đắm say tửu sắc, trụy lạc,… cùng vô số những quần thần xu nịnh, tiểu nhân hại người nhằm gom góp tài vật, của báu nhằm đảm bảo vị trí, quyền lợi cá nhân. Đây cũng là giai đoạn của Bách gia tranh minh - Trăm nhà đua tiếng nhằm bày tỏ nhân sinh quan về sự sống, xã hội, luân lý quan niệm nhân - nghĩa - lễ - trí - tín,...
Nhìn lại những thời kỳ lịch sử đã qua, nhân loại sẽ nhận ra “Ngay từ thời cổ xưa người Phương Đông đã chú trọng xây dựng nhân cách, đạo đức con người với những phương pháp tu thân, hàm dưỡng tư tưởng tinh thần nội tâm ở mỗi người và tùy thuộc vào từng thời điểm bối cảnh xã hội khác nhau mà những học giả, những nhà tư tưởng có những chỉnh đốn, cải cách cho phù hợp”.
  1. Chiết giải vấn đề nhị nguyên.
Cụ thể là Khổng Tử và Mạnh Tử với lập luận “Nhân chi sơ tính bản thiện” - con người khi mới sinh ra đều rất lương thiện. Qua quá trình con người lớn lên, học hỏi, rèn luyện thì mới sinh khởi những việc làm không tốt, dần dần hình thành nên những đức tính xấu ác như tham lam, gian xảo, bần tiện, ích kỷ, tàn độc,…
Vì thế nhằm nuôi giữ thiện tính ở con người Khổng - Mạnh đã chủ trương việc dạy học nhằm rèn luyện nhân cách, phẩm hạnh, đạo đức. Tư tưởng xuyên suốt trong học thuyết Khổng - Mạnh là dùng Nhân Trị và Đức Trị.
Dù vậy, học thuyết của Khổng - Mạnh đã không gặt hái được kết quả đúng như mong mỏi của những người hiền giả, minh triết. Xã hội vẫn cứ loạn lạc, chiến tranh vẫn cứ triền miên, người dân vẫn cứ khốn cùng, đói khổ,…
Đến thời Tuân Tử và Hàn Phi, họ nhận thấy xã hội rối ren, hôn quân bạo chúa thì vô số, gian thần, quan chức vô loại thời nào, triều đại nào cũng có cho nên việc nhìn nhận bản tính con người được xét lại.
Dựa vào thực tế, những học giả này nhận thấy những đứa trẻ khi mới sinh ra sớm thể hiện tính khí tham lam, xấu ác qua việc giành giật “đồ ăn, thức uống”, tình thương,… họ đã đưa ra lập luận “Con người khi sinh ra là đã sẵn mang tính ác” - Nhân chi sơ tính bản ác.
Từ đó, những nhà tư tưởng đưa ra biện pháp đối trị là dùng Pháp Trị - dùng hình luật, các biện pháp cưỡng chế, áp bức, răn đe,… nhằm đưa con người vào khuôn phép, nguyên tắc để ổn định kỷ cương xã hội.
Nhưng khi áp dụng tư tưởng Pháp trị vào thực tế thì lại tạo ra nhiều khiếm khuyết, tạo ra sự phân tầng xã hội sự giàu nghèo, người quyền thế và dân đen cùng đinh càng thêm rõ rệt, góp phần làm tha hóa, rối ren xã hội, chiến loạn khắp nơi.
Vì lẽ chế tài, hình phạt,… chỉ có thể răn đe, trói buộc người dân nghèo khiến đời sống người dân rơi vào khốn khó, cùng đường còn những thành phần khác dễ dàng thoát ra những biện pháp quản lý, chế tài hà khắc. Con người lúc bấy giờ nhờ tích lũy thêm nhiều cơ trí, mưu mô, xảo quyệt,… đã tìm đủ mọi cách để “lách luật” thoát ra khỏi chế tài nhằm dễ dàng thu gom tài vật, quyền lợi, địa vị,…
Biện pháp hữu hiệu nhất để “lách luật” mà con người nhờ học hỏi sự cơ mưu, quyền biến trong tư tưởng Pháp gia đó là “Lợi mê lòng người”.
Cụ thể là con người sẽ dùng tiền bạc, của báu, người đẹp,… nhằm mua chuộc giá trị nhân cách những người nắm giữ quyền lực, hoặc là có tầm ảnh hưởng đến việc làm phi pháp,… để được “chiếu cố, làm ngơ,…” trước những việc làm sai trái mang lại lợi ích cho cá nhân, cho người bỏ tiền của ra mua chuộc.
Khác với cách nhìn nhận bản tính con người của các nhà tư tưởng cùng thời, Lão Tử nhìn cuộc sống với góc nhìn khoáng đạt, tổng thể hơn.
Vì thế nhân sinh quan của Lão Tử không bị trói vào Thuyết tính thiện của Khổng - Mạnh cũng như Thuyết tính ác của Tuân Tử - Hàn Phi.
Lão Tử nhìn rõ hơn sự thăng trầm của cuộc sống, của xã hội đương thời. Ông cơ hồ nhận ra quy luật “Nước ròng, nước lớn”, ông điềm tỉnh, bình thản nhìn nhận lại mọi vấn đề và giữ mình không bị cuốn vào cám dỗ, lợi danh cũng như vòng xoáy của cuộc sống, việc chiến loạn triền miên.
Do đứng ở góc nhìn khách quan nên Lão Tử tựa như đã đặt mình làm bờ sông để “quán sát” hiện tượng “Con nước ròng, con nước lớn” và sự hiểu biết của ông về những quy luật của cuộc sống rõ ràng hơn, ông nhận ra quy luật “Con nước ròng, con nước lớn” cơ hồ có biểu hiện ở mọi sự vật, hiện tượng.
Tiếp đó, Lão Tử nhận ra khi sống tùy thuận theo những quy luật trên thì tâm trí con người sẽ thảnh thơi, tự tại và thân mạng được an ổn, không rơi vào hung hiểm.
Tuy nhiên, Lão Tử thật sự không rõ biết quy luật cuộc sống có nguồn gốc từ đâu, ông đã tìm hiểu nguồn tri thức cổ để tường tận nguyên ủy của quy luật cuộc sống nhưng nơi nguồn tri thức cổ mà ông “góp nhặt” được vẫn không lý giải rõ ràng về cội nguồn sự sống và những quy luật cuộc sống.
Sau cùng, ông tùy thuận thừa nhận chữ “đạo” mà người xưa đã dùng làm khái niệm chung nhất chỉ cội nguồn phát sinh loài người, sự sống và vũ trụ.
Lão Tử đã mặc định “Tổng hòa những quy luật cuộc sống và sự sống tạm gọi là đạo”.
Do nhận biết nguồn tri thức cổ có điểm không thật chuẩn xác, rõ ràng cũng như việc ông không thể thấu rõ “đạo” mà ông lại thừa nhận rõ thật hơn là “Đạo khả đạo phi thường đạo”.
Về sau, Lão Tử vẫn miệt mài tìm hiểu, nhận biết đạo nhưng ông không thể lĩnh hội rốt ráo “đạo”. Sai lầm của Lão Tử trong việc lĩnh hội đạo là đã né tránh, không tìm hiểu về thế giới vô hình.
Có lẽ lúc bấy giờ ông nhận định “Chạm vào thế giới vô hình tâm ông sẽ động loạn, không an, có thể an nguy đến mạng sống”.
Trên thực tế là khi Lão Tử sống tùy thuận theo đạo thì ông rất tự tại, an ổn và vì sự an toàn Lão Tử đã không thâm nhập vào thế giới tâm linh.
Điều này được nhìn nhận sáng rõ hơn qua phương thức Lão Tử truyền trao nguồn tri thức mà ông lĩnh hội, nhận biết vào xã hội loài người. Việc truyền trao Đạo đức kinh âm thầm, lặng lẽ trong giới ẩn sĩ và việc che dấu thân phận, tên tuổi thật để nhận biết rằng xã hội thời Lão Tử thật sự loạn lạc, rối ren đồng hành với sự bại hoại, suy đồi của giai cấp lãnh đạo phong kiến. Lão Tử thực sự chỉ muốn sự an toàn mạng sống cho chính ông cũng như mọi người trong xã hội.
Có rất nhiều sự chuẩn mực có trong học thuyết của Lão Tử đáng kể đến là sự chuẩn mực về việc con người khi tham đắm ngũ dục - của cải, người đẹp, uống ăn, danh lợi, địa vị sẽ “sớm chết”, điều này đúng cả hai mặt: Chủ quan và khách quan,...
Cũng chính do không rõ biết “Đạo là gì?” mà ông không thể trả lời được hàng loạt những câu hỏi quan trọng cho tri thức loài người.
Lão Tử chỉ có thể khuyên người sống tùy thuận theo đạo, không tham đắm tài vật, lợi danh nhằm bảo toàn tính mạng, kéo dài tuổi thọ nhưng ông không thể trả lời được những câu hỏi “Sống để làm gì? Không lẽ con người sẽ kéo dài năm tháng sống ở đời để uống ăn, ngủ nghỉ, duy trì nòi giống?”.
Nếu không phải sống để thọ hưởng thì tại sao con người phải sống?
Còn bằng thọ hưởng tiền tài, danh lợi, đam mê dục vọng,… thì con người sẽ phải “sớm chết”,…
Vậy con người phải sống ra làm sao?
Tại sao phải sống thuận theo đạo?
Nếu chỉ đơn thuần là kéo dài tuổi thọ thì có đáng phải thuận theo đạo không?
Ở đây, ta nhận thấy những câu hỏi trên rất gần với câu hỏi về cội nguồn con người.
Tại sao con người được sinh ra?
Có lẽ nào con người sinh ra để bệnh, già rồi chết?
Hiển nhiên là Lão Tử không thể trả lời được những câu hỏi then chốt của sự sống. Cũng vì lẽ đó mà tư tưởng của Lão Tử không thể được ứng dụng rộng khắp. Chỉ có những người chán ngán thế sự suy đồi, loạn lạc,… mới tin nhận và thuận theo nhằm an toàn mạng sống.
Bởi do giới hạn tri thức mà những con người sống tùy thuận theo đạo cũng không rõ biết con đường mà họ đang đi. Còn những người sống trong vòng xoáy cuộc sống xã hội không thể học hỏi, thuận theo vì lẽ giới thống trị bạo quyền, sa đọa, những kẻ “ăn trên, ngồi trước” cùng với nhóm người cùng đinh, quẫn bách sinh tâm cường đạo, giặc cướp,… không thể ngừng dứt tham đắm, si mê, tàn độc,…
Bởi lẽ họ không rõ biết sống thiện lương thì sẽ được gì?
Họ chỉ thấy ở nơi đó có sự nghèo khó, khốn đốn, đói khổ, lưu lạc,…
Thật vậy, họ không trả lời được câu hỏi “Tại sao phải lương thiện? Ai cho tôi lương thiện?...”. Vì thế mà con người thời Lão Tử phải ngụp lặn sống mãi trong chiến loạn, hận thù. Vấn đề đạo của Lão Tử bị dừng lại, giới hạn ở đấy.
Người kế thừa, nối tiếp tư tưởng Lão Tử để lại tên tuổi trong tri thức nhân loại được biết đến là Trang Tử. Tuy nhiên, do giới hạn về góc nhìn, nhận thức mà nhân loại đã có sự ngộ nhận về sự thành công trong học thuyết Trang Tử. Trang Tử thật sự không giúp Đạo Lão tiến lên mà rẽ sang một bước ngoặt mới và từ đó từng bước làm mai một Đạo Lão.
Đối với pháp thế gian, phàm mọi việc nếu không có sự phát triển tiến lên mà chỉ dừng lại thì cũng đồng nghĩa với việc tụt dốc, rơi rớt vì những sự vật, hiện tượng khác vẫn không ngừng vươn lên huống hồ là việc lạc vào đường rẽ, lối nghẽn.
Lẽ ra, Trang Tử phải phát triển học thuyết Lão Tử bằng việc tìm hiểu, nhận biết thông suốt về đạo. Đằng này Trang Tử lại bỏ qua, không chú trọng việc rõ biết đạo mà đi đào sâu tìm hiểu việc dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ. Do mơ hồ biết việc giữ “Tâm xích tử” giúp con người kéo dài tuổi thọ khiến Trang Tử phát triển học thuyết theo khuynh hướng thoát tục, lánh đời.
Từ đó, học thuyết của Lão - Trang tạo ra không ít ngộ nhận, lầm lạc cho người đời sau về phương pháp tu tiên, về việc luyện thuốc “Trường sinh, bất tử”.
Con người có thể siêu nhiên xuất thế, thoát tục khi mang xác thân vật chất được không?
Nói cho cùng tận đó chỉ là việc trốn tránh trách nhiệm, bổn phận của một người sống, là việc lánh đời.
Có việc trường sinh không?
Việc kéo dài tuổi thọ bằng việc giữ tâm xích tử là thật có, việc tạo ra hình thần - huyễn thân rồi xuất ra khỏi xác thân rong chơi tiêu diêu, tự tại là thật có. Nhưng dù kéo dài tuổi thọ đến bao lâu rồi thì cũng đến một ngày con người sẽ chết. Còn việc bất tử thì hoàn toàn không thể. Vậy mà đã có không ít người trong nhân loại phải chết oan uổng cho việc tìm phương thuốc trường sinh bất tử. Với tri thức ngày nay nhân loại sẽ dễ dàng nhận ra có sinh là có tử, có đến tất có đi,…
Đến như sự tồn tại của trái đất cũng không thể là mãi mãi thì một thực thể tồn tại trong hành tinh xanh lại có thể bất tử được sao?
Thế mà cho đến ngày nay vẫn có không ít người còn u mê, ngu muội,… tin rằng có sự bất tử. Cụ thể là có vài người trước khi chết đã nhờ sự trợ giúp của khoa học bảo bọc, giữ gìn sự toàn vẹn xác thân vì họ tin rằng một lúc nào đó khoa học sẽ phát triển đến khả năng giúp những xác chết hồi sinh sống đời bất tử. Thật là quá hão huyền, hoang đường!
Tuy nhiên, cũng không có nhiều người hành trì giữ “Tâm xích tử” đạt đến khả năng tạo huyễn thân, xuất huyễn thân du nhập cõi giới vô hình.
Lý do?
Ngay trong học thuyết của Lão - Trang đã thể hiện một khiếm khuyết rõ nét, sự khiếm khuyết này cũng là sai lầm chung của nhân loại. Cũng chỉ là một chữ Tham nhưng có sai khác về bản chất. Khi nhìn thấy con người vì tham đắm ngũ dục thì sẽ sớm chết Lão - Trang đã xa lánh sự tham ngũ dục nhưng lại rơi vào việc tham sống - việc dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ.
Vì xuất phát điểm không chuẩn nên không dễ dàng gì người tu tiên về đến đích dễ dàng. Chính vì lẽ đó mà khi hành trì tạo huyễn thân người tu tiên sợ rằng “có đi ra mà không có trở về” nên việc tiến tu gặp nhiều trở ngại và cho dù thành công trong việc tạo huyễn thân cũng không thật là cứu cánh giúp người tu đạo thoát ra 3 cõi 6 đường. Bởi lẽ còn sinh thì hẳn là còn tử.
Hơn nữa, nếu khi xuất hình thần mà người tu đạo không giữ vững định tâm hư tĩnh mà lưu xuất tà niệm, niệm bất thiện thì dễ xảy ra việc điên loạn hoặc bị “chiếm mất nhà” mà người tu đạo gọi là “đoạt xá”.
Chính do việc không tìm ra được phương cách trường sinh bất tử, việc không thật sự là cứu cánh giúp người thoát khổ, việc lánh đời, thoát tục,… mà tri thức nhân loại dần quên bỏ đạo Lão - Trang.
Qua phần luận giải trên, bạn sẽ nhận ra những học thuyết, triết giải hàng đầu có giá trị thực tiễn của hệ tư tưởng thời Bách gia chư tử đều vướng vào nền tảng nhị nguyên, đối đãi và không thực sự sáng rõ cùng tột vì vậy mà không giúp con người thoát ra khỏi sự bấn loạn nội tâm, sự tham đắm, si mê, chiến tranh, thù hận, loạn lạc,…
Nhưng có một sự thật là nguồn tri thức cổ đó chứa đựng những phương pháp rèn luyện, tu thân, hàm dưỡng nội tâm, tinh thần,… thật sự chuẩn mực góp phần xây dựng cuộc sống xã hội hài hòa, yên bình và đến nay tính thực tiễn, khả dụng của những bài học quý giá trên dường như đã bị lãng quên.
Khuất Nguyên cũng vì vướng vào màng lưới vô minh của nhị nguyên mà loạn trí, trầm mình xuống sông tuẫn tiết. Bởi lẽ dù rằng qua sự hiểu biết tự thân ông đã vạch ra nhiều lối đi trong cuộc sống nhưng ông không rõ là nên chọn con đường nào để sống hết quãng đời còn lại.
Thế nào là đúng? Thế nào là sai?
Ông “xét lại” khoảng thời gian sống đã qua, ông nhận biết “Mình không sai”.
Nhưng nếu không sai tại sao ông gặp phải kết cục hiện tại?
Vua không trọng, phế truất rồi lưu đày xuống Giang Nam, không có người thông hiểu kể cả người bạn học nhiều, biết rộng là quan Thái bốc Trịnh Thiềm Doãn,… Và ông lại rơi vào suy tư “Có lẽ mình sai? Sai chỗ nào?”. Ông không tìm được câu trả lời và do bản tính cang cường, cố chấp, cực đoan mà ông nghĩ rằng “Đã không có ai hiểu ông, có sống cũng bằng thừa, cuộc sống không cần đến ông, ông cũng không cần sự sống,…”.
Do không muốn sống một cuộc sống đến hồi vô dụng, kéo lê thê quãng đời qua những tháng năm dài ông đã tự tận. Dù vậy ông vẫn không trốn thoát khỏi màng lưới nhị nguyên, đối đãi đang bao phủ, xiết chặt, đè nặng tâm trí ông.
Hàn Phi cũng nhận lấy cái chết bi thảm từ màng lưới nhị nguyên. Do mặc định bản tính con người là ác ông đã vạch ra đường lối Pháp Gia để đối trị. Hàng loạt hình luật, biện pháp trừng phạt, chế tài,… đặt ra nhằm đưa xã hội vào nguyên tắc, khuôn khổ, nề nếp,…
Nhưng sự cơ xảo có trong học thuyết của ông khiến các thành phần gian lận, cơ hội, thủ đoạn,… tìm ra nhiều kẽ hở của luật pháp nhằm tranh giành phần hơn, hưởng lợi,… Thế là thêm hàng loạt những chế tài bổ sung được áp dụng nhưng nhóm người cơ mưu, thủ đoạn lại tiến lên một chiến lược mới, hữu dụng. Phương cách “Lợi mê lòng người” thực sự mang nhiều lợi ích cho mọi thành phần “Ăn trên, ngồi trước” của xã hội.
Việc thể hiện tài năng về chính trị qua những đề xuất chính sách chiến lược đa dạng của Hàn Phi đã giúp Tần Thủy Hoàng bước đầu an định, thống trị thiên hạ, đất nước.
Qua đó, tạo ra tư thù ngấm ngầm trong Lý Tư. Người bạn đồng môn Lý Tư sớm nhận ra người chặn đường tiến thân của mình ở triều chính là Hàn Phi nên đã dùng gian kế hãm hại. Thế là chấm dứt đời một nhà tư tưởng kiệt xuất nhưng có phần lầm đường.
Nếu đổ lỗi cái chết của Hàn Phi hoàn toàn do nơi Lý Tư là có phần khiên cưỡng vì thật ra đó chính là âm kế của Tần Thủy Hoàng.
Do việc áp dụng các chế tài hà khắc có ở luận thuyết của Hàn Phi đã dồn người dân vào đường cùng gây ra sự căm phẫn trong lòng thiên hạ, Tần Thủy Hoàng chấp nhận việc giết Hàn Phi để trấn an lòng người và cũng nhằm mục đích “Giết gà dọa khỉ” với dụng tâm áp đảo tinh thần các thế lực đối nghịch âm thầm.
Lẽ ra, Hàn Phi sau khi dùng hàng loạt các chế tài, hình luật,… để sắp xếp lại trật tự xã hội. Ông phải tiến hành giáo dục nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật ở con người nhằm từng bước gỡ bỏ những chế tài, án phạt,… Việc điều chỉnh, ổn định lại xã hội dựa vào con đường Đức Trị và Nhân Trị. Vì lẽ thật chẳng ra sao, thật chẳng đúng,… khi sự hiểu biết con người càng nâng lên thì con người càng phạm pháp nhiều. Con người càng khôn ngoan thì lại càng có nhiều thủ đoạn tinh quái và tạo ra thêm vô số lỗi lầm.
Hẳn là Hàn Phi không thể không biết đến câu “Đạo cao một thước, ma cao một trượng” nhưng ông đã không thể tùy thuận theo dẫn đến gặp họa sát thân. Có lẽ đã có sự xung đột tư tưởng giữa Tần Thủy Hoàng và Hàn Phi vì chính sách cai trị độc tài của Tần Thủy Hoàng là sách lược ngu dân nhằm dễ bề cai trị.
Thế nên, con người càng đặt ra nhiều chế tài, hình luật,… thì việc tạo tội sẽ càng thêm nhiều, thủ đoạn xảo quyệt và tinh vi hơn. Việc làm đó sao bằng việc giáo dục ý thức giúp con người hoàn thiện nhân cách, phẩm hạnh nhằm từng bước xóa bỏ những chế tài, biện pháp cưỡng chế. Có lẽ khi “Đạo thấp xuống còn nửa thước thì ma sẽ giảm thiểu còn non nửa trượng”. Có một sự thật là với một rừng cây đang phát triển đồng đều, mỗi cây sẽ đều cố vươn cao hơn những cây khác. Nhưng nếu ta tiến hành chặt thấp xuống gần như toàn bộ số cây ở cánh rừng đó thì những cây không bị chặt còn lại sẽ không cố vươn cao thêm nữa. Chúng cũng chẳng thể thấp xuống cho đến khi một cơn gió lốc quét qua hoặc là một luồng điện được phóng từ trên trời thẳng xuống những thân cây đơn độc,…
Nếu chấp nhận dùng sự hiểu biết chân chính và nhìn với góc nhìn tổng thể, khách quan bạn sẽ nhận thấy về bản chất là không có sự khác biệt ở trong những sự vật, hiện tượng khác nhau. Sự chi phối của những quy luật khách quan luôn đồng nhất và tương tự, chúng không lệ thuộc vào không gian cùng thời gian, chỉ là sự tùy thời.
Có lẽ nào nhân loại cứ xây dựng nề nếp, kỷ cương,… xã hội con người bằng việc dùng các biện pháp cưỡng chế, trừng phạt,… bằng vô số chế tài, hình luật không ngừng được bổ sung mà không dựa trên cơ sở tự ý thức, sự hiểu biết con người ngay trong kỷ nguyên hiện đại, văn minh và tiến bộ. Đã thế sao có thể khiên cưỡng bảo hộ, che đậy bằng những ngôn từ gây ra sự ngộ nhận, lầm lạc “Con người ngày càng hiểu biết, văn minh và ý thức sống không ngừng nâng lên”.
Xét thêm về việc “Lợi mê lòng người”.
Ở đây, ta sẽ thấy có rất nhiều sự được và mất trong cùng một vấn đề. Ta nhận thấy: Những người cơ hội, thủ đoạn,… sẽ phải trả một cái giá không hề nhỏ. Họ sẽ mất một lượng tiền của, tài vật lớn nhằm mang về quyền lợi, địa vị, tiền của dồi dào hơn kèm theo sự rủi ro, nguy hiểm. Bởi do không hẳn là lúc nào họ cũng thành công trong việc thực hiện những việc làm bất minh, bất tường đó. Thêm nữa, những thế lực bị mua chuộc “ăn quen, nhịn không quen” nhũng nhiễu thi thoảng lại vòi vĩnh, xin thêm.
Những người bị mua chuộc được gì, mất gì?
Họ được một số tiền lớn, một khối tài sản khổng lồ và họ mất đi giá trị phẩm cách con người. Dù rằng với vị trí đang nắm giữ họ vẫn có thể tiếp tục gom góp nhiều tài vật hơn nữa. Nhưng một khi giá trị nhân cách con người không còn thì họ đã mất tất cả. Thực tế là lúc họ tại vị thì những kẻ cơ hội, thủ đoạn,… vẫn xum xoe, bợ đỡ,… Dù vậy, ngay khi họ quay lưng đi thì những kẻ cơ hội sẽ buông lời miệt thị, coi khinh vì con người khi đánh mất nhân cách rồi thì không đáng xem là một con người nữa.
Nhất là khi những người bị mua chuộc “sa cơ, thất thế” thì họ sẽ nếm trải “tất cả vị đắng” của thói đời. Đáng thương thay cho những tâm hồn tội lỗi! Đó chính thật là cái giá mà họ phải trả, “gieo nhân nào sẽ phải gặt quả nấy”, họ đã gieo nhân “bán nhân cách, giá trị con người” thì phải nhận quả tương xứng của “một con người không còn giá trị con người”. Vì thế họ sẽ chẳng thể than thân, trách phận, hận ghét lòng người đen bạc đổi thay.
Không chỉ vậy! Dù là có “lắm bạc, nhiều tiền”, địa vị cao, danh lợi nhiều nhưng trong lòng họ luôn có những bấn loạn, nơm nớp lo sợ,… bởi vì họ không rõ biết khi nào những việc làm sai trái của họ bị phơi bày ra ánh sáng. Khi đó họ sẽ mất tất cả, điều này là hoàn toàn có thể xảy ra vì cuộc sống luôn có sự tiến bộ đổi thay.

Khi mặt trời lên thì ngay cả những nơi sâu thẳm, tối tăm, mù mịt nhất cũng sẽ có lúc nhận được những tia nắng sớm và hơi ấm luôn bao phủ khắp không gian.

Ở vấn đề trên, ta lại thấy một điều đáng tiếc. Nếu chỉ xét vấn đề được mất ở những kẻ cơ hội thủ đoạn và người bị mua chuộc thì ta bị rơi vào màng lưới nhị nguyên đối đãi, sự hiểu biết của ta sẽ bị sự vô minh che lấp. Ở đây ta thấy có một khối tài sản, một khoản tiền lớn luân chuyển qua lại giữa người dùng tiền của mua chuộc người khác và người bán giá trị nhân cách cá nhân cùng gia đình.
Số tiền của, tài sản,… đó là của người bỏ ra mua chuộc người khác hay của người bị mua chuộc?
Điều đáng tiếc là số tiền của đó không thật sự là của hai hạng người trên. Số tiền của đó thật sự là giá trị thặng dư của toàn nhân loại. Phần lớn giá trị thặng dư đó là mồ hôi, nước mắt, sức lực và cả máu xương của những người lao động chân chính. Họ đã tạo ra chúng nhưng không hoàn toàn làm chủ sở hữu chúng vì “cơm áo gạo tiền”, vì sự giới hạn về nhận thức, tư duy của toàn nhân loại. Vì thế họ chấp nhận “Giá trị thặng dư đó không thuộc về họ” và hai hạng người trên nghiễm nhiên giành giật, thu về rồi nhận làm của mình. Thật là điên đảo thị phi!
Nhưng cuộc sống luôn có những giới hạn mà khi con người dù cố tình hay vô ý vượt qua đều phải đánh đổi những giá trị tương đương. Dù rằng người lao động đã lờ đi và quên bỏ “Khối tài sản thặng dư” vì họ cần được sống. Tuy nhiên, khi người lao động bị dồn vào đường cùng, không còn đủ điều kiện đảm bảo cuộc sống nữa thì họ sẽ không cần sống, không sợ chết nữa.
Họ sẽ vùng lên đòi lại những gì thuộc về họ thì hai hạng người tham lam, hèn hạ trên liệu có còn ngang nhiên ngồi thọ hưởng, “ăn trên, ngồi trước” được không?
Đã có rất nhiều cuộc đấu tranh, chính biến do con người tạo ra nhằm thay đổi, cải tổ lại bộ máy quản lý cai trị xã hội với mong mỏi thể chế chính trị mới mang lại sự bình đẳng, hài hòa, dân chủ và bác ái cho con người.
Tại sao việc giành giật lại “Giá trị thặng dư” của người lao động lại không chạm đến hai hạng người thâu tóm “Giá trị thặng dư” mà lại nhằm vào việc thay đổi bộ máy quản lý cấp nhà nước?
Bởi lẽ nhận thức của nhân loại hiện nay là sự hòa bình, tiến bộ, phát triển của một đất nước là do thành phần lãnh đạo đất nước quyết định.
Con người có cùng chung nhận định rằng “Chính việc quản lý yếu kém của thể chế chính trị đã tạo ra những lỗ hổng và dung dưỡng thành phần cơ hội, thủ đoạn cùng với nhóm người “Sâu dân, mọt nước”. Thế nên muốn lập lại trật tự cho một xã hội, một đất nước con người sẽ tìm đủ mọi cách để thay đổi thể chế chính trị””.
Trong bối cảnh xã hội đó thì sẽ phát sinh ra một số thế lực đối lập với thành phần cai trị đương thời do một trong hai hạng người đứng đầu tổ chức:
- Một là người trong số những người dân cùng đường tự đứng ra chịu trách nhiệm lãnh đạo với ý chí “Xóa bỏ bất công, tổ chức cải cách lại xã hội,...”.
- Hai là người thuộc hạng người cơ hội, thủ đoạn,… lợi dụng bối cảnh rối ren, khuấy đảo mọi việc nhằm tranh giành quyền lực, địa vị.
Sở dĩ có việc tạo ra những lực lượng đối lập là do dựa vào tâm ý chung, niềm tin, sự mong mỏi,… ở nơi người lao động, dân nghèo,… mà sẽ có một số người đứng ra thành lập những tổ chức với quan điểm đối lập hoặc thể hiện việc cải tổ lại những chính sách không chuẩn mực của thể chế chính trị đương thời cùng với việc thể hiện lập trường lo cho dân nghèo và người lao động nhằm lôi kéo, gom góp sự ủng hộ về vật chất, tinh thần cũng như mạng sống con người.
Những cuộc đấu tranh, chiến loạn, chính biến,… phần lớn đều bắt đầu từ những nguyên nhân, yếu tố, bối cảnh xã hội đặc trưng như vậy.
Liệu giải pháp vùng lên giành lại phần “Giá trị thặng dư”, giành lấy quyền làm chủ, quyền lãnh đạo có phải là việc làm chuẩn mực, cần thiết, đáng làm, cần làm, nên làm và không có lỗi lầm?
Thực ra đó không là một giải pháp tối ưu. Khi sự hiểu biết của nhân loại còn bị trói vào màng lưới nhị nguyên phân biệt, dính mắc đối đãi thì máu, nước mắt, khổ đau, hận thù sẽ không ngừng dứt bởi do sự tàn ác man rợ, thú tính,… trong việc giết hại lẫn nhau để giành lấy phần hơn về cho cá nhân, dòng tộc, quốc gia,… ngày càng thêm khốc liệt. Dù rằng ai thắng, ai thua thì luôn có rất nhiều người dân nghèo, người vô tội bị giết sau những cuộc tàn sát thảm khốc, con lại thiếu cha, vợ lại mất chồng, những cảnh đời nghiệt ngã, những ông già bà lão đơn chiếc, héo hon, những đứa trẻ bơ vơ, lưu lạc,...
Lịch sử loài người đã chứng kiến bao nhiêu cuộc nổi dậy, vùng lên, chiến loạn khốc liệt, đẫm máu con người?
Có lẽ sẽ không sai khi nói “Máu, nước mắt loài người đổ xuống cho những cuộc chiến tranh từ xưa đến nay không hề ít hơn nước của 4 đại dương (Thái Bình Dương, Bắc Băng Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương) trên trái đất. Xương thịt của những người chết do những cuộc chiến cũng không thể nhẹ hơn trọng lượng của “5 châu, 4 biển”.
Phải chăng vì thế mà nước biển, đại dương có vị mặn của máu và nước mắt con người?
Kết quả của những cuộc chiến loạn dù thất bại hay thành công thì cũng chỉ có cùng một đáp án. Một thể chế chính trị được tái thiết trở lại. Thể chế chính trị mới ban đầu có thể cũng có những cải cách, tiến bộ vì sự phát triển cho con người, thuận theo lòng dân. Theo năm tháng thì mọi việc sẽ lại trở nên như cũ vì lẽ sự tư hữu luôn tồn tại trong lòng của mỗi con người.
Khi thể chế chính trị mới nắm vững vai trò lãnh đạo, nếu những con người trong hệ thống lãnh đạo đó cũng như các thành phần, tầng lớp kinh tế, xã hội, người dân không trao dồi đạo đức, nhân cách, phẩm hạnh của tư tưởng “Biết vì nhau mà sống” thì việc tư hữu sẽ từng bước làm cho xã hội con người trở nên rối ren, điên đảo. Đó cũng là mầm móng cho một cuộc cách mạng, cuộc tái thiết mới sẽ lập lại.
Lịch sử phát triển loài người chưa từng thoát ra quy luật “Nước lớn, nước ròng” này. Máu, nước mắt lại đổ, khổ đau và thù hận lại được tạo ra.
Vậy nên không thể làm một cuộc cách mạng vũ trang lật đổ chính quyền bạo ngược, không vì dân, vì nước. Vì lẽ mọi việc đâu lại vào đấy, máu của những người thân, những người dân và cả bạn sẽ đổ xuống cho những cuộc chiến sống còn phi nghĩa.
Nhất là khi việc giành lấy quyền cai trị được thực hiện thành công do bởi thế lực của những người cơ hội, thủ đoạn,… thì việc trước mắt họ sẽ phải củng cố vai trò, vị trí cầm quyền. Sau đó, họ sẽ phải gom góp quyền lực, lợi ích cho cá nhân, dòng tộc cùng với những thành phần xã hội nắm giữ quyền lực về chính trị, kinh tế,... Những lời hứa hẹn trước người dân vì thế sẽ bị quên lãng hoặc chỉ được thực hiện tượng trưng và hình thức.
Lẽ nào lại không có lối thoát cho những người dân nghèo và người lao động chân chính?
Có một lối thoát thực sự cho xã hội con người. Đó là khi con người dùng sự hiểu biết khách quan, sáng rõ. Khi đó, người dân không bị cuốn vào những cuộc tranh giành quyền lực của giới chính trị và cả thành phần lực lượng, tổ chức đối lập. Họ sẽ không tham gia vào những cuộc đấu tranh nổi dậy giành lấy quyền lãnh đạo, cai trị.
Nếu nhà lãnh đạo xây dựng thể chế chính trị chuẩn mực lo cho dân, cho nước thì người dân hết lòng ủng hộ. Còn khi nhà lãnh đạo trở nên suy đồi, bạo ngược, quay lưng lại, không chăm lo đời sống, việc làm của người dân thì người dân cũng quay lưng lại với các thành phần lãnh đạo và không ủng hộ nhà cầm quyền như trước.
Nếu nhà cầm quyền đó muốn tồn tại thì sẽ phải sửa sai những việc không đúng, không chuẩn mực để chăm lo đời sống người dân. Xây dựng, phát triển xã hội tiến tới công bình, văn minh, tiến bộ, tự do và bác ái.
Đó là một phần của giải pháp khắc phục khủng hoảng chính trị cho xã hội con người trong thời điểm hiện tại và tương lai. Đó là cuộc cải cách, cuộc cách mạng về tư tưởng, tư duy, nhận thức về cuộc sống, xã hội loài người giúp con người dần tiến đến một thế giới hòa bình, ấm no và thịnh vượng.
Giải pháp cuộc cách mạng tư tưởng hòa bình sẽ thay thế cho những cuộc cách mạng vũ trang tàn khốc, đẫm máu, nước mắt nhưng không đem lại một sự phát triển bền vững, ổn định, mang tính nhân văn, không dựa trên sự hiểu biết, cảm thông và tình yêu thương đồng loại.
Thiết nghĩ, nhân loại hãy nên nhìn nhận lại mọi vấn đề ở góc nhìn tổng thể, khách quan nhằm từng bước sửa sai những quan niệm, định kiến sai lầm, hẹp hòi khiến lịch sử loài người phải viết bằng những trang đẫm máu, nước mắt và hận thù.
Qua phần trình bày trên, bạn sẽ nhận ra “Từ lâu, nhân loại đã trói nhận thức, tư duy vào mạng lưới nhị nguyên vô minh với vô số sự phân biệt, dính mắc đối đãi”.
Việc đúng sai, được mất, hơn thua, thiện ác, sang hèn, quân tử - tiểu nhân, tham lam - bố thí, si mê - hiểu biết, sân hận - nhẫn nhịn, kiêu ngạo - khiêm nhường, vọng động - điềm tỉnh, tranh đoạt - buông xả,…
Do đứng ở góc nhìn phiến diện, hạn hẹp, chủ quan,… nên con người đã đánh giá, nhìn nhận mọi vấn đề đều có sự thiên lệch, mắc phải hàng loạt những sai lầm. Từ đó, con người đã tạo ra vô số cuộc chiến tranh xâm lược, cướp bóc, giết người cũng như việc “vắt kiệt” nguồn sống của trái đất,… Những việc làm đó khiến con người và muôn loài phải sống trong nỗi thống khổ, thù hận, tang thương, mất mát, đau đớn,…
Phải chăng tôi cũng đang rơi vào màng lưới nhị nguyên mà “xét lại” và phân biệt, lý giải mọi vấn đề nhằm chứng tỏ sự thông minh, nhiều hiểu biết của cá nhân?
Thực tế là những điều tôi trình bày cơ hồ không mang lại cho tôi nhiều lợi ích. Việc bước vào màng lưới vô minh của tôi là nhằm xé bỏ tấm màng vô minh đã bao bọc, trói buộc nhận thức, tư duy nhân loại cho mãi đến ngày nay. Sau khi “xét lại” rồi trình bày những vấn đề đã qua, hiện tại và tương lai tôi sẽ quên bỏ vì với tôi những điều đó thật không còn giá trị. Tôi chỉ làm điều đó nhằm giúp bạn nhận biết mọi việc sáng rõ, đúng thật. Để rồi bạn chọn lựa lấy con đường cho bạn và cũng là tương lai của nhân loại.
Quay về hiện tại, phải chăng nhận thức, tư duy con người ngày nay đã thoát ra ngoài tấm lưới vô minh nhị nguyên đối đãi?
Dường như con người đã quên bỏ việc nhìn nhận về khái niệm nhị nguyên đối đãi. Việc quên bỏ không đồng nghĩa với việc xé bỏ, phá tan tấm màng vô minh. Nhân loại không còn chú tâm đến khái niệm nhị nguyên nhưng lại luôn sống và trói nhận thức, tư duy vào nhị nguyên với tâm phân biệt, dính mắc ngày càng khắc khe, hời hợt. Đó là sự thật.
  • Giải nhân loại nay.
  1. Dùng nhị nguyên luận cổ, giải kim.
Có lẽ đã đến lúc tri thức nhân loại phải thừa nhận những sai lầm. Chỉ khi đó nhân loại mới có thể khắc phục, sửa sai nhằm rõ biết sự thật về sự sống.
Khi nhìn ở góc nhìn tổng thể, khách quan, bạn sẽ thừa nhận “Nhân loại đã qua rồi thời con người học hỏi, rèn luyện nhân cách đạo đức, nuôi dưỡng tâm hồn, tình yêu thương”. Đó là điều rõ thật. Để nhận biết điều này quả thật là không khó, bạn hãy nhìn lại việc giáo dục ở toàn nhân loại.
Phải chăng việc rèn luyện đạo đức con người đã bị xem nhẹ, không còn chú trọng như xưa?
Việc giáo dục ở trường lớp chịu sự chi phối tác động của ngành giáo dục. Ngành giáo dục thì lại chịu áp lực từ nhu cầu của xã hội và ở những nhà quản lý không sáng rõ, giáo dục đã chạy theo thành tích tăng trưởng hàng năm.
Thêm nữa, do việc trói vào địa vị, quyền lợi, “cơm áo gạo tiền”, việc thiếu tâm huyết ở những người làm công tác giáo dục và giới hạn về tri thức mà ngành giáo dục đã không có những hướng cải cách, thay đổi thích hợp. Việc rèn luyện phẩm cách con người đã trở thành thứ yếu và phai nhạt theo căn bệnh thành tích hão huyền.
Còn việc giáo dục ở gia đình thì gần đây đã không là vấn đề được quan tâm đúng mực của những bậc làm cha mẹ và ở người lớn. Mỗi người đều phải bương chải, lo toan cho cuộc sống, kiếm tiền mà gần như giao hẳn việc giáo dục thế hệ trẻ cho trường học. Thiếu sự quan tâm giáo dục ý thức sống, việc sớm nắm giữ trong tay khoản tiền lớn, những cám dỗ của lối sống đua đòi, hưởng thụ thế hệ trẻ đã không tôi luyện ý thức sống, nhân cách cũng như hàm thụ đời sống nội tâm.
Từ đó, xã hội con người tạo ra một thế hệ sống phần lớn chỉ biết nghĩ đến bản thân, tự tư, tự lợi, ích kỷ, ham muốn thể hiện bản thân đến mức ngông cuồng xem nhẹ mạng sống, coi thường nhân cách, giá trị người khác và cả chính bản thân.
Cội nguồn những sai lầm trong việc giáo dục phát khởi từ đâu?
Trước hết, tôi sẽ xét vấn đề giáo dục ở Phương Đông. Sau một thời gian dài người Phương Đông theo đuổi việc rèn luyện đạo đức, nuôi dưỡng tinh thần, nội tâm mà không đem lại sự giàu có, ấm no, hạnh phúc cho xã hội con người. Người Phương Đông mới nhìn nhận sự thua kém về mặt khoa học kỹ thuật và vật chất so với người Phương Tây.
Từ đó, con người đã du nhập nền văn hóa tư tưởng Phương Tây vào Phương Đông. Nhờ vậy mà lượng tài sản, của cải, vật chất ở Phương Đông ngày càng phong phú, đa dạng. Do mãi chạy theo việc sản xuất vật chất, của cải mà người Phương Đông quên bỏ việc hàm dưỡng nội tâm, tình yêu thương.
Từ bao giờ lối sống thực dụng Phương Tây len lõi, chiếm lĩnh ý thức hệ người Phương Đông?
Điều này góp phần bộc lộ rõ nét việc phân tầng giàu nghèo. Con người nhiều gian ngoan thủ đoạn, tàn độc,… Tình cảm con người không còn giữ được sự thuần khiết, sáng trong như khi con người sống với lối sống giàu tình cảm, nồng hậu của người Phương Đông cổ xưa,… Những vết rạn nứt trật tự xã hội hình thành, cuộc sống con người ngày càng ngột ngạt, nội tâm ở mỗi con người gần như trở nên rỗng không, bấn loạn, vọng động,… Đó là những dấu hiệu đặc trưng để nhận biết xã hội Phương Đông đang bước vào khủng hoảng, Xã hội rối ren, biến loạn, nguy cơ đổ vỡ sự yên bình, hài hòa,… nơi cuộc sống con người.
Bạn hãy tự “xét lại”.
Một ngày nào đó con người chỉ biết sống ích kỷ cá nhân với những tham lam, si mê, sân hận,… liệu khi ấy xã hội con người có ổn định, bình yên, có tồn tại được không?
Kế đến, tôi lại xét vấn đề giáo dục của Phương Tây. Đích đến của việc phát triển xã hội ở người Phương Tây cổ xưa là tạo ra thật nhiều của cải, vật chất.
Do đó, mục tiêu của ngành giáo dục Phương Tây là học hỏi để sản xuất ra của cải, vật chất qua những sáng kiến, chế tạo, phát minh ra những thành tựu khoa học kỹ thuật và kể cả việc xâm lược, cướp sản vật từ nơi khác.
Trải qua thời gian dài tạo ra sản phẩm vật chất để trở thành những quốc gia cường thịnh nhưng lòng con người vẫn không an, đất nước vẫn có chiến loạn, xã hội vẫn rối ren,…
Vì thế, các nhà tư tưởng tiến bộ mới sang học hỏi những cái hay ở Phương Đông đem về áp dụng ở Phương Tây nhằm an định xã hội nhưng họ cũng không thể tìm ra được con đường để nhân loại tiến đến nền văn minh, công bình, tiến bộ và hạnh phúc.
Kế thừa tư tưởng truyền thống Phương Đông, người Phương Tây đã xây dựng nên các phương pháp rèn luyện kỹ năng sống. Phương pháp lãnh đạo, quản lý. Phương pháp thu phục lòng người - Đắc nhân tâm,…
Việc làm đó chỉ có công dụng an định nội tâm của một bộ phận không nhiều những người không bị trói trong nỗi lo “Cơm áo gạo tiền” còn những thành phần đang rơi vào vòng xoáy của chủ nghĩa thực dụng cơ hồ không có giá trị.
Bởi lẽ khi sự hiểu biết con người rơi vào nhị nguyên thì càng lúc tư duy, nhận thức nhân loại càng bị trói chặt trong màng lưới vô minh đối đãi.
Muốn thoát ra khỏi tấm lưới nhị nguyên thì nhân loại sẽ cần phải trả lời rốt ráo, sáng rõ những câu hỏi đại loại như:
Khởi nguồn của sự sống?
Sống để làm gì?
Vì sao phải sống lương thiện, biết yêu thương?
Con người giành giật phần hơn, tham đắm thọ hưởng có gì là không tốt?
Ai cũng phải chết cả, sao phải sống thanh cao để nhận lấy kết quả “cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm”?...
Khi chưa trả lời được những câu hỏi trên thì xã hội con người sẽ mãi là lệ thuộc vào quy luật “Con nước ròng, con nước lớn” không kém phần tàn khốc, nghiệt ngã.
Lại lui về quá khứ hơn 2500 năm ở Ấn Độ.
Lúc bấy giờ xã hội Ấn Độ đã có sự phân chia giai cấp rõ rệt gồm 4 thành phần chính yếu. Trong đó, Sát đế lợi là giai cấp thống trị quản lý xã hội về chính trị, quân sự và luật pháp. Bà la môn bao gồm giới Tăng lữ là thành phần toàn quyền quyết định về tư tưởng, tín ngưỡng, lễ nghi và chi phối cả vấn đề luật pháp ở các quốc gia quanh lưu vực sông Hằng. Tỳ xá bao gồm những thương gia, những người buôn bán, là thành phần chi phối xã hội thông qua lĩnh vực kinh tế. Thủ đà la bao gồm những người thợ thủ công như cắt tóc, thợ may, thợ rèn,… Đây là thành phần “thấp cổ, bé miệng” của xã hội.
Theo quy định thì thành phần Thủ đà la không được trực tiếp đối diện với 3 thành phần trên, phải chấp nhận thân phần hèn mọn, hạ tiện.
Tuy nhiên, vẫn còn có một thành phần mạt hạng, thấp kém hơn bao gồm thành phần Chiên đà la, những người cùng đinh và nô lệ. Những thành phần này có đời sống vô cùng lam lũ, khốn khó, thân phận hèn hạ, nhỏ nhoi,… Nếu chỉ vô tình chạm phải một người trong 3 thành phần “ăn trên, mặc trước” - Sát đế lợi, Bà la môn, Tỳ xá thì sẽ bị giết ngay lập tức hoặc buộc phải làm nô lệ phục dịch suốt đời.
Nhìn vào bối cảnh xã hội Ấn Độ cổ xưa tôi chợt nhận ra “Dường như không có nhiều sự khác biệt giữa quá khứ và hiện tại cũng sang hèn, giàu nghèo, đói no, lạnh lùng, tàn độc, yêu thương, khinh ghét,…”.
Cũng là một tấm màng vô minh nhị nguyên bủa vây.
Đã đến nơi Phật đản sinh lẽ nào tôi lại không đi tham bái Người. Tôi lặng lẽ đến bên Phật Thích Ca ngay nơi cội bồ đề trước đêm Người thành đạo. Người lặng lẽ ngồi đó, tôi lặng lẽ vọng bái rồi mải nhìn ngắm vẻ đẹp gần gũi, sáng rỡ nơi Thái tử Tất Đạt Đa.
Tôi chợt nghe tự tâm đánh thức niệm “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai”.
(Bất cứ sự vật, hiện tượng nào mà người học Phật nhìn thấy, nhận biết nơi sắc chất, hình tướng đều là cái thấy hư dối, không đúng thật vì lẽ chúng luôn luôn tàn hoại, thay đổi liên tục trong từng niệm, từng khắc, từng giây, từng phút. Chỉ khi nào người học Phật nhìn thấy các pháp không tựa ở nơi hình tướng, sắc chất thì cái thấy đó mới đúng là thật tướng của vạn pháp, là cái thấy đúng thật, với cái thấy cùng tột đó thì người học Phật mới thấu rõ Như Lai).
Chánh định giúp tôi sực tỉnh. Nếu dùng cái nhìn có sắc tướng sao có thể thấy được chân Phật?
Tôi khẽ nhắm mắt lại, xoay cái nhìn vào tự tâm. Ở nơi đó, tôi len vào tâm thức của Thái tử Tất Đạt Đa. Nơi tâm thức của Thái tử có một vầng mây xám xịt, u ám, ảm đạm,… của sắc trời giông tố, báo hiệu một trận mưa giông lớn sắp xảy đến, Thái tử vẫn bình thản, điềm tỉnh nhìn vào chiếc lá, hạt cát, bông sen, bát sữa của bé gái Tu Già Đa,… hòa quyện trong đám mây đen kịt.
Hồi lâu, Thái tử khẽ mỉm cười, nụ cười của Thái tử giúp tôi nhận ra “Người đã thấu rõ trong vạn vật cùng tột cũng chỉ là đất, nước, gió, lửa và hư không.
Lại thấy Thái tử bình thản quán chiếu nguyên do của việc đất, nước, gió, lửa, hư không kết hợp lại tạo ra xác thân người.
Rồi Người nhận biết khi xác thân tàn hoại thì mọi thứ sẽ về đâu?
Người thâm nhập cả vào cõi giới vô hình. Cứ thế, Thái tử quán chiếu tất cả vạn pháp, nhận biết Tánh không của vạn pháp, thấu rõ bản tâm.
Trận mưa giông bấy giờ đã ngừng dứt, sao mai vừa ló dạng cuối trời, Thái tử vẫn tĩnh tại thiền định.
Tôi dừng lại và quán chiếu về mọi việc vừa mới xảy ra trong tâm thức của Thái tử Tất Đạt Đa.
Vầng mây xám đen kịt chính thật là màng lưới nhị nguyên vô minh đã từ lâu trói buộc tâm thức con người, Thái tử muốn thoát ra khỏi sinh tử chỉ vì Người cũng bị trói trong lưới nhị nguyên sinh tử đầy khổ đau. Người thoát ra khỏi vô minh vì lẽ Người thấu rõ “Không có gì đáng được gọi là sinh tử cả”.
Tất cả chỉ là duyên sinh, luân hồi, nghiệp quả,… Muốn gỡ bỏ luân hồi, nghiệp quả, sinh tử thì con người phải thoát ra khỏi tâm phân biệt, dính mắc nơi nhị nguyên, hành trì để sống được với bản tâm chân thật, nơi con người chưa từng được sinh ra. Trận mưa giông lớn vào đêm Phật thành đạo cũng chính là lúc Phật dùng trí tuệ bát nhã quét sạch, cuốn trôi tấm lưới vô minh ra khỏi tâm thức. Sao mai mọc lên thể hiện trí tuệ bát nhã của Phật đã sáng rõ xuyên suốt 3 cõi 6 đường và thấu triệt 3 thời - Quá khứ, hiện tại, vị lai.
Tiếp đến, tôi lần theo con đường hoằng đạo, hành đạo và cả khi Phật nhập diệt. Quả thật, Phật không hề có ý định lập ra đạo Phật. Đạo Phật ra đời là do tâm ý phân biệt của con người. Phật nhập diệt là thời điểm đánh dấu sự chững lại và đi xuống của chánh pháp. Trong giáo lý của Phật Thích Ca giả lập ra làm 2 pháp - Pháp thế gian và pháp xuất thế gian.
Cả hai pháp thế gian và xuất thế gian không thể tách lìa mà cùng tồn tại bổ trợ cho nhau.
- Pháp thế gian là những pháp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của con người cùng muôn vật và chứa đựng cả sự hiểu biết giác ngộ hoàn toàn, trí tuệ bát nhã.
- Pháp xuất thế gian chính là các pháp nơi cõi vô hình, việc giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi.
Thực tế là sau khi được Phật chỉ bày và cả khi Phật nhập diệt thì số lượng người học Phật đạt được sự giải thoát hoàn toàn quả thật là không ít. Điều này đồng nghĩa với việc họ đã đạt pháp xuất thế gian nhưng gần như không mấy ai có trí tuệ theo kịp pháp thế gian nhằm nối pháp cho sự hiểu biết giác ngộ hoàn toàn. Vì lẽ đó theo thời gian chánh pháp của Phật Thích Ca bị lu mờ dần.
Tôi dần nhận ra nguyên nhân làm cho chánh pháp không còn sáng rõ, mất đi tính thực tiễn, tính khả dụng và ngày càng xa rời cuộc sống con người.
- Nguyên nhân thứ nhất làm cho chánh pháp bị mai một là do con người đã giới hạn, nhốt chánh pháp vào đạo Phật.
- Nguyên nhân thứ hai là do tâm nguyện của người học Phật đời sau không dũng mãnh cầu trí tuệ bát nhã, sự hiểu biết giác ngộ tột cùng ở pháp thế gian mà chỉ cầu sự giải thoát hoàn toàn cho cá nhân ở pháp xuất thế gian.
- Nguyên nhân thứ ba là người học Phật bị trói vào việc truyền trao Phật pháp dựa vào hai chữ “Tùy duyên”.
Những sai lầm này bắt nguồn từ nơi Nhị Tổ A Nan và Sơ Tổ Ca Diếp.
Cụ thể, khi biết rằng gần đến ngày nhập diệt Phật Thích Ca đã đôi ba lần gạn hỏi ngài A Nan cùng đại chúng có gì không rõ biết thì cứ tuần tự trình bày Như Lai sẽ giảng giải cặn kẽ. Bấy giờ, ngài A Nan đã đạt quả Dự lưu và không ít người học Phật nơi đại chúng đạt 1 trong 4 quả vị Thánh. Những người đạt 1 trong 4 quả vị thánh là những bậc bất thối chuyển sẽ mau chóng liễu thoát sinh tử.
Đáng tiếc là ngay cả đến người học Phật đạt quả vị A la hán cũng chỉ cầu giải thoát nên tâm Bồ tát phần nhiều không dũng mãnh vì thế đã không có những câu hỏi nhằm làm sáng rõ chánh pháp.
Cho đến khi Phật nhập diệt ngài A Nan vẫn chỉ đạt được quả Dự lưu, điều này cho thấy ngài A Nan rất đa văn nhưng bị trói vào sự ỷ lại là em họ của Phật sẽ được Phật nâng đỡ. Trên thực tế Phật không thể làm điều đó, đối với pháp xuất thế gian thì tự mỗi người phải hành trì, bước đi trên đôi chân và nhận biết bởi do sự hiểu biết của tự thân. Phật nhập diệt, ngài Ca Diếp đã dùng một câu nói giúp ngài A Nan sau một đêm liên tiếp chứng 3 quả vị còn lại của Thánh quả.
Tại sao Phật không giúp được A Nan mà ngài Ca Diếp lại làm được điều đó?
Vì lẽ lúc Phật tại thế ngài A Nan ỷ lại dựa dẫm vào Phật mà không thể tiến tu. Đến lúc Phật nhập diệt, chỗ dựa vững chắc không còn nên khi bị ngài Ca Diếp khiển trách, không cho dự vào buổi kết tập kinh điển nên sinh tâm hổ thẹn, miên mật thiền định, dứt bỏ tâm phân biệt, dính mắc và mau chóng chứng quả A la hán
Ngoài ra, ngài Ca Diếp còn chủ trì cho việc kết tập kinh điển hoàn mãn nhưng cả Sơ Tổ Ca Diếp, cả những vị Tổ về sau chỉ cầu pháp xuất thế gian, không cầu sự hiểu biết của pháp thế gian, làm Phật sự tùy duyên nên dần dần khiến chánh pháp xa rời xã hội và giới hạn chánh pháp vào trong đạo Phật.
Qua đó, ta thấy các vị Tổ đạt tâm giải thoát nhưng lại nhốt thân, nhốt chánh pháp vào đạo Phật. Đến các vị Tổ và người học Phật đời sau nữa thì họ không chỉ nhốt thân cùng giáo lý, kinh điển vào đạo Phật mà còn nhốt thân vào Pháp. Do không phá bỏ được cái tôi - bản ngã mà mỗi người học Phật tạo lập tông giáo riêng làm chia rẽ, tách rời các pháp, làm rối loạn, hỗn độn chánh pháp. Không ít người học Phật rơi vào lợi dưỡng, lợi danh gây ngộ nhận, làm ảnh hưởng đến giá trị Tam tạng kinh của Phật Thích Ca.
Giá như những ngày Phật gần nhập diệt mà bên Người còn có ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên thì chánh pháp sẽ được sáng rõ thêm. Ngài Xá Lợi Phất thì trí tuệ xuất chúng, ngài Mục Kiền Liên thì bi nguyện dũng mãnh vì xiển dương chánh pháp chân thật mà quên bỏ thân mạng. Thật là hai vị Bồ tát lớn ở thế gian thời Phật tại thế, đáng được kính ngưỡng, vọng bái.
Nói thêm về việc chia tông, rẽ giáo làm cho chánh pháp bị mai một, đánh mất chân giá trị.
Tịnh độ tông:
Tịnh độ tông ra đời dựa vào bộ kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ. Người học Phật hành trì theo pháp môn Tịnh độ tin sâu lời nguyện của Phật A Di Đà, nương cầu tha lực. Lâu ngày thành tánh, người tu Tịnh độ không còn tin nơi tự tâm, tự tánh vội nhận căn tánh ngu độn, trí tuệ cạn cợt, phước mỏng,… Hành trì tu học chỉ cầu Phật A Di Đà tiếp dẫn Tây Phương Cực Lạc khi nhắm mắt lìa đời.
Người học Phật theo Tịnh độ tông phần nhiều không chú trọng học hỏi pháp Phật nhằm nhận biết sáng rõ con đường liễu thoát sinh tử và tự chủ bước đi vượt qua luân hồi. Sự không tự tin vào tự tâm mỗi người đều có Phật tánh thể hiện rõ ở nơi người học Phật theo pháp môn Tịnh độ.
Cụ thể là có không ít vị cao Tăng danh tiếng học theo pháp tu Tịnh độ trải qua thời gian rất lâu xa. Vậy mà khi được Phật tử đến lễ bái lòng e dè không muốn nhận vì sợ hóa thân Bồ tát tham bái sẽ bị tổn hại phước lực. Nếu gắng gượng cho rằng vì là người học Phật nên thể hiện phép khiêm cung, kham nhẫn. Nhưng đến việc dặn dò Phật tử vào ngày họ viên tịch hãy cùng hộ niệm, trợ duyên giúp họ tiến nhập Tây Phương thì không thể là sự khiêm cung. Bởi lẽ khi người học Phật đạt pháp sẽ tự biết chọn đường để đi nếu vì sự khiêm cung mà nói lời hư vọng là dối truyền pháp Phật, không là người học Phật chân chính.
Quả thật, khi trình bày vấn đề này dù vô tình hay cố ý thì tôi cũng đã phạm vào lỗi “Đại ngã mạn”, tôi sẽ sám hối nơi tự tâm.
Đây thật là việc bất đắc dĩ tôi phải làm chứ không vì danh lợi phù vân. Nếu tôi có lòng hư dối “Khinh Sư, diệt Tổ” nguyện đọa địa ngục Vô gián muôn ngàn kiếp không thể siêu sinh.
Lý do tôi trình bày vấn đề trên là vì chỉ ra điểm sai then chốt của người học Phật khi hành trì pháp môn Tịnh độ mà thiếu sự hiểu biết sáng rõ. Tôi sẽ kể 1 câu chuyện được nghe từ một người học Phật khác. Chuyện kể rằng:

Một hôm, người học Phật đó gặp các cô, các bác Phật tử đi từ trong chùa ra sau một thời kinh. Vốn có quen biết, người học Phật buộc miệng hỏi:
- Hôm nay các bác đi chùa trì kinh gì?
Người Phật tử trả lời:
- Tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Người học Phật lại hỏi:
- Trong kinh viết gì?
Người Phật tử đáp:
- Trong đó viết “tùm lum, tùm la”, đọc không hiểu gì hết.
Đến đây, người học Phật chẳng còn lời nào để hỏi.

Xét lại vấn đề này, câu trả lời cuối cùng của người Phật tử cho thấy họ là người rất chân chất, tri thức không rộng nhưng đến chùa học Phật mà như thế thì “Tham, sân, si, mạn, nghi” có dứt trừ được không?
Nếu không thể dứt trừ “Tham, sân, si, mạn, nghi” thì sao có thể có “cửu phẩm liên hoa” chờ sẵn nơi Tây Phương cực lạc. Nếu không có cái nhìn sáng rõ để tự tiến tu thì Phật đâu thể tiếp dẫn đặng.
Phật Thích Ca đã từng thuyết “Bất kỳ chúng sinh nào trong 6 đường đều có Phật tánh”.
Hiển nhiên chỉ có chúng sinh nẻo Người là có thể hiểu được câu nói đó.
Vậy bạn có tin nơi bạn có Phật tánh không?
Nếu không tin nhận thì bạn học Phật mà làm gì?
Nếu đã tin nhận sao lại còn u mê vướng vào tà kiến căn tánh ngu độn, chậm lụt, phước mỏng, cần tu học Phật rất nhiều đời?
Nếu thật tin nhận “Phật tánh có nơi tự tâm” thì hãy lấy Phật tánh ra chuyển thành Tánh Phật. Ngay đây chính là nơi người học Phật không bị kinh chuyển mà đã chuyển được kinh. Nếu hành trì tinh tấn, miên mật chuyển Phật tánh thành Tánh Phật thì sẽ mau chóng giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.
Tánh Phật là gì?
Nơi Tánh Phật không có “Tham sân si mạn nghi”, trợ pháp hiển lộ Tánh Phật là 6 pháp ba la mật - Bố thí, trì giới, nhẫn nhịn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
Hiển nhiên là nơi bạn luôn sẵn có. Nếu bạn phát tâm bồ tát dũng mãnh, hành trì tùy thuận 6 pháp ba la mật bạn hoàn toàn có thể thành Phật, Bồ tát cũng như quả vị của những bậc bất thối chuyển ngay trong hiện đời. Đây là lời nói không hư dối, đúng thật.
Thiền tông:
Dựa vào pháp Tâm truyền tâm được cho là “của riêng” Sơ Tổ Trung Hoa, ngài Bồ Đề Đạt Ma. Trói người học Phật vào pháp với việc thiền hành, thiền tọa, xa rời ngôn thuyết, giáo lý kinh điển. Mục tiêu của người học Phật theo pháp tu Thiền tông là chứng đắc 1 trong 4 quả vị Thánh, cầu A la hán, tham học pháp xuất thế gian.
Do việc hạn chế tham khảo giáo lý, kinh điển, không học hỏi sự hiểu biết và ít va chạm nơi pháp thế gian nên sự chứng ngộ đạo lý giác ngộ, giải thoát ở người tu Thiền tông có phần giới hạn.
Tuy nhiên, người tu Thiền Tông quả thật có chứng, có đắc và vì có sự “đột ngột” khai mở trí tuệ nên người học Phật dễ sinh tâm ngã mạn, nuôi lớn bản ngã.
Có không ít người tu thiền đã “Coi trời bằng vung”, “Dưới mắt không người”, “Khinh Sư, diệt Phật”.
Cụ thể là có không ít người tu học một thời gian được khai mở sự hiểu biết đã lập ra tông giáo mới, phân biệt ra Như Lai thiền, Tổ Sư thiền, thêm nhiều pháp thiền khác nhau và cả Tối thượng thừa thiền.
Không chỉ vậy, có một vài Tông phái thiền dõng dạc tuyên bố “Pháp môn tu cao hơn pháp Phật, hoặc là nếu y pháp môn của Tông phái đó thì sẽ đảm bảo đắc A la hán,…”.
Những người học Phật này nếu không rơi vào lợi dưỡng, lợi danh thì hẳn là đã dừng nơi Đại ngã. Đành rằng: Vạn pháp đồng tánh không nhưng cũng đừng quên cụm từ “chẳng thật không”.
Với trí tuệ của Đại ngã nơi tự thân mà dám tự thị “Pháp môn tu cao hơn pháp Phật” thì không phải là quá ngông cuồng sao?
Hãy nên nhìn nhận lại cội nguồn nơi đâu mà đạt pháp, phát khởi trí tuệ lớn. Dù rằng là vì người học Phật đời sau nói lời hư vọng nhưng không thể “một sớm, một chiều” “tắm máu” Như Lai.
Rõ thật là việc làm cuồng ngông đó chỉ ở nơi Đại ngã chưa thực chứng Vô ngã. Nếu dừng lại nơi Đại ngã thì người học Phật chưa thật sự sống với Chánh vị. Nếu nhận biết phạm lỗi Đại ngã mạn thì người học Phật nên tự tâm sám hối chí thành nhằm phục hồi giới thể, tự tìm về bản tâm thanh tịnh, không dính mắc.
Tôi lại kể một câu chuyện về sự hành trì sai chánh pháp của một người học Phật rơi vào đại ngã. Đây là một câu chuyện có thật.

Trước đây, có một người học Phật chuyên tâm thiền định. Sau một thời gian hành trì, người đó khai mở được sự hiểu biết trở nên thông tuệ. Do chưa phá bỏ hoàn toàn bản ngã và do dục tính huân tập sâu dày chưa được điều phục rốt ráo, người đó đã hướng sự phát triển tông giáo theo hướng mới nhằm thỏa mãn tính dục bản thân mà về sau nhân loại tạm gọi tông giáo đó là tà giáo. Người đứng đầu tông giáo đó được gọi là nhà truyền giáo tình dục. Nguyên do tông giáo đó hướng con người đến sự tự do tình dục, tổ chức những buổi quan hệ tình dục nam nữ tập thể, quần hôn,… Kết quả nhà truyền giáo đó đã chết không minh bạch. Cái chết không minh bạch đó có thể xét đến khía cạnh việc truyền bá tư tưởng của nhà truyền giáo trên không đúng với lòng người, trái đạo. Trái đạo tất sẽ mạng vong.

Xét lại vấn đề này, ta sẽ thấy việc làm của người truyền giáo trên là sai trái, không đúng với chánh pháp Phật Thích Ca. Nếu chưa sống được chánh vị thì hẳn là người truyền giáo đó sẽ phải luân hồi trở lại.
Đáng buồn hơn là những tín đồ của Tông phái tà quái trên sẽ bị dìm sâu hơn trong những nẻo tối tăm, xấu ác.
Ở đây sẽ có sự khác biệt giữa pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Với pháp thế gian thì người “biết luật phạm luật” sẽ bị trừng phạt nặng hơn còn ở pháp xuất thế gian thì ngược lại, người “biết luật phạm luật” sẽ nhận nghiệp quả nhẹ hơn.
Bởi do mọi việc đều lưu xuất ngay nơi tâm ý, người học Phật đúng pháp rõ biết nghiệp quả nên việc làm e dè, thận trọng, không ngừng sửa sai vì thế sẽ dễ dàng hơn trong việc “Cầm lên được thì buông xuống được” đồng nghĩa với việc không dính mắc, buông bỏ được việc đã làm.
Tuy nhiên để làm được điều này đòi hỏi người học Phật có sự hiểu biết sáng rõ và thường sống nơi pháp Phật, sống với tâm không dính mắc, sáng rõ.
Để rõ hơn về việc trừng phạt nơi pháp xuất gian giữa người học Phật và người không học Phật tôi sẽ đưa ra một câu chuyện có trong giáo lý nhà Phật:

Ví như 2 người phạm tội và nhận cùng một hình phạt là chạm tay vào thanh sắt cực nóng. Người không học Phật, không biết đến pháp xuất thế gian sẽ không rõ biết thanh sắt cực nóng nên dùng bàn tay nắm cả vào thanh sắt, còn người học Phật dù vừa mới tiếp xúc đến pháp xuất thế gian nhưng do nhận biết thanh sắt nóng nên chỉ chạm nhẹ vào thanh sắt và rút tay về.

Hậu quả của việc trừng phạt ở 2 người, bạn hãy tự nhìn nhận lấy.
Liên quan đến việc làm trái đạo của nhà truyền giáo trên tôi phải trình bày lại sáng rõ một vấn đề nhằm tránh tạo ra sự ngộ nhận đáng tiếc và cũng là giải một mối nghi trong tri thức nhân loại.
Từ lâu, người học Phật và phần lớn nhân loại lầm lạc tin rằng “Việc học Phật cần phải “cắt ái, ly gia” vì vậy mà nhân loại đã tạo ra khoảng trống là sự xa rời pháp Phật”.
Nay tôi trình bày việc xiển dương “tự do tình dục” là việc làm không đúng với chánh pháp của nhà truyền giáo cũng lại là vấn đề liên quan đến tình dục.
Nếu tôi không trình bày rõ ràng thì nhân loại lại mặc nhiên tin rằng “Người học Phật phải lìa bỏ tình yêu, hôn nhân, gia đình”. Nhận thức như thế thì con người sẽ khó thể đồng thuận dẫn đến việc xa rời pháp Phật và không thể tùy thuận sống theo chánh pháp.
Thực tế là giáo lý Phật Thích Ca chưa bao giờ khuyên con người từ bỏ yêu thương.
Vậy sao có thể thừa nhận người học Phật là nên lấy “cắt ái, ly gia” làm sự chuẩn mực và là thước đo của việc học Phật?
Người học Phật học gì nơi Phật?
Việc học đó không gì khác hơn ngoài việc học hỏi, hành trì theo chánh pháp.
Chánh pháp là gì?
Chánh pháp có ở nơi đâu?
Chánh pháp có nơi lòng người, lòng người chứa đựng chánh pháp. Thật vậy, sâu thẳm nơi lòng người chính thật là việc cầu giải thoát khỏi mọi khổ đau và sinh tử. Chánh pháp là các pháp giúp con người thực hiện việc thoát ra mọi khổ đau, thoát khỏi sinh tử.
Để rõ hơn vấn đề này tôi sẽ xét lại việc ngài A Nan trúng mê dược của cô Ma Đăng Già suýt phạm giới thể. Phật đã cho người đến nhà cô Ma Đăng Già đưa cả A Nan và cô Ma Đăng Già về gặp Phật.
Việc làm đó nhằm “giải cứu” ai?
Từ lâu, người học Phật cho rằng “Việc làm đó nhằm giải cứu ngài A Nan.
Đây là một sự ngộ nhận đáng tiếc. Thật ra Phật đã giải cứu cô Ma Đăng Già giúp cô không rơi vào tận cùng đau khổ và tuyệt vọng.
Lúc bấy giờ, ngài A Nan đã đạt quả Dự lưu bất thối chuyển. Vạn nhất ngài A Nan phạm sắc giới thì sinh lòng hổ thẹn, sám hối nơi tự tâm và trước đại chúng nhằm phục hồi giới thể.
Việc này hoàn toàn phù hợp với chánh pháp bởi lẽ ngài A Nan không “Tham dâm, túng dục” mà do trúng phải mê dược và gian kế của mẹ cô Ma Đăng Già.
Hơn nữa, ngài A Nan đã đạt bậc bất thối chuyển thì sẽ “Cầm lên được và buông xuống được” nên đối với ngài A Nan mà nói thì đây không phải là kiếp nạn ghê gớm.
Với cô Ma Đăng Già thì lại khác, vừa nhìn thấy ngài A Nan cô đã đem lòng yêu say đắm. Hiển nhiên là ngài A Nan từ chối. Nàng Ma Đăng Già “ngày nhớ, đêm mong” dung mạo đẹp đẽ, khôi ngô của ngài A Nan. Việc yêu đơn phương khiến cô Ma Đăng Già lâm bệnh nặng, thân hình tàn tạ, đến chẳng còn thiết sống. Mẹ cô vì quá thương con nên đã dùng mê dược nhằm giữ ngài A Nan làm “của riêng” cho con.
Nếu Phật không kịp đến giải cứu thì hẳn là trinh tiết của cô Ma Đăng Già không còn.
Nhưng việc đó có giữ được ngài A Nan ở mãi bên cô Ma Đăng Già không?
Nếu ngài A Nan rời đi thì cô ta vạn phần đau khổ.
Còn khi ngài A Nan ở lại và sống trong cảnh “Đồng sàng dị mộng” liệu cô Ma Đăng Già có được mấy ngày vui?
Rõ thật là ngài A Nan không hề yêu cô Ma Đăng Già. Khi đi theo Phật ngài A Nan một lòng cầu giải thoát hoàn toàn, mong chứng quả vị thánh.
Việc hôn nhân của A Nan hiển nhiên là Phật không thể tùy tiện xen vào. Nếu như ngài A Nan cũng yêu thương cô Ma Đăng Già bằng tình yêu nam nữ và muốn cưới cô Ma Đăng Già làm vợ thì hẳn là Phật tác thành mối nhân duyên đó vì thực tế ngài A Nan đã vào bậc bất thối chuyển cho nên việc giải thoát hoàn toàn về cơ bản sẽ không gặp nhiều trở ngại. Đây là lý lẽ đúng thật, không hề trái với chánh pháp Phật Thích Ca.
Có một điều rõ thật là Phật Thích Ca chưa bao giờ khuyên vua cha Tịnh Phạn, vua Tần Bà Sa La, A Xà Thế, Thái tử Kỳ Đà, vị trưởng giả Cấp Cô Độc, ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, y sĩ Kỳ Bà (Jivaka),… “cắt ái, ly gia”.
Nếu việc “cắt ái, ly gia” là “cứu cánh” của đạo giải thoát thì Phật Thích Ca đã nhất mực khuyên vua cha Tịnh Phạn xuất gia, cầu pháp. Người học Phật đừng hiểu sai về chánh pháp của Phật Thích Ca.
Thêm nữa, chánh pháp của Phật Thích Ca khuyên người học Phật không nên tham Dục. Chữ Dục mà Phật đề cập đến không chỉ là tình dục - giới Dâm mà gồm rất nhiều thứ khác như tiền bạc, của báu, địa vị, danh lợi, sắc đẹp,… Vì là khi con người tham đắm dục họ sẽ không từ bất cứ thủ đoạn nào để chiếm hữu, giành giật, cướp về,… làm những việc gây ra hàng loạt đau khổ cho con người và chính cả bản thân.
Nếu con người sống với hành vi chân chính thì không có gì là trái với chánh pháp cả. Đối với giới Dâm có hai vấn đề người học Phật cần rõ biết. Trong đó, chánh dâm là hoàn toàn đúng với chánh pháp vì việc này đảm bảo sự tồn vong của nhân loại, là việc quan hệ tình dục giữa những đôi vợ chồng hợp pháp.
Còn tà dâm là việc làm sai với chánh pháp, nó thể hiện sự “túng dục, khát ái”, buông thả tà tâm, vụng trộm, việc làm không đúng chánh pháp này sẽ khiến con người thân hình suy hoại, héo khô, tâm trí loạn động, chẳng an,… và nơi hành dâm là những nơi được xem là “vũng lầy xã hội” hoặc là những nơi hoang vắng, tối tăm mà người đời thường gọi là “mèo mả, gà đồng”. Khi người tham dâm tạo thành thói quen thì đến lúc chết đi sẽ lai vãng, thọ sinh ở những nơi xấu tối. Cứ thế mà những người “tham dâm, khát ái” sẽ từng bước rơi vào những nẻo xấu trong 6 đường.
Mật tông:
Người học Phật theo pháp tu Mật tông thường xuyên hành trì bùa chú, độ vong,... Việc làm này thường chạm đến cõi vô hình, xen vào nhân quả nghiệp báo. Pháp tu Mật tông có nét giống như Pháp tu của đạo Bà la môn. Pháp tu Mật tông hiện nay chân sư khó gặp, phần lớn người tu pháp môn này dùng phương tiện độ người cõi dưới nhằm thọ nhận vật phẩm cúng dường, tạo ra sự an tâm tu học, dẫn đến việc giải đãi tu hành chờ ngày Phật Di Lặc hạ sinh. Nếu người tu học theo pháp môn Mật tông mà tâm không minh, trí không sáng dễ rơi vào ma đạo. Người tu Mật tông đòi hỏi phải giữ giới nghiêm cẩn. Nhất là dâm giới, khá nên “cắt ái, ly gia” vì việc luyện bùa chú khiến không ít chúng sinh nẻo không thân bên mình phò trợ, cũng như học pháp. Vạn nhất người tu học Mật tông cũng như người thân hành dâm sẽ dễ tạo ra những hình nhân không hoàn chỉnh về thể xác và tinh thần. Nguyên do là có không ít chúng sinh nẻo không thân theo bên mình người tu Mật tông dù chưa kịp xóa đi tâm thức tàn hoại ở tiền kiếp nhưng lại ham thân, vội vàng nhập thai khi có đủ duyên. Đó là điều mà người học Phật cần nên rõ biết.

Trước đây có vị đệ tử của Phật sau khi trì một thời kinh cho một gia đình giàu có. Sau thời kinh, vị đệ tử đó được cúng dường “3 đấu 3 thăng vàng”, vị đệ tử đó trong lòng mừng rỡ về trình với Phật. Phật đã bảo: Trì một thời kinh mà nhận 3 đấu 3 thăng vàng thì con cháu sau này lấy gì mà dùng.

Tôi lại xét câu chuyện này, 3 đấu 3 thăng vàng cho một thời kinh mà sao Phật lại nhận định là ít bởi vì pháp Phật là vô giá. Nếu dùng pháp Phật để mang về lợi dưỡng mà sinh lòng mừng rỡ là đồng nghĩa với vị đệ tử này không cầu pháp xuất thế gian. Hiển nhiên là việc học Phật theo phương cách đó thì khó thoát ra khỏi 3 cõi luân hồi. Con cháu mà Phật dùng nói với người học Phật là ám thị chính người học Phật ở những kiếp về sau chứ không đơn thuần là con cháu của người học Phật vì lẽ con người nếu sống tốt và không có biến cố lớn lao xảy đến trong cuộc sống thì về cơ bản con người sẽ luân chuyển ở kiếp người tại những nơi quen thuộc. Cụ thể là sự luân chuyển chỉ diễn ra trong gia đình, dòng tộc hoặc vùng miền, quốc gia cư trú,... Thế nên vị đệ tử đó sẽ lại là con cháu của chính mình và nhận lấy phần phước báo đã tạo ra. Nhưng quy luật của gia đình, dòng tộc là “Con nước ròng, con nước lớn”, dù cho tiền của có chất cao thành núi thì cũng sẽ có ngày đói nghèo. Bạn hãy cố tìm xem có gia đình, dòng tộc nào giàu có, hưng thịnh mãi không? Đến như trữ lượng khoáng sản dầu mỏ, than đá, các mỏ kim loại,… trong lòng trái đất vô cùng dồi dào, phong phú mà theo năm tháng cứ vơi dần, cạn kiệt dưới sức tiêu thụ của con người. Vậy tài sản của gia đình, dòng tộc lấy gì đảm bảo cho tính bền vững, còn mãi?
Quay lại vấn đề “Khi nào Phật Di Lặc ra đời?”. Ngay trong Hiện kiếp của trái đất sẽ chẳng có Phật Di Lặc ra đời, chỉ có hóa thân Phật Di Lặc khắp mọi nơi. Nhưng hóa thân Phật Di Lặc nếu có thì cũng chỉ do nhân loại nhìn nhận chứ không ở nơi người học Phật vọng ngữ tự nhận mà thành tựu hóa thân Phật. Phật Di Lặc chỉ thật sự ra đời khi trái đất bị nổ tung. Đến mãi hàng ngàn tỷ năm sau, một sự sống mới lại thành hình trên khối vật chất của trái đất được tái cấu trúc. Sự sống tiến hóa dần từ thấp lên cao và đến một lúc nào đó theo tâm ý của chúng sinh nơi trái đất mới mà Phật Di Lặc sẽ hạ sinh. Bạn hãy tự chọn lựa nên giải thoát trong hiện đời hay chờ Phật Di Lặc thọ ký đạo quả.
Hiện nay, người học Phật về cơ bản được chia làm hai dòng tu chính:
Dòng tu tiểu thừa còn gọi Nam Tông, cội nguồn dòng tu là do những vị đệ tử Phật xuôi về phía nam sông Hằng lập nên. Điểm đặc trưng  của dòng tu này là người học Phật hành trì dựa theo lối tu của đạo Phật nguyên thủy sơ khai, lối tu này thường mỗi ngày chỉ ăn 1 bữa, được phép ăn mặn. Bởi do những vị đệ tử này sau khi học hỏi pháp Phật đạt bậc bất thối chuyển thì rời Phật xuôi về phương Nam hành đạo, truyền pháp nên về sau không tiếp nhận được thêm giáo lý đại thừa nơi Phật Thích Ca. Nguyên ủy của việc ăn mặn như tôi đã nói từ trước là do việc đi khất thực nên người tại gia cúng dường món gì đành phải thọ thực món đó, khó thể chọn lựa. Song ngày nay, dòng tu này cũng đã hành pháp ở trong các chùa, tự viện.
Khi đã tự túc được việc nấu ăn nên chăng người học Phật chuyển sang dùng thức an chay tịnh?
Việc làm đó nhằm giúp cho thân tâm người học Phật an lạc, nuôi dưỡng lòng từ bi, đức hiếu sinh theo mong mỏi của Phật Thích Ca.
Hơn nữa, việc thường xuyên dùng thức ăn mặn, “món ngon, vật lạ” dễ khiến người học Phật sơ cơ rơi vào lợi dưỡng, lui sụt chí bồ đề.
Lời góp ý vụng về, nếu không hợp lẽ mong người tu Nam Tông độ lượng, bao dung, “Người xuất gia nên mở không nên trói”, việc làm tùy tâm, từ bi hỷ xả.
Dòng tu đại thừa còn gọi Bắc Tông, nguồn gốc dòng tu phát khởi ở những vị đệ tử Phật phát triển, truyền pháp hướng lên phía bắc sông Hằng. Những vị đệ tử này sau khi đạt bậc bất thối chuyển vẫn theo Phật hoằng pháp nên được tiếp nhận thêm phần giáo lý, kinh điển đại thừa. Người tu học theo dòng tu đại thừa việc hành trì dựa vào giáo lý, kinh Phật sau khi chánh pháp được lưu bố rộng ở Ấn Độ. Lúc bấy giờ, người dân các nước quanh lưu vực sông Hằng đã biết đến giáo đoàn khất sĩ, những vị cư sĩ tại gia dựng lên những giảng đường cho khất sĩ có nơi tá túc, trú ngụ. Trong thời gian này, giới luật của đạo Phật đã được thiết lập chặt chẽ gồm khoảng 250 giới đối với sư và 350 giới đối với ni sư. Người học Phật theo lối tu đại thừa về sau thường luôn dùng thức ăn chay tịnh.
Trước khi Phật nhập diệt, Người có phó chúc lại “Giới luật tùy thời có thể bỏ bớt hoặc thêm vào”.
Đây là cái thấy cùng tột của Như Lai. Bởi lẽ khi con người có sự hiểu biết nhất định tìm đến học Phật thì họ sẽ cầu Vô thượng bồ đề mà đến.
Khi đó, họ tự biết hành trì, chuẩn mực đúng với chánh pháp, việc làm hẳn là không phạm vào giới cấm, sẽ có những giới luật bị vô hiệu (Do không có người phạm giới) và những giới vô hiệu thời không cần giữ lại. Đó là cái nhìn thông suốt sáng rõ của người đạt pháp xuất thế gian, chứng trí Như Lai.
Đến nay, giới luật vẫn được giữ nguyên phải chăng người học Phật đã không thật sự sống được trong chánh pháp, vẫn còn sai phạm giới luật?
Có không ít vị Tăng bảo cao niên đã không giữ đúng giới vì cho rằng giới luật chỉ áp dụng cho người sơ cơ học Phật. Việc này khiến cho người học Phật sơ cơ chẳng nhận rõ chân ngụy nơi chánh pháp và “Thượng bất minh, hạ tất loạn”. Những điều tiếng này khiến người tại gia có hiểu biết chẳng thể tin nhận giáo lý nhà Phật.
Tội phá hoại Tam bảo liệu những vị Tăng bảo lầm lạc, nông nổi có thể kham lãnh chăng?
Vì những chỗ không minh bạch đó mà giới cư sĩ tại gia phân người xuất gia ra làm 2 hạng:
- Hạng thứ nhất là người tâm xuất gia, thân xuất gia. Người học Phật thân tâm xuất gia hành trì chuẩn mực theo chánh pháp, giữ gìn phạm hạnh thân, khẩu, ý. Thật đáng tham bái, kính cẩn cúng dường.
- Hạng thứ hai là người thân xuất gia mà tâm tại gia. Người học Phật thân xuất gia mà tâm tại gia thể hiện “Lý sự chẳng đồng, tâm hành sai biệt”, dối truyền nối pháp Phật, phụng sự Tam bảo chỉ mong gồm thâu tài vật, lợi dưỡng, lợi danh,… Thật luống uổng việc tham học giáo lý, kinh điển, mê mờ lý sự, chỉ mong “Chùa to, Phật lớn”, thừa sự cúng dường,… Người học Phật này lầm lạc đường tu bởi do học pháp xuất thế gian mà lầm tưởng pháp thế gian nên bị lưới vô minh che lấp thần trí.
Đối với pháp thế gian, người sống nơi vựa lúa thường chẳng bao giờ sợ thiếu gạo nhưng điều này không đồng nghĩa với việc họ sẽ không rơi vào nạn đói. Người học Phật này cũng lại như vậy ở nơi Tam tạng kinh điển và lại thừa hành phụng sự việc Tam bảo, tạo nhiều phước đức nên cả nghĩ sớm muộn gì cũng được Phật Di Lặc thọ ký đạo quả nên khó thể tiến tu, Phật A Di Đà chẳng thể tiếp dẫn, lại luân hồi trong 3 cõi.
Vạn nhất trái đất nổ tung việc tìm lại “Gương mặt mình lúc cha mẹ chưa sinh ra” phải chăng khó càng thêm khó?
Người học Phật nên chăng sớm mau quay đầu, tìm về bờ giác ngộ.
Khác với cách phân định đại thừa - tiểu thừa như trên, ở những phần trình bày sau tôi sẽ giả lập phân định lại:
- Người tu tiểu thừa là người học Phật theo Thanh văn thừa, chỉ cầu 1 trong 4 quả vị thánh, mọi việc làm Phật sự chỉ mong giải thoát hoàn toàn nơi bản thân ra khỏi 3 cõi và cả những người học Phật giải đãi tu hành, chỉ mong lợi dưỡng,…
- Người tu đại thừa là người học Phật phát tâm bồ tát dũng mãnh, học Phật cầu cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, thường hay tùy nghi dùng pháp, giúp người thoát khổ, chỉ bày chánh pháp chân thật. Tâm bồ tát của người học Phật hiển lộ nơi người sống chứ không phải ở nơi người chết và cõi giới vô hình vì những nơi đó không người nhận biết.
Cả pháp tu đại thừa và tiểu thừa đều là chánh pháp chân truyền của Phật Thích Ca nhưng sao lại có sự sai khác?
Sau khi Phật thành đạo nhận biết chúng sinh trong 6 đường mong cầu dứt khổ, giải thoát hoàn toàn nên Phật đã dấn thân vào con đường truyền đạo.
Lúc bấy giờ, con người chưa biết đến giáo lý, kinh điển chánh pháp nên việc làm có phần tùy tiện, buông lung tánh ý, sống với tâm phân biệt, dính mắc “tham sân si mạn nghi” vì thế cái thấy nghe hay biết bị lưới vô minh che lấp, mê mờ tâm tánh, sự hiểu biết vì thế cũng không còn sáng rõ, khách quan. Phật đã phương tiện giải giảng về luân hồi, nghiệp quả, sự giải thoát hoàn toàn,… Con người qua lời Phật thuyết mơ hồ tin nhận nhưng vẫn không thể rõ biết vì thế Phật lại dùng phương tiện chỉ bày cho người học Phật việc giữ gìn thân, khẩu, ý nhằm thu thúc thân tâm. Việc dừng lặng đó giúp người học Phật chuyển cái hiểu của chánh pháp thành việc hành trì, sống đúng theo chánh pháp. Việc thiền định và quán chiếu giúp người học Phật nhận rõ tự tâm, tường tận chân tánh, thoát ra khỏi tham sân si mạn nghi, dứt trừ khổ đau, đạt được sự tự tại, đắc quả vị thánh.
Rồi khi người học Phật đã sáng rõ chánh pháp, đạt sự tự tại giải thoát thì Phật khuyến khích họ phát tâm đại thừa, lập hạnh bồ tát, cứu độ chúng sinh 3 cõi, làm việc lợi ích cho xã hội chứ không nên giữ riêng sự an lạc cá nhân. Bởi do nếu chỉ biết đến sự giải thoát tự thân thì người học Phật sẽ nuôi lớn bản ngã, chấp giữ đại ngã người học Phật thật sự chưa thể giải thoát hoàn toàn vì còn tâm phân biệt vi tế, nhỏ nhẹm.
Xét lại việc “Trước, Phật phương tiện chỉ bày pháp tiểu thừa. Sau, đúng thời Phật chỉ bày pháp đại thừa”, ta sẽ thấy Phật vì giúp con người nhận rõ tự tâm, vạn pháp đã khuyên người tu học buông bỏ tham sân si qua việc quán chiếu mà nhận biết “vô thường, khổ, không, vô ngã” cùng với việc nhốt thân tâm vào pháp. Đến khi người học Phật không còn tham sân si,… thì Phật hướng họ đến việc mở lòng ra hòa vào cuộc sống, nhằm buông bỏ pháp tiểu thừa, hành trì pháp tu đại thừa, sống tự tại, không dính mắc mọi thứ ở cuộc sống, giúp người sống tốt cũng là giúp mình phá bỏ hoàn toàn bản ngã, đạt sự giải thoát hoàn toàn thật sự.
Vì người học Phật hành pháp đại thừa nơi pháp thế gian mà buông bỏ được bản ngã và tất cả các pháp nên theo cách nói của “Pháp môn không hai” là hành mà không hành, đắc mà không để đắc, không có người để đắc.
Thế nên, việc làm đó là tương ưng, khế hợp với lời Phật đã thuyết “Chánh pháp còn bỏ huống hồ là phi pháp”.
Qua đó, người học Phật sẽ rõ biết “Cứu cánh của đạo Phật không chỉ là sự giải thoát hoàn toàn cho tự thân mà là việc giúp người thoát khổ, chỉ bày và cùng người hành trì đạt sự giải thoát hoàn toàn”.
Tất cả những vấn đề được trình bày ở trên cho thấy tri thức người học Phật và nhân loại đang bị trói trong tấm lưới vô minh, nhị nguyên dày đặc.
Việc các tôn giáo trên thế giới chia rẽ dẫn đến sự phân biệt, giết hại lẫn nhau qua rất nhiều cuộc thánh chiến, tòa án xử dị giáo,… hẳn những việc làm đó không là chủ trương của nhà tiên tri Mohamet, Chúa Jesu,… những vị đó thật sự vốn là những người yêu dân tộc, yêu đất nước. Họ ra đời vì niềm mong mỏi của con người về một cuộc sống ấm no, bình yên, hạnh phúc của đất nước, dân tộc và bây giờ là cho cả nhân loại.
  1. Lưới vô minh.
Tấm màng vô minh là gì?
Đó là những ngôn từ lập luận ở nơi nhị nguyên đối đãi được dựa trên sự hiểu biết, tư duy, nhận thức của nhân loại như giàu nghèo, cao thấp, sang hèn, thiện ác, đúng sai, được mất, xuân hạ thu đông, mặt trời - mặt trăng - trái đất, người da trắng - người da đen, loài người - loài vật, giữ giới - phạm giới, chay mặn, con gái - con trai, mưa gió sấm chớp,…
Nếu trình bày những ngôn từ dệt nên tấm màng vô minh chỉ e rằng tôi viết đến mãn muôn kiếp cũng không thể trình bày cho cùng tận.
Tấm màng vô minh có từ đâu?
Có nơi tâm ý phân biệt hoàn toàn chủ quan ở góc nhìn hạn hẹp, không sáng rõ nơi con người, bắt đầu từ sự nhìn nhận sai lạc, không đúng thật, không dựa vào tổng thể, khách quan. Những nhận xét, định kiến,… lưu xuất nơi tâm phân biệt mà việc làm, nhận thức, tư duy của con người bị dính mắc, trói buộc, đánh mất tính khách quan, chuẩn xác,… Cụ thể,

Con hổ bắt giết ăn thịt con hươu, con người không thể nói con hổ ác. Con bò ăn cỏ, con người không thể nói con bò ăn chay, sống lương thiện. Nhưng khi con người giết bò ăn thịt thì sẽ có rất nhiều ý kiến khác nhau: Người giết bò tàn ác, người giết bò không tàn ác, người ăn thịt bò tàn ác, con người không ác vì con người cần phải ăn mới sống, thịt bò ngon,… Khi nhìn thấy 1 người cả đời dùng thức ăn chay tịnh thì sẽ lại có vô số nhận định sai khác: Đó là một người tu hành, người hiền lành, kẻ “khẩu Phật tâm xà”, người đó làm chuyện xấu ác giờ quay về nương tựa Tam bảo nhằm giảm bớt nghiệp chướng, tội lỗi,…

Ngày 21 tháng 12 năm 2012 được đồn thổi là Ngày tận thế của nhân loại và với tâm ý phân biệt dính mắc lệch lạc con người thể hiện mọi sắc thái tình cảm bi hài, hoang mang, hoảng loạn, bần tiện, xấu xa, ích kỷ, dửng dưng, cười khảy, bình thản, cảm thông, chia sẻ, thành thật, chu đáo, khuyên bảo, dọa nạt, nguyện cầu, ham tu, niệm Phật, buông thả, gian dối,…
Máy bay rơi, núi lửa, động đất, giết người, ôm bom tự sát, vũ khí hạt nhân, chiến loạn, hệ thống phòng thủ tên lửa, mua vũ khí, xung đột hai miền Triều Tiên, tranh chấp biển Đông leo thang thành xung đột giữa các cường quốc quân sự, tham vọng bá chủ,… và đây những sắc thái biểu cảm nơi con người - Hoang mang, hoảng loạn, bần tiện, xấu xa, ích kỷ, dửng dưng, cười khảy, bình thản, cảm thông, chia sẻ, thành thật, chu đáo, khuyên bảo, dọa nạt, nguyện cầu, ham tu, niệm Phật, buông thả, gian dối,…
Trái đất nóng lên, băng tan, “ngón tay thối”, ngón tay không thối, người đẹp lộ hàng, ảnh nóng, tệ nạn xã hội, HIV, cúm gia cầm, thịt heo có chất tạo nạc, các sản phẩm nông sản giá cả bấp bênh, lãi suất ngân hàng tăng giảm, giá vàng, heo vịt rớt giá người nông dân điêu đứng, ngành mía đường thua lỗ, giá xăng tăng thì “vùn vụt”, giảm thì “nhỏ giọt”,… và đây những sắc thái biểu cảm nơi con người - Hoang mang, hoảng loạn, bần tiện, xấu xa, ích kỷ, dửng dưng, cười khảy, bình thản, cảm thông, chia sẻ, thành thật, chu đáo, khuyên bảo, dọa nạt, nguyện cầu, ham tu, niệm Phật, buông thả, gian dối,…
Dường như sự biểu cảm của con người cho mọi vấn đề xét trên diện rộng là không có sự sai khác nhưng khi xét cho riêng từng người cho từng vấn đề thì có sự khác nhau.
Tuy nhiên, khi xét riêng từng người cho mọi vấn đề thì sự biểu cảm lại có sự chung nhất gồm vui buồn, hờn giận, khinh ghét, yêu thương, đố kỵ, ích kỷ, dửng dưng, lo âu, đau khổ,…
Phải chăng một con người chứa đựng cả nhân loại hay cả nhân loại cùng tột cũng chỉ là một con người?
Cả 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai phải chăng sự biểu cảm của mỗi con người và cả nhân loại đều có sự đồng nhất như thế?
Vậy tại sao con người cứ mãi dính mắc phân biệt để rồi tàn hại lẫn nhau, chiến tranh, hận thù và đau khổ?
Người phương bắc, người phương nam, người phương tây, người phương Đông, người da trắng, người da màu,… cũng từng ấy những cảm xúc.
Sao họ lại không thể hòa hợp, thương yêu nhau như yêu thương chính bản thân mình?
Đó là vì sự không hiểu biết, vì sự phân biệt dính mắc, vì cái tôi mà mỗi người tự tách ra khỏi khối đồng nhất nhân loại. Nhân loại thật sự là một khối đồng nhất về trạng thái biểu cảm, vật chất tạo thành, mọi tâm ý và cả bản tâm tĩnh tại,…
Không chỉ vậy! Con người bức hại, chèn ép, giết hại lẫn nhau còn do nơi tham đắm, si mê, sân hận, hoài nghi, kiêu mạn. Với niềm tự hào ảo tưởng con người gây đau khổ cho nhau bởi do nơi lòng tự hào đã có tâm phân biệt, đối đãi, nghi kỵ.

Tôi là người còn bọn giống người kia là bọn mọi rợ xấu xa. Tôi phải bảo vệ chủng tộc, giống nòi,...

Ngay nơi bảo vệ đã có sự tranh đấu. Ngay nơi tranh đấu đã có sự sống còn, giết chóc, thảm sát,… Quân đội được thành lập. Vũ khí được nhân loại sản xuất với mức độ hủy diệt và tính sát thương ngày càng tàn khốc. Chỉ cần dừng lặng, quán chiếu thì bạn sẽ nhận thấy nơi kho vũ khí là vô số cuộc chiến tranh xuyên suốt lịch sử loài người, có rất nhiều máu, nước mắt, xác thân người, đau khổ và tiếng kêu gào bi thảm,...
Bởi lẽ dù thừa nhận hay không thừa nhận thì rõ thật là vũ khí được tạo ra là nhằm vào mục đích giết người, hại mạng đồng loại.
Khi quán chiếu bạn sẽ rõ biết “Không cần phải xảy ra cuộc chiến tranh thì bạn vẫn nhìn thấy đầy dẫy những xác thân người nằm trong các khối vật chất, nhà cửa tan hoang, hỗn độn do bom đạn cày nát”. Bởi vũ khí hủy diệt còn đó thì nhân loại sớm muộn gì cũng lại thêm vài lần được tắm máu hận thù.
Đáng tiếc thay! Do sống nơi nhị nguyên con người đang tạo ra những kho vũ khí hạt nhân hủy diệt ngày càng được nâng cấp tối tân, hiện đại và nhằm mục đích nuôi giữ chiến tranh của giấc mộng bá chủ hoàn cầu.
Mai này có thể tôi chết hoặc là bạn sẽ chết vì một kho vũ khí hạt nhân phát nổ.
Khi đó, lòng bạn có đau xót cho những người bị cướp mất sự sống do bởi những tham vọng tàn bạo, si mê, đê hèn?
Nếu tôi còn sống thì lòng tôi sẽ đau lắm. Có lẽ tôi sẽ khóc nhiều hơn cả vì tôi đã không thể gỡ bỏ những ngòi nổ của chiến tranh và cùng nhân loại xóa sổ những kho vũ khí hủy diệt chứa đựng đầy xác thân, máu thịt con người.
Nhân loại đang định hướng phát triển dựa trên hàng loạt những sai lầm. Tất cả mọi sai lầm của nhân loại ngày nay đều phát khởi từ tâm ý phân biệt, dính mắc mà con người đã dệt ra tấm màng vô minh nhị nguyên, đối đãi dày đặc nhiều tầng. Và … rồi con người ngụp lặn trong đó với đau khổ, hận thù, trả vay - vay trả. Máu, nước mắt, được mất, hơn thua,…
Đối mặt với Ngày tận thế, thiên thạch va vào trái đất,… cùng với những biểu cảm trên, thái độ nom nớp lo sợ, việc tìm cách bắn phá thiên thạch bằng việc tính toán đo lường quỹ đạo bay của thiên thể nhằm giữ lấy sự sống trên hành tinh xanh. Xem ra nhân loại đang lo “mặt ngoài” hơn “mặt trong”.
Do chọn sai góc nhìn mà con người không nhận biết vấn đề “mặt trong” mới có tính chất quyết định sự tồn vong của nhân loại.
Một ngày nào đó sự manh động hiếu chiến của những nhà độc tài quân sự vượt giới hạn, cũng như lực lượng nổi dậy sở hữu bom hạt nhân và chiến loạn xảy ra 1, 2, 3, 4, 5,…
Cần khoảng bao trái bom nổ thì trái đất trở thành bụi vũ trụ?
Có lẽ các nhà khoa học về hạt nhân sẽ cho nhân loại một câu trả lời có phần chuẩn mực không thật đúng vì lẽ thật sự họ không hoàn toàn tính toán được hết sức hủy diệt, tầm ảnh cộng gộp của những trái bom hạt nhân khi phát nổ đồng thời, trong điều kiện thực tế và cũng như các ảnh hưởng ngoại vi khác.
Kho vũ khí hạt nhân có thể bất ngờ phát nổ không?
Trái đất sẽ ra sao khi băng Nam cực tan rã hoàn toàn do sự nóng lên nơi nội tại trái đất?...
Với tôi, mặt trời chỉ là tác nhân phụ trợ. Không chỉ vậy, tôi lại đưa ra nhận định đối nghịch với tri thức nhân loại là mặt trời đang nóng lên phần nhiều do chịu tác động từ hành tinh xanh.
Và còn điều gì bất ổn nơi trái đất có thể khiến sự sống bị hủy diệt?
Sự bấn loạn ở nơi lòng nhân loại, lòng tham của con người khi vét hết khoáng sản trong lòng đất và đốt cháy tất cả. Sự rỗng không trong lòng đất sẽ khiến trái đất phải chuyển mình vì những khối vật chất cực nặng được chất cao ở bên trên,...
Sự chuyển mình của trái đất có chỉ mãi dừng lại ở sóng thần, động đất, núi lửa, giông bão và lốc tố?
Khi tất cả mọi thứ đều vượt giới hạn cho phép trái đất cần tái cấu trúc một cách tự phát, khách quan và không kém phần nghiệt ngã, khốc liệt cho mọi loài.
Khi rừng bị tàn phá chỉ cần một con voi điên loạn cũng đủ san phẳng cả một khu rừng nhỏ, một buôn làng và con người đã chết.
Vì sao con voi trở nên điên loạn?
Do rừng không còn và con người đã làm điều đó.
Khi nào trái đất điên loạn và ai có thể làm được điều đó?
Con người không thật rõ biết nhưng chỉ có con người mới có thể làm được điều đó. Một thí nghiệm nhỏ nơi nhị nguyên luận.

Bạn hãy lấy 2 quả bóng bay và bơm vào đó một lượng không khí vừa đủ. Cột miệng quả bong bóng lại, bạn hãy thoa đều khắp bề mặt 2 quả bóng một lớp mỏng keo dẻo. Hãy để cho lớp keo khô, sau đó bạn hãy lấy 1 quả bóng rồi ném vào bất cứ vật rắn nào mà bạn nhìn thấy. Dù bạn có cố sức ném thì quả bóng cũng sẽ không nổ cho đến khi quả bóng chạm phải một vật bén nhọn với một lực đủ mạnh. Nhưng quả bóng không nổ nó chỉ bị xì hơi thôi. Lấy quả bóng còn lại bạn hãy mở ra rồi tiếp tục bơm không khí vào và “bùm”. Quả bóng đã vỡ ra làm nhiều mảnh.

Bạn hãy tự làm kết luận và đánh giá cho thí nghiệm trên.
Một thời gian lâu xa về trước, trái đất đã từng tự chuyển mình để sắp xếp lại trật tự vật chất. Nguyên nhân dẫn đến sự chuyển mình đó thật không rõ ràng bởi do sự hạn chế  về tri thức khoa học và tôi cũng không chuẩn bị cho một cuộc đi ngược thời gian không cần thiết để rõ biết nguyên nhân sâu xa của việc tái cơ cấu trái đất.
Tại thời điểm đó, vô số loài khủng long đã bị tuyệt diệt, chúng chết đi và vật chất của chúng được sắp xếp lại tạo thành những loài mới phù hợp với điều kiện tự nhiên mới ở trái đất.
Ngày tận thế đã đến với loài khủng long mà chúng không hề lo sợ, không hề nhận biết, chúng bình thản bắt mồi, kiếm ăn và hoảng loạn khi chết.
Chúng đã hoảng loạn nhưng ít ra chúng không quá lo lắng, sống khắc khoải, mọi sinh hoạt an ổn, bình thường đến ngày cuối đời.
Cũng chính vì sự hoảng loạn của loài khủng long mà sự sống sinh trưởng trở lại. Nhưng sự sống không thể tạo ra được ngay những khối thịt khổng lồ. Từng chút một, vật chất được gom góp, gắn kết lại. Theo thời gian, những khối thịt lớn dần nhưng để sắp xếp lại hình hài xưa cũ thật quá khó bởi do ký ức của sự sống đã không thật tốt.
Sau một thời gian rất dài, sự sống đã không còn nhớ rõ hình dạng loài khủng long, chỉ còn những bóng hình mờ ảo, nhòa nhạt,… Sự sống vẫn cố tạo ra hình dạng ban đầu với những đặc trưng về xương hàm, đuôi và cả phương thức bắt mồi, kiếm ăn,... Chỉ thế thôi, sự sống chẳng thể tìm lại nguyên vẹn hình dạng cũ vì trí nhớ kém và điều kiện sống cũng đã khác xưa.
Sau cùng, sự sống nhận ra “Tại sao phải cố tạo hình dáng cũ mà đời sống khó khăn, khó thích nghi?”.
Sự sống quyết định quên hết cả những ký ức xưa để sống tùy thuận, thích nghi với điều kiện môi trường, khí hậu, thổ nhưỡng mới, chúng ngày một phát triển phong phú, đa dạng cả chủng loài và hình dáng.
Tính phân biệt, dính mắc, thích nghi,… của sự sống tạo ra một chủng loài thông minh và phức tạp bậc nhất. Chủng loài mới này ra đời ngày càng có sự hiểu biết vượt trội và tự tách rời khỏi những chủng loài khác. Tính phân biệt cao, việc học hỏi nhiều với khối lượng kiến thức không ngừng cập nhật, tăng thêm khiến chủng loài này quên một số dữ liệu không dùng đến.
Đáng kể nhất là việc quên bỏ cả cội nguồn là sự sống. Cũng do tính phân biệt mà chủng loài này nảy ra ý tưởng làm chủ sự sống, can thiệp, tác động vào mọi vấn đề liên quan đến sự sống.
Bởi do quên bỏ cội nguồn và tính phân biệt, dính mắc nên chủng loài này đã nhìn nhận, đánh giá mọi vấn đề ở góc nhìn hạn hẹp, chủ quan,…
Vì thế chủng loài này không biết được “điểm dừng” và đang từng bước hủy diệt sự sống. Chủng loài đó chính là con người ngày nay.
Nếu ngày mai trái đất lại tự chuyển mình thì hiển nhiên sự sống lại làm chủ mọi việc. Trong đó, có cả việc sắp xếp lại hình hài con người mà trong trí nhớ sự sống chỉ còn những ký ức mong manh.
Ở sự tuyệt diệt loài khủng long, với góc độ nhị nguyên sẽ có nhận định “Khủng long là một loài ngu ngốc, ngày chết gần kề mà không nhận biết, đến nỗi chết mà không kịp trối trăn”.
Nhưng nếu đặt con người vào hoàn cảnh đó thì sao?
Nom nớp, lo lắng, hoảng sợ, gào khóc, nguyện cầu,… và vô số những cung bậc cảm xúc sai khác nữa. Rồi thì con người cũng phải chết, chết mà không thể bình thản ăn một món ăn ngon, uống một ly nước mát.
Phải chăng sự khôn ngoan khiến con người chịu nhiều thiệt thòi hơn những chủng loài khác?
Sự khôn ngoan khiến con người đang cố hủy hoại sự sống và chính con người. Vì con người là một phần của sự sống. Cội nguồn của con người là sự sống. Chối bỏ cội nguồn, tàn phá thiên nhiên, sự sống là con người đang tận diệt chính mình. Con người có thể mất đi nhưng sự sống sẽ mãi còn.
Tôi vẫn đang dùng nhị nguyên để luận nhị nguyên nhưng nếu chỉ thế thì luận đến cùng tận cũng chỉ dừng lại ở nơi nhị nguyên. Có lẽ tôi lại phải mất muôn kiếp để làm điều đó.
Tuy nhiên, cái nhị nguyên tôi đang dùng có sự khác biệt với nhị nguyên mà nhân loại đang bị trói vào vì nơi nhị nguyên tôi không có sự dính mắc. Tôi đang dùng nhị nguyên để gỡ bỏ nhị nguyên. Dùng nhị nguyên để phá tan màng lưới vô minh dính mắc nhiều tầng. Bởi lẽ ở cùng tận của nhị nguyên chính là pháp môn không hai của Như Lai. Nơi đó không còn tâm phân biệt, dính mắc, dứt sự đối đãi.
Phật Thích Ca cũng từng bị trói trong tấm màng vô minh đối đãi với những phiền muộn, lo toan, sinh lão bệnh tử, giàu nghèo, tham lam, sân hận,... của loài người. Người muốn thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn cột trói con người hết đời này sang đời khác. Người đã tìm đến các tôn giáo nhằm tìm ra lối thoát nhưng những tôn giáo mà Phật học hỏi không chỉ dẫn cho con người một lối thoát rõ ràng.
Phật lại nghĩ “Việc bị trói chân nơi triều đình và vướng bận gia đình khiến Phật không thể tham bái, học hỏi những vị danh sư tiếng tăm. Có lẽ ta phải nên rời gia đình một thời gian nhằm tìm chân sư học pháp giải thoát cho bản thân rồi sau đó trở về chỉ bày lối thoát cho vua cha Tịnh Phạn, cho hoàng hậu Kiều Đàm Di, cho nàng Da Du Đà La và mọi người”.
Nghĩ vậy, Phật lìa bỏ gia đình tìm đến những vị đạo sư danh tiếng. Sau một thời gian học tập, hành trì Phật nhận ra con đường mà các vị danh sư, ở các tôn giáo hiện thời bị nghẽn lối, không có một lối giải thoát thật sự. Chỉ khi con người nhập định thì đạt sự tự tại còn khi rời định thì những nỗi nhớ, sự buồn vui, lòng mong mỏi,… vẫn cuốn lấy tư tưởng con người.
Phật rõ biết “Đó là giới hạn về tri thức cũng như là giá trị thực chất của những tôn giáo truyền thống”. Tuy nhiên, việc thiền định cũng giúp Người tiếp xúc với cõi giới vô hình nhưng do giới hạn trong giáo lý của các tôn giáo mà Phật không thể nhận biết rõ về thế giới tâm linh. Dừng lặng ít lâu, Người quyết chí tiếp tục lên đường nhằm tìm ra chân tướng của vạn pháp, nguồn gốc sự sống, bản chất thật của luân hồi giữa các cõi giới. Lần ra đi này, có một sự kiện đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong hành trình tìm đạo của Phật. Đó là Phật chỉ đi một mình tìm đạo, không thầy, không bạn.
Sau cùng, Phật tìm được con đường giác ngộ, giải thoát hoàn toàn do tự chứng nghiệm lấy mà không có sự hướng dẫn của bất kỳ một vị thầy danh tiếng nào. Sở dĩ Phật thành đạo là vì sau thời gian dài thiền định, quán chiếu mà không còn trói buộc vào bất cứ một học thuyết, kiến chấp, tư tưởng chủ quan nào,… mà Phật sáng rõ nơi chánh pháp.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận việc chính những tư tưởng, tri thức, kiến thức,… Phật được học hỏi, góp nhặt,… từ trước giúp Phật đạt được sự giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.
Công cuộc phá bỏ tấm màng lưới vô minh của Phật Thích Ca diễn ra và hoàn tất như thế nào?
Sau khi học hỏi sự hiểu biết có trong cuộc sống, giáo lý các tôn giáo Phật đã dừng lặng lại tiến vào thiền định. Đạt định rồi Phật bình thản quán chiếu lại nơi mọi sự vật, hiện tượng bằng một tấm lòng khách quan, rộng mở,…
Việc quán chiếu ban đầu Phật chỉ dừng ở các sự vật, hiện tượng, cảm giác, tri giác,… nơi pháp thế gian. Càng quán chiếu, càng bí lối. Mọi việc đều rơi vào nhị nguyên đối đãi, không có sự cùng tận. Vui rồi buồn, buồn rồi lại vui. Giàu rồi nghèo, nghèo rồi lại giàu. Tàn ác, hại người rồi sớm muộn gì cũng thiệt thân. Tham lam, giành giật có đó rồi mất đó. Chỉ thấy khổ đau, phiền muộn vây kín kiếp người. Cũng có những phút thăng hoa, vui mừng nhưng dường như chúng quá ngắn ngủi cho cả đời người.
Lại có một khoảng lặng thường hằng, luôn tồn tại trong mỗi con người mà dường như con người quên lãng.
Với phát kiến mới này Phật đã nhận biết nhưng nói để ai nghe, họ nghe mà làm gì?
Con người mỗi mỗi đều trói trong “cơm áo gạo tiền”, danh lợi, địa vị, tham đắm, hưởng thụ,… Xã hội phân tầng giàu nghèo, sang hèn.
Phật tiếp tục quán chiếu.
Tại sao một đứa bé trai ở tầng lớp Bà la môn vì mong có bạn mà chạy đến nắm tay một bé gái hạ tiện ở tầng lớp Chiên đà la thì bé gái đó lại bị giết, chặt tay, phạt tiền hoặc là cha mẹ cô bé buộc phải làm nô lệ trọn đời?
Tầng lớp Thủ đà la không thể ngẩng cao đầu trước thành phần Tăng lữ, Sát đế lợi,… là con người cả tại sao lại bị khinh rẻ, xem thường, không bình đẳng?
Những hình hài của các tầng lớp xã hội có gì khác biệt, cũng khuôn mặt, đôi mắt, hai tay, hai chân, thân mình, đầu cổ,… cũng xương thịt, máu, tủy, tim, gan,…
Quán sát tận cùng nơi nhị nguyên xác thân người thì chỉ là chút nước, chút gió, chút đất, chút lửa và hư không. Nơi cùng tận của từng đại - Đất nước gió lửa hư không - cũng lại là đất nước gió lửa hư không. Chúng không thể đơn lẻ mà tồn tại, cả mọi sự vật, hiện tượng có trong trời đất cũng đều như thế.

Phật nhận ra “Cái một có trong cái tất cả và cái tất cả có đầy đủ nơi cái một”. Phật đã từng thuyết một lời ám thị điều này “Như Lai đã lấy Tam thiên đại thiên thế giới nhét vào nơi hạt cải mà chúng sinh ở Tam thiên đại thiên thế giới không hề rõ biết chỉ có những chúng sinh được độ là nhận biết sáng rõ”.
Đáng tiếc là người học Phật ngày nay với tầm nhìn hạn hẹp, sự hiểu biết không sáng rõ đã không rõ biết chánh pháp của Phật mà lại vọng tưởng ngộ nhận “Thần thông của Phật là không thể nghĩ bàn”.
Ngay nơi nhị nguyên tôi rõ biết “Thần thông của Phật là không thể nghĩ bàn” mà nay dối mượn pháp Phật “Lấy Tam thiên đại thiên thế giới mà Phật đã nhét vào nơi hạt cải ra khỏi hạt cải cho mọi người cùng rõ biết”.

Phật lại nhận ra con người đã bị tấm màng vô minh trói nhận thức, tư duy nên không thể chung cùng sống hài hòa, bình đẳng nhưng nếu dùng lời nói trình bày mọi việc ở nơi nhị nguyên thì con người liệu có mấy ai tin nhận?
Dựa trên góc nhìn tổng thể, khách quan, sáng rõ,… Phật lại quán chiếu sự tồn vong của mỗi gia đình, mỗi dòng tộc trong mỗi tầng lớp xã hội đơn lẻ. Quả thật, không có tính trường cửu, bền vững cho mọi gia đình, dòng tộc. Thiện ác đan xen, giàu nghèo, sang hèn hoán đổi tương tục,… Sự cai trị hà khắc, áp bức tầng lớp dân nghèo đến cùng đường của giai tầng “Ăn trên, ngồi trước” thì đến một lúc nào đó sẽ có những cuộc nổi dậy nổ ra. Những kẻ tàn ác, sống không có tình người sẽ bị giết đi, những người nghèo khó chia nhau “giá trị thặng dư” và đưa những người mới có uy tín lên lãnh đạo, lập lại trật tự xã hội. Lâu về sau, những người cai trị đất nước xa rời tầng lớp dân lao động nghèo, xây dựng những chính sách xã hội đem lại nhiều lợi ích cho thành phần lãnh đạo, quản lý làm sự phân tầng ngày càng rõ rệt. Đây là mầm móng đánh dấu cho một nổi loạn mới. Máu, nước mắt, thù hận và đau khổ lại xảy đến cho con người trên diện rộng. Cứ thế, xã hội loài người luôn phát triển như vậy trong tất cả giai đoạn lịch sử của con người.
Phật lại nghĩ “Tại sao con người lại cứ mãi chém giết lẫn nhau khiến cho chính con người sống trong khổ đau, thù hận?”.
Lẽ nào họ tự trói mình trong việc chém giết, hận thù, đau khổ nhằm quên đi nỗi lo “Sinh lão bệnh tử” luôn xảy ra cho đời sống của một con người?
Nói là vậy nhưng Phật đã rõ biết “Con người đang bị lưới vô minh che lấp bản tâm. Con người đã quen rồi sống với tâm phân biệt, dính mắc. Nơi tâm phân biệt, dính mắc có giàu có, sang hèn, thiện ác,… Gốc của tâm phân biệt, dính mắc là tham, sân, si, mạn, nghi. Mọi tội lỗi, khổ đau của con người đều do tâm phân biệt mà sinh khởi. Thiên đàng, địa ngục cũng nơi tâm ý con người tạo ra. Do tâm phân biệt mà con người khổ đau trôi lăn mà không thể thoát ra khỏi luân hồi. Tuy vậy, ngay nơi con người luôn có bản tâm tự tại, không dính mắc nhưng con người đã bị nhị nguyên trói chặt nên không tường tận, sống được với sự thật. Chỉ khi con người sống thật với bản tâm thì con người mới dứt khổ đau, đoạn trừ luân hồi, thiên đàng và địa ngục”.
Phật lại nhận biết “Dùng lời nói thành tâm, chân thật trình bày nơi nhị nguyên, nơi bản tâm sẽ không dễ khiến con người tin nhận. Con người đã vướng vào vô số định kiến, tà kiến, kiến chấp, học thuyết, tư tưởng,… Thế nên, dùng nhị nguyên nơi pháp thế gian để luận nhị nguyên nơi thế gian sẽ mang đến sự tranh luận, chống trái,… và không thể giúp con người giải thoát”.
Phật xét đến pháp xuất thế gian. Với kiến thức được lĩnh hội từ giáo lý, kinh điển của rất nhiều tôn giáo có ở các nước thuộc lưu vực sông Hằng, Phật quán chiếu thế giới tâm linh. Cùng với việc không ít lần tiếp xúc với cõi giới vô hình những khi thiền định và cả những lúc đã xả thiền, Phật nhìn nhận lại mọi tri thức nhân loại thời đó về cõi giới vô hình.
Tại sao đã là vô hình mà lại tạo ra được hình dáng mắt, tai, mũi, miệng, thân hình, lời nói, khóc cười,…?
Tại sao ta lại có thể tiếp xúc được với họ?
Nhờ mắt thấy, tai nghe,… chăng?
Thật không có lý bởi lẽ bây giờ ta vẫn dùng mắt mà cố tìm sao lại chẳng thấy?
Hơn nữa, khi thiền định thì mắt của người nhập thiền đã khép. Vậy ra là ta đã nhìn thấy bằng phần vô hình nơi bản tâm của tự thân, tạm gọi là thần thức. Hẳn là vậy vì không thể dùng hữu hình để nhận biết vô hình, chỉ có vô hình mới tiếp xúc được vô hình.
Lại một câu hỏi khác đặt ra.
Tại sao nơi vô hình lại lưu xuất ra cái thấy nghe hay biết, nói cười, khóc kể,…?
Rõ thật là do nơi ý. Từ đó, Phật nhận biết: Người cùng chúng sinh cõi giới vô hình tiếp xúc nhau bởi do tâm ý, cũng từ nơi tâm ý mà chúng sinh cõi vô hình tạo ra hình dạng, màu sắc, âm thanh, tiếng nói,… và cái thấy nghe hay biết. Rõ biết chân tướng nơi cõi giới vô hình, Phật đã dựa vào tâm ý của chúng sinh ở cõi vô hình mà bình thản phân định lại thế giới tâm linh.
Phật tiếp tục thâm nhập cõi giới vô hình và Phật rõ biết tường tận Tiền kiếp, Hậu kiếp của chúng sinh nẻo vô hình. Phật đã thông suốt vạn pháp ở cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian.
Cõi giới vô hình chẳng thể tách rời cõi hữu hình mà tồn tại và ngược lại. Những chúng sinh ở cõi hữu hình và vô hình luân chuyển, hoán đổi vị trí cho nhau bởi do nghiệp duyên nhân quả rất công bằng, khách quan.
Tuy nhiên, có một điều dễ nhận thấy là việc luân hồi của chúng sinh nơi 3 cõi 6 đường thường đi kèm với khổ đau và phiền muộn do bởi những chúng sinh này luôn bị trói vào quy luật vô thường “Sinh lão bệnh tử” nhằm sắp xếp lại nhân quả, cũng như đảm bảo tính công bằng, khách quan nơi 3 cõi.
Buông bỏ tâm phân biệt, dính mắc Phật rõ biết “Tự thân đã thoát khỏi “Sinh lão bệnh tử” và việc luân hồi nơi 3 cõi 6 đường”.
Phật biết rằng “Đã đến lúc Người đi rộng truyền chánh pháp nhằm làm vơi đi khổ đau, phiền muộn cho mọi chúng sinh trong 3 cõi 6 đường, xóa bỏ bất công xã hội thời Phật còn đang sống. Đối với những con người muốn thoát khỏi luân hồi, Phật sẽ dùng phương tiện chỉ bày giúp họ nhìn thấy và sống được với bản tâm thường tại, rõ biết chân tánh vạn pháp, giúp họ giải thoát hoàn toàn ngay hiện đời”.
Tại sao Như Lai nói khi xét riêng từng vật, từng đại - Đất, nước, gió, lửa, hư không thì cùng tận trong mỗi vật, mỗi đại đều có sự hiện diện đất, nước, gió, lửa, hư không?
Có thật chúng không thể đơn lẻ mà tồn tại?
Tôi lại xét đất, nước, gió, lửa, hư không có nơi thanh gỗ. Cây được mọc lên từ đất, rễ hút chất dinh dưỡng, nước giúp cây sinh trưởng, việc phát triển của cây còn do lá hấp thu ánh sáng, không khí mà chuyển hóa chất dinh dưỡng thành những tế bào tạo nên thân cây. Gió giúp cây tiếp nhận lượng O2, COđầy đủ mà sinh trưởng, phát triển tốt. Thanh gỗ được lấy từ thân cây thì hiển nhiên là có đầy đủ đất, nước, gió, lửa và hư không. Người xưa đã từng lấy lửa trong gỗ bằng việc kiên trì cọ xát hai thanh gỗ vào nhau mà lấy được lửa. Khi Phật tại thế, ngoại đạo đã từng vấn nạn Phật mà nói rằng: Ông ta đã chẻ nát thanh gỗ mà không tìm thấy đất, nước, gió, lửa, hư không và trách Phật nói lời hư dối. Người ngoại đạo kia không nhìn ra đất, nước, gió, lửa, hư không trong thanh gỗ là vì tầm nhìn hạn hẹp và phát xuất nơi tâm đố kỵ, hoài nghi. Như người lấy lửa từ thanh gỗ kia đâu cần một mồi lửa mà chỉ lấy hai thanh gỗ cọ sát nhau mà có lửa, thanh gỗ cháy tạo ra gió, thanh gỗ cháy hết thì phần than trở về đất, hư không trả về hư không, nước thì bốc lên thành hơi nước hòa quyện trong khói.
Giờ lại xét trong hư không có tồn tại đất, nước, gió, lửa hay không?
Hãy nhìn về cuối chân trời, bạn sẽ nhận ra ranh giới của hư không và mặt đất.
Vậy nên hư không phải nương đất mà phân định nhưng phải chăng trong hư không sẽ không có đất, nước, gió, lửa?
Khi xét đến không khí các nhà khoa học đã thừa nhận có bụi, có gió, có hơi ấm, có hơi nước. Hư không chứa không khí, đồng thời chứa đất, nước, gió, lửa.
Lại xét đến đất, đất không phải là một khối vật chất rắn hoàn toàn, trong đất có những khoảng trống chứa không khí, nước, hơi ấm và nước, hơi ấm, không khí trong đất luôn sự luân chuyển lên xuống, qua lại đó là dấu vết của gió.
Ở những đại khác bạn hãy tự xét lấy nhằm nhận biết rằng “Tận cùng của các đại cũng là đất, nước, gió, lửa và hư không”.
Xác thân tôi và bạn đâu có khác gì, có khác chăng là ở nơi tâm ý nhưng tận cùng của tâm ý lại là không tâm ý, là bản tâm không dính mắc, không phân biệt đồng nhất với vạn pháp.
Từ nơi bản tâm vắng lặng, tịch diệt mỗi chúng sinh tự tìm lấy lối đi của mình trong 3 cõi.
  1. Chạm đến cõi vô hình.
Tại sao có người tiếp xúc được cõi giới vô hình?
Bên cạnh đó, lại có người dù rằng rất mong mỏi nhưng không thể chạm đến cõi giới vô hình?
Thật ra, việc chạm đến thế giới vô hình là việc không nên làm, không đáng làm và không cần làm.
Người tiếp xúc cõi vô hình có rất nhiều hạng nhưng tạm chia làm hai nhóm.
Nhóm không chủ động gồm có hai hạng:
- Hạng thứ nhất là những người thần trí loạn động, tâm thức mê mờ, không thường sống nơi thế giới hữu hình, vô ý rời khỏi thân xác và bị chúng sinh nẻo không thân quấy phá.
- Hạng thứ hai là những người hành trì thiền định, việc giữ bản tâm lặng yên khiến thần thức dễ dàng rời khỏi thân xác và do sự tịnh tâm mà có thể tiếp xúc chúng sinh nẻo không thân.
Nhưng nhìn chung những người thiền định ít chủ động gặp cõi giới vô hình chỉ do chúng sinh nẻo vô hình nhận biết mà tìm gặp với nhiều mục đích khác nhau như quấy phá, não loạn, tham bái và thử thách,…
Nhóm chủ động là những người chủ động tiếp xúc với cõi giới vô hình. Họ là những người luyện bùa ngãi, chú thuật,…
Nhưng việc tiếp xúc cõi vô hình của thành phần này thì lại diễn ra có sự khác nhau. Việc nhận biết sự tiếp xúc nẻo vô hình của nhóm người này có thể dựa vào kết quả việc làm hoặc là dựa vào sự hỗ trợ bởi một lực lượng vô hình,… mà người đó thu thập được. Dù vậy, đây không thật là chánh pháp, không hẳn là việc đáng làm. Vì việc làm đó thường dẫn đến việc xen vào quy luật nhân quả khách quan của sự sống và chính người tham gia việc làm đó phải ít nhiều gánh lấy phần trách nhiệm của quy luật nghiệp quả luân hồi.
Những người mong mỏi tìm gặp, chạm đến cõi vô hình mà không tiếp xúc được là vì họ không có phương pháp rõ ràng, đúng đắn hoặc hành trì sai phương pháp.
Cũng là thiền định mà có người gặp, người không là vì khác tần sóng dò tìm. Sở dĩ tôi dùng đến từ “tần sóng” vì bởi những tín hiệu mà chúng sinh nẻo vô hình phát ra cũng như tiếp nhận được chỉ là những xung động, rung động do nơi tâm ý. Những dao động này có tính chất tựa như tính chất của sóng âm thanh, sóng điện từ,… Vì vậy, những tín hiệu xung động tâm ý cũng có sự sai khác về bước sóng, tần sóng,…
Tôi cũng nhắc lại những người thiền định đúng chánh pháp ít khi tìm cách tiếp cận chúng sinh nẻo không thân vì đó không là cứu cánh của sự giải thoát hoàn toàn. Chỉ do việc dừng lặng của họ mà chúng sinh nẻo không thân dò đúng tần sóng và tìm đến. Nếu tôi chỉ trình bày đến đây thì hẳn bạn vẫn hoài nghi.
Vậy nên tôi sẽ dùng nơi pháp thế gian mà tỏ bày tường tận.
Sự thật là nếu tình cờ bạn bắt gặp trên đường một người xa lạ, bạn có thường cất tiếng gọi, tâm sự, chuyện trò không?
Phần lớn là không, chúng sinh nơi nẻo không thân cũng thế. Thêm nữa, một người nói tiếng Nhật tình cờ gặp một người Âu Mỹ, cả hai đều nhìn thấy nhau, quan sát, đánh giá rồi “đường ai, nấy đi” vì dù có lên tiếng thì cũng không ai hiểu ai, không biết người còn lại nói gì.
Nếu bạn vẫn cố chấp “Ít ra cũng phải nghe tiếng hoặc thấy hình chứ.” thì tôi lại trình bày thêm một vấn đề.
Một con dơi khi bay luôn phát ra sóng siêu âm để xác định đường đi, con mồi, những vật cản,... Trên đường di chuyển, sóng siêu âm của dơi chạm phải bạn, con dơi biết rằng có vật cản phía trước và chuyển hướng bay. Con dơi dùng sóng siêu âm chạm đến và nhận biết bạn.
Còn bạn có nhận ra làn sóng siêu âm của dơi chạm đến thân người không?
Nếu bạn lại cố chấp “Tôi thấy được con dơi” thì bạn lại quên mất rằng “Bạn đang muốn tiếp xúc với cõi vô hình”.
Nơi cõi vô hình mà bạn mong mỏi dùng đôi mắt thịt để nhận biết màu sắc, âm thanh, hình dáng,… của nẻo không thân thì không có lẽ đó.
Tôi đã trình bày về cõi vô hình để bạn trực nhận, thừa nhận. Việc về sau là tùy bạn định liệu nhưng tôi cũng không quên nhắc lại “Việc tiếp xúc cõi giới vô hình mà không có chánh định, định tâm là một việc là nguy hiểm, không thật sáng suốt”.
Lại nói thêm về những người tìm đến tôn giáo trong sự bấn loạn nội tâm và thiếu sự hiểu biết sáng rõ về thế giới tâm linh hiện nay.
Những con người đã mệt mỏi, chán chường nơi cuộc sống hiện tại hoặc hy vọng sau khi chết sẽ tìm về được một nơi ở mới tốt đẹp, trường cửu mãi mãi hoặc là một cuộc sống ở đời sau giàu có, phú túc, xinh đẹp hơn,... Điều này cho thấy con người tìm đến các tôn giáo cũng vì tham mà đến và không ít người tìm cách bỏ tiền ra để hy vọng mua được một “chỗ đến” tốt đẹp, an toàn (Tôi không có ý nói đến những người vì tâm từ bi, bác ái,… lòng chân thành gom góp tiền của giúp người. Vì tôi rất trân trọng, thầm biết ơn những người làm công việc thánh thiện, đáng làm đó).
Lẽ ra, người học Phật không nên có chung cùng ý nghĩ Tham cầu như vậy vì đó không là chánh pháp của Như Lai. Tột cùng của chánh pháp là buông bỏ, là từ bi hỷ xả. Người học Phật mà cầu có nơi ở tốt để về sau khi chết, cuộc sống đời sau sung túc, giàu sang,…
Nếu sống theo thập thiện thì việc đạt những ước nguyện này là không khó nhưng rồi sẽ lại trôi lăn.
Xét lại những mong cầu chính đáng ở nơi người học Phật trên ta sẽ nhận biết được người đó còn tham thân, tham nơi ở tốt và trên cả là việc tham sống. Đã muốn là sẽ được, đi rồi sẽ đến, sinh rồi sẽ có tử. Đó là gốc của luân hồi.
Người học Phật chân chính một lòng cầu giải thoát ra khỏi biển khổ sinh tử, mong mỏi hành trì đạt pháp vô sanh. Muốn đạt được pháp vô sanh thì người học Phật phải dùng sự hiểu biết phá tan nơi ngã thành vô ngã, thường sống với bản tâm vắng lặng, không dính mắc. Đó cũng chính là tâm yếu của đạo giải thoát. Tâm thông muôn pháp thông. Liễu thoát sinh tử, diệt tham sân si mạn nghi, diệt mà không diệt.
Nhân loại khi tin nhận sống tùy thuận chánh pháp thì xã hội con người tự an ổn, thái bình, nhân loại phát triển từng bước đến văn minh, hiện đại, tự do và tiến bộ. Đó cũng là pháp môn không hai, không thể nghĩ bàn của Như Lai. Pháp xuất thế gian chẳng lìa pháp thế gian mà đơn lẻ tồn tại.
Nhìn chùa to, Phật lớn, giáo đường cao rộng, trang hoàng, nguy nga,… tôi lại nhớ một bài kệ của người học Phật xưa:

Người ơi, “chùa rách, Phật vàng”
Sao người lại muốn phụ phàng cảnh xưa?
Am dù nóc cũ, vách thưa,
Nhưng còn che nắng, che mưa lắm ngày.
Nay người cất lại chi đây?
Vì ngôi thất mới thêm rày mối lo.

Vào pháp môn không hai tôi lại luận bài kệ này, người học Phật lại lo lắng việc phải phụng sự Tam bảo và trốn tránh trao truyền chánh pháp thì hẳn là chỉ cầu pháp xuất thế gian giải thoát hoàn toàn cho tự thân, rõ thật là cầu 1 trong 4 quả vị Thánh. Đây là người học Phật hàng Thanh Văn, làm việc tùy thuận, hoằng pháp tùy duyên.
Xét lại người học Phật này chưa thật tỏ ngộ chánh pháp, cần học hỏi, hành trì thêm nhằm thấu rõ bản tâm.
Ngày nay, “chùa to, Phật lớn” thời nhiều có còn “chùa rách, Phật vàng” nữa không?
Có lẽ nào chánh pháp đang tỏa sáng, người phát tâm đại thừa thời nhiều.
Nhưng sao nội tâm con người lại càng bấn loạn, không tìm ra được lối thoát cho tư tưởng, tâm hồn, khổ đau cứ đè nặng trong lòng?
Người học Phật đang vì góp phần làm chánh pháp sống lại, sáng rõ trong nhân loại hay đang vì lợi dưỡng, lợi danh, tham đắm,…?
Với những người học Phật mà vì chánh pháp phát tâm đại thừa thì tôi xin kính cẩn vọng bái. Nhược bằng vì tham đắm tài vật, u mê chánh pháp,… mà dối truyền nối pháp Phật thì tôi xin gửi đến một lời nhắn nhủ chân thành “Chánh pháp còn bỏ huống hồ là phi pháp”, nên tự nhận biết “Niết bàn, thiên đàng và địa ngục vốn không hai”. Đó cũng chính là pháp môn không hai, không thể nghĩ bàn của chư Như Lai ở cả 3 thời - Quá khứ, hiện tại, vị lai.
Pháp Phật không thể nghĩ bàn là bởi vì qua lời nói đã diễn giải đến cùng tột nơi nhị nguyên, đến không còn gì để nói thời không nói nữa chứ không dừng lại ở sự không thể nghĩ bàn là không thể nói, không dùng lời nói. Đó là pháp môn không hai của Như Lai vậy!





CHƯƠNG II
CHẲNG LÌA PHÁP THẾ GIAN

Câu chuyện 10 điều nghịch lý trong cuộc sống

  1. Người đời thường vô lý, không “biết điều và vị kỷ”,... Nhưng dù sao đi nữa, bạn hãy yêu thương họ.
  2. Nếu bạn làm được điều tốt thì rất có thể mọi người sẽ cho là bạn làm vì tư lợi. Nhưng dù sao đi nữa bạn hãy làm những điều tốt.
  3. Nếu gặt hái được thành công thì bạn sẽ gặp những người giả dối và những kẻ thù thật sự. Nhưng dù sao đi nữa bạn hãy gặt hái thành công.
  4. Việc tốt bạn làm hôm nay sẽ bị lãng quên. Nhưng dù sao đi nữa bạn hãy làm những điều tốt.
  5. Thẳng thắn, trung thực thường làm chính bạn tổn thương. Nhưng dù sao đi nữa bạn hãy sống thẳng thắn, trung thực.
  6. Người có lý tưởng lớn lao có thể bị đánh gục bởi những kẻ suy tính thấp hèn, hẹp hòi. Nhưng dù sao đi nữa bạn hãy luôn nuôi dưỡng, hun đúc những ý tưởng lớn lao.
  7. Người đời thường tỏ ra cảm thông với những người yếu thế nhưng lại theo về kẻ mạnh. Nhưng dù sao đi nữa bạn hãy tranh đấu cho những người yếu thế.
  8. Những thành quả mà bạn đã phải mất nhiều năm để tạo dựng có thể bị phá hủy chỉ trong phút chốc. Nhưng dù sao đi nữa bạn hãy tiếp tục dựng xây.
  9. Bạn có thể sẽ bị phản bội khi giúp đỡ người khác. Nhưng dù sao đi nữa bạn hãy giúp đỡ mọi người.
  10. Bạn trao tặng cuộc sống tất cả những gì tốt đẹp nhất và nhận lại một cái tát phũ phàng. Nhưng dù sao đi nữa bạn hãy sống hết mình cho cuộc sống.

Lược trích Anyway
Rất cảm ơn Kent Keith!

Con người khi trói tư duy, nhận thức vào tấm lưới nhị nguyên thì 10 điều nghịch lý kia chỉ là một phần rất nhỏ những điều nghịch lý có trong vô vàn nghịch lý tồn tại nơi cuộc sống.
Ví như các nhà khoa học, các nhà môi trường khẩn thiết kêu gọi “Hãy hạn chế, tiết kiệm sử dụng năng lượng điện, xăng dầu, than đá, khí đốt,…” thì các nhà kinh tế lo sợ việc thất thu lợi nhuận từ việc tiêu thụ xăng dầu, điện, nước,…
Nếu tiết kiệm sử dụng năng lượng thì các nhà máy, xí nghiệp,… sao có thể phát huy hết công suất, sản xuất đình trệ thì sao có thể tạo ra lượng hàng hóa, vật chất khổng lồ nhằm cung cấp nhu cầu hưởng thụ quá mức của lối sống thực dụng, hưởng thụ.
Trong khi người dân Nhật, nạn nhân của thảm họa hạt nhân do các nhà máy điện nguyên tử bị phá hủy liên tiếp biểu tình chống việc sử dụng năng lượng hạt nhân thì lại có không ít quốc gia có trình độ khoa học - kỹ thuật yếu kém hơn đang đầu tư xây dựng những công trình nhà máy điện hạt nhân.
Các nhà quản lý cấp cao vì “Cái lợi trước mắt” đã vội quên bỏ mối nguy khủng khiếp khi các lò phản ứng hạt nhân bị phá hủy do thiên tai hoặc do lỗi vận hành yếu kém,...
Tri thức nhân loại phủ nhận thế giới tâm linh, vô hình. Trói nhận thức, ý thức, tư duy vào thế giới vật chất. Nghiên cứu, tìm hiểu mọi vấn đề nơi cuộc sống dựa trên cơ sở vật chất thực thể mà quên bỏ một vấn đề tối quan trọng ở trong mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại dựa trên nền tảng phần vô hình, không thể nắm bắt.
Con người với xác thân vật chất có đi, đứng, nói, cười,… khi tách rời phần tâm vô hình?
Đây là điều nghịch lý mấu chốt khiến lòng người điên đảo, xã hội rối ren do tư duy hạn hẹp nơi tri thức nhân loại.
Lợi mê lòng người khiến con người tự “lừa mình, dối người”. Phần lớn con người ngày nay khi đi mua sắm đều mong mỏi có khuyến mãi, quà tặng,… chỉ mong có được phần hơn cho bản thân. Do vậy, các nhà kinh tế đã tăng giá thành sản phẩm, phần giá trị thặng dư ảo ở các mặt hàng và người tiêu dùng sẽ là người chịu thiệt. Khuyến mãi, giảm giá 50 - 80%  ồ ạt, đồng loạt là hiện trạng thể hiện định mức con người đang sống trong những dối lừa và chấp nhận, đồng thuận với sự tồn tại của hiện tượng dối lừa, giả trá.
Trong lối sống thực dụng, ích kỷ con người sẽ không bao giờ nghĩ đến việc mang điều lợi cho người mà không thu nhiều hơn phần lợi về cho tự thân.
Tôi cũng sẽ “Tương kế, tựu kế” với việc “Lừa người, dối mình”. Cũng khuyến mãi, quà tặng,… Duy có một điều tôi sẽ nhắc nhở bạn “Tôi dễ dàng cho đi những thứ tôi có, những đồ vật không thuộc về tôi. Vì thế tôi dễ dàng nhận về mọi thứ bạn cần, những món đồ trân quý mà bạn đang cất giữ”. Nhưng tôi nhận lấy để cho đi vì tôi không thật cần những thứ không thuộc về tôi mãi,…
Có những điều là lẽ thật nhưng con người đã không sống tùy thuận theo dẫn đến lẽ thật trở thành nghịch lý. Cụ thể là việc cho nhận. Khi con người cho thì cũng chính là lúc con người đang nhận.
Ví như khi bạn cho mọi người tình yêu thương chân thật thì bạn sẽ nhận về tình yêu thương chân thật. Khi bạn cho người hận thù, khổ đau,… thì bạn sẽ nhận về hận thù và khổ đau. Một trái bom được bạn mang đến nhằm giết những người tôi thương yêu. Bạn đã gieo thù hận khổ đau cho loài người. Thế nên, loài người sẽ đòi lại máu, nước mắt, đau khổ,… ở nơi bạn. Dù rằng, tôi không muốn điều đó xảy ra và tìm mọi cách để ngăn chặn,…
Thêm nữa, cho dù nhân loại quên bỏ những việc xấu ác bạn mang đến cho con người thì cái tôi của chính bạn lại không dễ dàng buông bỏ. Tâm thức của bạn sẽ lưu giữ những việc làm tội lỗi mà bạn tạo ra rồi “vùi chôn”, nhấn chìm bạn trong đau khổ, hoang tưởng,… ở tuổi già và 3 cõi, 6 đường.
Tôi đã trình bày việc luân hồi, giải thoát hoàn toàn, quy luật nhân quả,… những điều dường như hoang đường, huyễn hoặc theo góc đánh giá, tư duy của nhân loại hiện tại. Nhưng thật ra đó chính là sự thật.
Vì không tin nhận sự tồn tại của thế giới vô hình, việc vội vàng và do thiếu cơ sở nhận biết,… mà tri thức nhân loại đã khẳng định sự thật là hoang đường.
Còn sự hoang đường về giấc mơ sự hoàn hảo nơi thế giới vật chất chỉ là sự mê lầm, giả tạm thì lại cho là lẽ thật. Việc làm này khiến tư duy, nhận thức con người đeo đuổi theo sự hoang đường và từng bước nhấn chìm sự sống, xã hội con người vào khổ đau, thù hận.
Con người có thật là chỉ được sinh ra 1 lần, sống hưởng thụ, rồi chết đi? Chết là hết?... Bạn hãy nên “Xét lại”. Đây là lời nhắc nhở chân thành!
  1. Bọt Biển.
Đã nhiều đêm tôi trăn trở về những điều mình đang làm rồi chợt nghĩ “Ta rất đơn độc nên chăng dừng lại?”.
Ôi! Những giấc ngủ chập chờn khiến ta mất đi sự tập trung cần thiết.
Hôm nay, tôi lại phải đi sắp xếp, định hình mọi việc nhằm hoàn tất việc cần làm. Ngồi lên chiếc xe máy tôi chạy trên đường với bộn bề những suy tư.
Ra đường, tôi mới biết “Có thật nhiều khẩu hiệu được con người bày trí khắp mọi nơi”.
Khẩu hiệu cho căn bệnh thế kỷ HIV là “Hướng đến mục tiêu không có người nhiễm HIV mới”, “Hướng đến mục tiêu thế hệ không có người nhiễm HIV”,…
Giá trị của những khẩu hiệu này là gì?
Có thực tế, có khả dụng không?
Đến bao giờ những khẩu hiệu đó đạt được giá trị thực tiễn trong lối sống hưởng thụ thực dụng ngày nay?
Tôi lại bắt gặp một bảng khẩu hiệu được trình bày trang nhã “Mỗi ngày trái đất nặng thêm 100 tấn do bụi vũ trụ”.
Có thật không?
Sao tôi lại nhận được một nguồn thông tin trái chiều là “Sự thực trái đất nhẹ đi 50.000 tấn mỗi năm”?
Lẽ nào con người muốn nói thì cứ mặc tình nói mà không có sự chuẩn mực gì?
Giá trị của thông tin trái đất nặng lên hay nhẹ đi là gì?
Thật không có sự chuẩn xác, sáng rõ, khách quan.
Hôm trước, tôi ghé nhà người quen để biết rằng “Người đó được yêu cầu bỏ tiền ra nhằm mục đích làm một tờ giấy chứng nhận là gia đình văn hóa”. Người đó lại hỏi “Việc bỏ tiền ra làm tờ giấy đó có khác gì bỏ tiền ra mua 2 chữ văn hóa”, giá trị của văn hóa là gì?”.
Lại nhớ vài năm trước tôi bắt gặp những khẩu hiệu về văn hóa mà trong lòng tự dưng có nỗi buồn trầm lặng - “Gia đình văn hóa là gia đình không có con em bỏ học”, “Gia đình văn hóa là gia đình chỉ có 1 đến 2 con”…
Ôi! Tuyên truyền mà thế này thì thật là tội cho ông bà, các cụ ngày xưa. Nếu các cụ đọc được nội dung của khẩu hiệu thì không khéo các cụ sẽ bật khóc và nói “Già đẻ chúng ra mà nay chúng lại nói già không có văn hóa”.
Và gì nữa… trên những con đường đã đi qua có không ít nơi tôi bắt gặp tấm bảng to rộng với hàng chữ “Ấp văn hóa, xã văn hóa”. Nhưng chỉ cách đó vài mét tôi lại thấy biển báo “Chú ý khu vực thường xảy ra nạn cướp xe” đi thêm vài trăm mét mắt tôi đã ghi nhận thêm vài biển cảnh báo với nội dung tương tự.
Lại nhớ đến những chương trình quảng cáo, trò chơi truyền hình, báo chí,… Thời đại công nghệ thông tin con người đã dối lừa nhau bằng đủ mọi hình thức, thủ đoạn,… những trò chơi rủi may, dự đoán kết quả bóng đá, bình chọn diễn viên yêu thích, tư vấn chọn số đề, kết quả xổ số, các dịch vụ “lừa người, dối mình”, tỷ lệ cá cược bóng đá được cập nhật và khích lệ mọi người cùng tham gia,…
Phải chăng đây là những “biến tướng” của những trò đỏ đen, cá độ, tệ nạn xã hội?
Vậy mà những phương tiện thông tin đại chúng và ngành văn hóa lại “tiếp tay” cho những việc làm sai trái, những việc góp phần làm cho xã hội rối ren, lòng người đảo điên, bấn loạn,…
Thêm nữa, thời gian gần đây nhất, điện thoại của tôi lại nhận được tin nhắn với nội dung “Bầu chọn Vịnh Hạ Long trở thành 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới chỉ với một tin nhắn”.
Ừ thì nhắn tin vì niềm tự hào của một người dân Việt. Nhắn tin rồi, tôi mới nhận ra mình dại.
Vì lẽ nếu Vịnh Hạ Long lọt vào Top 7 Kỳ Quan Thiên Nhiên Của Thế Giới và chẳng may lại có người hỏi tôi “Có bầu chọn cho Vịnh Hạ Long không?”. Hiển nhiên là tôi sẽ trả “Có” với một niềm tự hào. Họ lại hỏi “Tôi có đến Vịnh Hạ Long chưa?”.
Tự nhiên câu hỏi đơn giản đó lại trở thành câu hỏi khó cho tôi. Giả định với một chút gian dối tôi trả lời rằng “có”. Nhưng người đó lại hỏi “Tôi đã từng đến những danh thắng khác có trong danh sách bầu chọn chưa?”. Đến nước này thì tôi chỉ có thể trả lời “chưa”, họ lại hỏi “Thế tôi dựa vào đâu mà bầu chọn cho Vịnh Hạ Long?”. Đến câu hỏi này thì tôi đã không thể trả lời. Tôi cũng rõ biết “Việt Nam đã bầu chọn Vịnh Hạ Long bằng tin nhắn thì ở những quốc gia khác cũng sẽ dùng những phương cách tương tự nhằm lọt vào Top 7 Kỳ Quan Thiên Nhiên Của Thế Giới”.
Ôi! Khi vướng vào nhị nguyên con người tạo ra vô số những sai lầm và trói cả tư duy, nhận thức, sự hiểu biết,… vào trong lưới vô minh dày đặc.
Tôi rõ biết “Nếu con người muốn sửa sai thì phải xác định rõ nguồn gốc của cái sai thì mới có thể sửa sai và sẽ không có ai nhận lấy phần trách nhiệm vì đây là sai lầm của tri thức nhân loại”.
Thực tế là không một ai có đủ khả năng và tri thức nhận lấy phần trách nhiệm của toàn nhân loại. Thế nên, tôi phải xem lại một số từ được dùng trong bộ sách mà người biên tập không vừa ý, họ yêu cầu tôi thay bằng cụm từ khác nhằm nói tránh, nói giảm vấn đề. Việc thay đổi sẽ góp phần giúp bộ sách được đăng ký xuất bản dễ dàng hơn.
Đáng kể nhất là việc thay cụm từ “chủ nghĩa duy vật” bằng “chủ nghĩa vô thần”.
Xét lại vấn đề này, tôi nhận ra “Có điều gì đó không thật ổn”. Chủ nghĩa vô thần chỉ là một phần của chủ nghĩa duy vật, sai lầm của chủ nghĩa duy vật không thể chỉ trói trách nhiệm nơi chủ nghĩa vô thần.
Nếu chủ nghĩa duy vật không thừa nhận sai lầm thì sao có thể sửa sai?
Rõ thật là cũng không có một ai đủ khả năng nhận lấy trách nhiệm của sai lầm nơi chủ nghĩa duy vật. Chỉ là tự nhận biết, tự sửa sai. Sau cùng, tôi quyết định giữ lại cụm từ “Chủ nghĩa duy vật” vì xét đến cùng tận thì việc này không hại ai cả.
Đã đến ngã rẽ, bám theo người chạy trước tôi rẽ trái nhưng người chạy phía trước đột ngột đổi hướng, quay lại. Tôi bình thản chạy tiếp, một tiếng còi vang lên, mấy chú cảnh sát giao thông đề nghị tôi xuất trình giấy tờ. Tôi có đủ cả, dù vậy biên bản vi phạm giao thông vẫn được viết.
Đến bấy giờ, tôi mới biết “Tôi phạm luật giao thông, lỗi rẽ vào đường có biển báo cấm rẽ trái…”. Tôi đã rẽ vào đoạn đường này đã 2, 3 lần đến hôm nay mới bị thổi phạt 1 lần. Xem ra tôi vẫn còn may chăng?
Những lần trước, tôi vẫn bám theo những người đi trước. Thật đúng là dân quê, uổng công học luật giao thông, đúng thật “Có mắt như mù”,… Rồi giấy tờ xe bị giữ lại, chờ ngày đóng phạt.
Sau khi liên lạc công việc xong, tôi về lại nhà. Tôi nhìn lại biên bản vi phạm giao thông, hàng loạt cảm xúc về giao thông tái hiện.
Ừ, nhớ để rồi quên! Gần 10 năm trước, do tính chất công việc công ty buộc tôi phải có xe mới được thu nhận. Gom góp, tôi mua được chiếc xe máy cũ. Nhận việc, tôi được phân công làm nhân viên thị trường ở khu vực Bến Tre. Sau một thời gian khá lâu, hôm ấy tôi lại về thị xã công tác. Tôi đang chạy trên đường thì còi báo của mấy chú cảnh sát vang lên, dừng xe lại tôi xuất trình giấy tờ, tôi không có giấy bảo hiểm xe máy. Biên bản được lập với lỗi “Thay đổi kết cấu xe và không có giấy bảo hiểm xe máy”. Xe bị giam gần 1 tháng.
Đáng tội nghiệp cho tôi! Tôi đã phân bua “Tôi không có thay đổi kết cấu xe, xe mua sao tôi để vậy!”. Câu trả lời “Nơi giấy đăng ký xe có màu xanh trong khi xe tôi đang sử dụng lại là màu đen”. Chỉ thế thôi mà xe tôi bị “nhốt” 1 tháng, lấy gì tôi đi làm và tháng đó tôi đã bị công ty khiển trách đủ điều. Kết quả là tôi bị cho nghỉ việc. Tôi uất ức đến muốn khóc, lòng nguyền rủa những kẻ gây ra sự khốn đốn cho đời tôi.
Một tháng sau, tôi về Bến Tre đóng phạt và lấy xe, mức phạt là hơn 1 triệu đồng.
Làm sao lòng tôi không oán hận?
Kinh tế gia đình đang khó khăn, những mong làm việc để phụ giúp cha mẹ, lo các em ăn học mà xe thì bị giữ, bị cho thôi việc, lại mất một khoản tiền không nhỏ để lấy xe về.
Việc về Bến Tre đóng tiền phạt cũng nhiêu khê không kém. Từ nhà đi hai chặng xe mới về đến Bến Tre. Đến Bến Tre phải đi xe ôm đến Trụ sở công an giao thông làm giấy tờ đóng phạt. Tiếp theo, tôi đi xe ôm qua Kho bạc nhà nước đóng tiền, quay lại Trụ sở công an giao thông nhận giấy tờ lấy xe. Tiếp đến, tôi phải lấy xe ở một nơi khác. Xe đã bị rút cạn xăng (Vì lý do an toàn cháy nổ), tôi đẩy bộ một khoảng khá xa mới đến được nơi đổ xăng, người mệt nhoài vừa buồn, vừa hận. Đổ xăng rồi, tôi đạp mãi xe mới nổ máy. Quãng đường hơn 100 km trở về nhà thật vất vả, xe cũ bị bỏ lâu ngày nên chạy một lúc lại tắt máy. Bình xăng cũ nên sau gần 1 tháng khô cạn giờ được bơm xăng vào, giản nở nên rò rỉ chảy suốt quãng đường dài, ống quần đẫm ướt xăng. Có lẽ xăng ngày đó mà có nhiều tạp chất thì tôi đã thành “ngọn đuốc sống” trên đường. Tôi đã phải ghé lại rất nhiều lần trên đường để sửa xe. Với hiện trạng xăng đổ ướt ống quần thì không ít người sửa xe ái ngại cho tôi. Việc tia lửa phát ra từ bugi, nghĩ lại “Mạng sống của tôi lúc đó thật mong manh”. Thật đúng là vừa ngu, vừa khờ! Nếu không vì “Cơm áo gạo tiền” và biết rõ hiện trạng của xe khi nhận lại thì tôi đã bỏ luôn chiếc xe mà không nhận về.
Kể từ đó, cái nhìn của tôi với những viên cảnh sát giao thông không còn thiện cảm và một niềm căm hận trong lòng.
Một thời gian sau, tôi đã mua chiếc xe khác và tiếp tục làm việc ở Bến Tre. Thời gian khiến tôi nguôi ngoai việc bị ngành giao thông phạt một số tiền không nhỏ. Rồi một buổi tối cuối tháng, tiền không còn nhiều, tôi quyết định “ăn bánh mì thay cơm”. Chạy xe ra nơi bán bánh mì, tôi nhận biết ánh đèn xe làm mọi người lóa mắt, tắt đèn xe.
Sau khi nhận lấy cái bánh mì tôi bon bon ra đường, lại một tiếng còi cất lên, giấy tờ đầy đủ, tôi vẫn phải ký vào biên bản vì lỗi không bật đèn chiếu sáng. Dù cho tôi trình bày thế nào thì giấy đăng ký xe của tôi vẫn bị thu giữ. Thật chẳng ra sao cả! Hôm ấy, tôi đã phải ăn cái bánh mì trị giá 60.000 đồng.
Phải chăng lòng người đã khô cạn rồi sự hiểu biết và cảm thông?
Về đến phòng, trong túi chỉ còn chơ vơ  một giấy bảo hiểm xe máy. Một tờ giấy mà đến giờ tôi vẫn không nhận rõ giá trị thật của nó. Bởi lẽ tôi có người bạn bị mất do tai nạn giao thông nhưng giấy bảo hiểm xe máy không mang lại được giá trị tương thích với một mạng người. Tôi nói thế bởi vì tôi không thể nói rằng giấy bảo hiểm xe máy là không có giá trị.
Dù rằng muốn quên nhưng lòng tôi không thể không nhớ. Quả thật là tôi có duyên nợ với các chú giao thông. Tôi bị phạt mãi và mệt nhoài với việc đi đóng phạt. Nói cho cùng, tôi chỉ mắc những lỗi vi phạm không đâu, chủ yếu việc phạm lỗi là do không chú ý quan sát biển báo tín hiệu giao thông.
Về sau, có người nói với tôi rằng “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”. Lại phạm vài lỗi giao thông giúp tôi nhận biết rõ thật “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”. Mất một ít tiền mà thoát ra khỏi những mệt nhoài, lòng không còn oán hận, bực dọc, tôi nghĩ lại thấy cũng đáng.
Sau vài lần bị phạt và có thêm sự hiểu biết về nhị nguyên, tôi nhận ra “Có điều gì đó không thật ổn”.
Đành rằng mình thoát ra khỏi mệt nhoài, rối việc nhưng các chú cảnh sát giao thông đang làm việc cho ai?
Cho việc ổn định trật tự an toàn giao thông vì nhà nước, vì mọi người hay vì “cơm áo gạo tiền” cho cá nhân?
Việc sẵn sàng cũng như “gợi ý” nhận tiền “cho qua”,… của cảnh sát giao thông sẽ có kết quả gì?
Hẳn là có nhiều cung bậc cảm xúc ở vấn đề này. Buồn vui, oán hận, căm thù, khinh ghét, chán chường, nguyền rủa,… nơi những viên cảnh sát giao thông. Không chỉ có thế, lòng người đa đoan, muôn lối,… sẽ có người nhận ra cảnh sát giao thông đang làm việc cho nhà nước. Việc làm sai trái này không có lý nào những người quản lý, lãnh đạo lại không biết.
Đã biết mà không ngăn chặn, loại trừ thì phải chăng là có sự dung dưỡng hay do sự quản lý yếu kém?
Hay là… do chủ trương từ ở bên trên?
Những thành phần cơ hội, chống đối,… lại có cơ sở để xuyên tạc, bôi nhọ, đổi trắng thay đen,…
Ôi! Cơm áo gạo tiền. Thôi, tôi nói để mà quên.
Có lẽ đã đến lúc con người phải sống với sự hiểu biết cùng trái tim biết yêu thương, biết cảm thông và chia sẻ?
Việc ra mắt bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” cho người đọc gặp phải không ít khó khăn khiến lòng tôi không khỏi trăn trở.
Tại sao một bộ sách có tác dụng phần nào an định nội tâm con người, góp phần đảm bảo sự yên bình xã hội, ngăn chặn, loại trừ mầm móng những cuộc bạo loạn, chiến tranh giữa các nước trên thế giới cũng như xoa dịu tình hình căng thẳng, việc tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước ở khu vực biển Đông lại không có được sự hỗ trợ, ủng hộ cần thiết từ phía mọi người?
Lẽ nào tôi đã ngộ nhận giá trị của bộ sách hoặc là tôi đang làm sai?
Lẽ ra tôi không nên tập tành viết sách chăng?
Nguyên nhân nào dẫn đến việc tôi phải viết sách?
Cuộc sống chính là nguyên nhân khiến tôi phải viết sách. Ban đầu, cuộc sống đã làm tôi ngột ngạt do mãi ngụp lặn trong nỗi lo cơm, áo, gạo, tiền, buồn khổ,… với sự nhạy cảm khổ đau, cùng một niềm đồng cảm với lòng người. Tôi đã từng chán chường, tuyệt vọng mong cầu một sự giải thoát cho tự thân, thoát ra tất cả.
Tôi đã tìm đến giáo lý nhà Phật để nhận biết cái hay, sự huyền diệu, nhiệm mầu nơi pháp Phật. Tuy nhiên, tôi lại không tìm được một phương pháp rõ ràng được trình bày trong kinh sách cũng như được sự chỉ bày của các vị Thầy. Thế nên, tôi không thể đoạn dứt những phiền muộn, lo toan, đau khổ. Cuộc sống lại cuốn tôi trôi ra giữa dòng đời với cơm, áo, gạo, tiền, lo nghĩ,… nhưng tôi đã điềm tĩnh, bình thản hơn.
Tranh danh, đoạt lợi mà làm gì?
Chỉ hoài đau khổ.
Xét lại tôi rõ biết “Chẳng ai cho mình cái ăn, cái mặc khi mình không lao động, biếng lười”. Rõ thật là phải làm thì con người mới có thể sống tốt. Rõ thật là con người chỉ cần sống tốt, hạnh phúc chứ không cần nơi “nhà cao, cửa rộng, lắm bạc, nhiều tiền,…” mà chân tình nguội lạnh, bán mua,…
Cuộc sống giúp tôi nhận ra “Từ lâu tôi tự trói mình vào cuộc sống chứ cuộc sống có bao giờ trói cột một ai”.
Tôi vẫn đang hiện diện nơi cuộc sống nhưng cơm, áo, gạo, tiền đã không còn khiến tôi đau khổ mệt nhoài, tôi an ổn với cuộc sống hiện tại.
Lại nhớ đến lời Phật thuyết “Chúng sinh 3 cõi 6 đường nương đất mà té và cũng nương đất mà đứng dậy”.
Quả đúng vậy, con người khi té ngã cũng do nơi đất nếu không có mặt đất con người làm sao té ngã, té ngã vào nơi đâu?
Cũng lại như vậy, té ngã rồi con người phải tựa nơi đất mà đứng lên chứ con người không thể “cầm nắm” hư không mà đứng lên cho đặng.
Kinh điển chỉ là phương tiện, là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không là mặt trăng. Muốn thoát khỏi đau khổ, giải thoát hoàn toàn con người phải hành trì, sống thật với chánh pháp, phải bước đi trên đôi chân và dựa vào sự hiểu biết khách quan và sáng rõ của chính mình.
Việc thiền định, quán chiếu giúp tôi từng bước hòa vào đại thể, đồng nhất với vạn vật. Khái niệm chết và sống cơ hồ không còn nữa.

Một chiếc lá vàng cuối thu, ngày mai chiếc lá cuối cùng sẽ rụng. Cũng như những chiếc lá đã rơi trước đó, lá vàng bình thản, không đau khổ và thân cây già cũng chẳng chút phiền lo. Đó chỉ là sự luân chuyển của vạn vật, không là sự sinh ra và mất đi mãi mãi. Vạn pháp luôn trường tồn.

Tôi đã bước vượt qua đau khổ, lo toan, sinh tử và sống với niềm an lạc, hạnh phúc. Thật thảnh thơi! Tôi đã sống thảnh thơi như thế sau khi chạm đến đóa vô ưu huyền diệu.
Nhưng tôi vẫn đang sống cùng với mọi người, họ vẫn ngụp lặn trong lo toan, sầu khổ, cơm áo gạo tiền, danh lợi,…
Những người học Phật cũng đang tìm về nguồn cội với những hiểu biết sai lạc, nguyện cầu Phật A Di Đà, bàn huyền, nói diệu, mong cầu thần thông, huyễn thuật,…
Lẽ nào, tôi cứ lặng thinh. Tôi đã bắt đầu viết quyển sách đầu tay “Hãy là đường xưa mây trắng bay…” với tất cả những tâm huyết cùng với sự hiểu biết về cuộc sống và chánh pháp.
Trong quá trình phác thảo và hoàn thành bộ sách tôi sớm nhận ra “Chính người học Phật lại là những người vướng vào kiến chấp, định kiến,… nhiều nhất”. Bởi do họ đã trói nhận thức, tư duy, sự hiểu biết không sáng rõ vào kinh Phật, họ nhận định “Kinh Phật là cao siêu, cùng tột,… vì thế không có một thể loại sách nào có thể thay thế được pháp Phật mà họ đang nắm giữ”.
Họ sẽ đúng khi họ chuyển hóa, lĩnh hội và sống được với chánh pháp có trong giáo lý của Phật Thích Ca. Nhưng họ đã không làm được điều đó vì tận cùng của chánh pháp là sự buông bỏ nhưng họ lại đang chấp giữ những kiến chấp sai lệch.
Tuy nhiên, tôi nhận biết “Để thay đổi những con người đang chấp giữ những định kiến là một điều thật sự khó”. Tôi hướng đến việc giúp họ công nhận khi nhân loại đã thừa nhận.
Hơn nữa, chánh pháp không chỉ là “của riêng” người học Phật, nhân loại cũng vẫn từng ấy những mong cầu “dứt sự khổ đau, xa rời sinh tử, giải thoát hoàn toàn”.
Nội dung quyển sách vì thế được diễn giải cho mọi thành phần, tầng lớp xã hội. Vì thế khuynh hướng tôi trình bày nội dung bộ sách chú trọng nhiều đến giới trí thức, có hiểu biết và thành phần lao động nghèo.
Khi hoàn thành bản thảo, tôi đã tiến hành đi xin giấy đăng ký xuất bản nhằm hợp thức hóa quyển sách, việc làm góp phần giúp quyển sách được dễ dàng đến với mọi người.
Sau một thời gian, tôi nhận được thông tin là họ không thể đăng ký giấy phép cho quyển sách.
Tôi hỏi lý do thì họ bảo rằng “Nhà xuất bản không thể in thể loại sách mà tôi viết”.
Tôi lại hỏi “Nội dung sách có vấn đề, sai trái, không đúng chăng?”.
Họ lại bảo “Không phải vậy”.
Tôi xem lại nội dung quyển sách và trao truyền cho vài người cùng xem, họ nhận định “Nội dung sách không sai, chỉ là trình bày rất nhiều điều mà nhân loại chưa có cơ sở xác định cũng như chưa muốn thừa nhận”.
Trong nội dung quyển sách lại có những vấn đề liên quan đến việc giải tỏa sự căng thẳng trên biển Đông, việc leo thang chiến tranh ở các nước, việc sản xuất vũ khí hạt nhân, việc chống biến đổi khí hậu toàn cầu, việc dập tắt tham vọng bá quyền của các nước,…
Lẽ nào, tôi lại truyền trao sách âm thầm, tôi cũng hiểu rằng “Những vấn đề lớn của nhân loại muốn giải quyết thỏa đáng, toàn vẹn thì phải được đa số nhân loại đồng lòng lên tiếng”.
Xem ra việc truyền trao sách âm thầm không thật là giải pháp khả thi. Tôi kiên trì tìm đến cơ quan quản lý cao hơn nhằm giúp quyển sách được công nhận trước khi sách được công chúng thừa nhận.
Lại đợi một thời gian, tôi không có được câu trả lời thỏa đáng nhưng cũng có một ý kiến đóng góp giúp tôi vạch ra hướng đi mới.
Nội dung của ý kiến đóng góp là “Nội dung quyển sách tôi trình bày khá nhiều vấn đề, viết rộng,… vì thế rất khó được chấp nhận ngay lập tức. Thế nên, tôi cần viết thêm vài quyển sách, viết riêng cho từng vấn đề thì khả dĩ sẽ được xuất bản”.
Với ý kiến đóng góp này, tôi biết “Người góp ý đã tự thừa nhận nội dung quyển sách là không tệ”, tôi quyết định viết tiếp 4 quyển sách nhằm mục đích thoát ra khỏi ma trận do chính mình tạo ra.
Khi đó, tôi định hình bộ sách gồm 5 quyển:

- Hãy là đường xưa mây trắng bay…
- Đạo đức kinh thậm giải.
- Dứt phàm thành thánh.
- Xé nát xưa nay - Tập 1.
- Xé nát xưa nay - Tập 2.

Khác với cách viết đầy tâm huyết của quyển “Hãy là đường xưa mây trắng bay…”. Cách viết của những quyển sách còn lại có sự phóng khoáng, mạch lạc và chuyên biệt hơn.
Hoàn thành xong bộ sách, tôi tìm đến nhà xuất bản nhằm xin giấy phép đăng ký xuất bản. Ở một mức độ nhất định, bộ sách được thừa nhận, tôi lại phải đi tìm người mua bản quyền bộ sách nhằm giúp bộ sách được phát hành rộng rãi và cũng như là việc đáp ứng đủ kinh phí để tiến hành việc xuất bản, in ấn, phát hành.
Đáng tiếc! Tôi không tìm được người đồng cảm. Có một cảm giác chán chường, phiền muộn thoáng qua.
Không sai! Vô Ưu đã hơn một lần phiền muộn.
Tại sao Vô Ưu mà lại có sự muộn phiền?
Sau ngày đạt đóa vô ưu, tôi đã không còn phiền muộn cho đến khi khởi ra việc viết sách. Đã có những trăn trở trong khi thể hiện, trình bày nội dung quyển sách. Đã có những đêm dài không ngủ, suy tư “Viết làm sao để cho mọi người dễ dàng thông hiểu, lĩnh hội? Viết về cõi vô hình như thế nào cho mọi người có cái nhìn đúng thật, tin nhận sự tồn tại của thế giới tâm linh?”.
Việc quán chiếu chúng sinh trong 6 đường phải có sự tường tận, sáng rõ,… Viết cho từng vấn đề trong cuộc sống, giáo dục, khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội,… cần sự khách quan, tổng thể, chuẩn mực.
Bản chất và nguyên nhân sâu xa của hành động thể hiện “Tham vọng độc chiếm biển Đông”, sự manh động, sự rối loạn xã hội, tham vọng giành giật vị thế bá chủ ở các nước,… phải trình bày ra sao cho có sự logic, xác đáng, chân thật?
Viết và trình bày mọi vấn đề một cách rõ ràng, minh bạch, chuẩn xác đã là một điều khó. Nhưng nếu chỉ là những lời nói suông thì lấy ai tin nhận, tôi đã ghép mạng sống vào nhằm khẳng định giá trị, tạo ra tính xác thực, nghiêm túc cho những vấn đề trình bày. Việc làm đó cũng nhằm vào việc xoa dịu, làm giảm sự hờn giận, oán thừa,… ở những thành phần, những người mà tôi chạm đến trong quá trình viết sách, thể hiện việc tôi sẵn sàng chịu mọi trách nhiệm cho những việc đã làm,…
Vậy mà tôi không có được sự ủng hộ, hỗ trợ cho việc truyền trao bộ sách, cả về vật chất lẫn tinh thần thì làm sao tôi không có những phiền muộn?
Nhưng đó chỉ là những phiền muộn, trăn trở thoáng qua, nhẹ tênh. Nỗi buồn đó chỉ như là nỗi buồn của đứa trẻ thơ òa khóc vì khát sữa, như khi đứa bé vòi quà mà không được người lớn chú tâm,… chúng sẽ chóng quên, không chất chứa muộn phiền và oán hận. Dù vậy, tôi vẫn đi tìm lời giải cho những câu hỏi được nhen nhóm trong lòng.
Tại sao mọi người lại thờ ơ khi tiếp nhận bộ sách?
Sao mọi người không mở lòng ra để sống chung cùng với nhịp đập của trái tim nhân loại?
Trái tim nhân loại đang loạn nhịp và khắc khoải thở dài.
Tại sao con người ngày nay lại ít biết “Sống vì nhau”?
Lại một tấm lưới nhị nguyên bủa vây. Con người khi nghèo khó, đói ăn thì họ sẽ cố gắng, chăm chỉ làm, có được cái ăn thì họ tranh thủ ăn cho no bụng. Khi đã thoát ra khổ nghèo, có phần sung túc thì họ sẽ nhàn nhã hơn trong những lúc làm. Khi có đủ cái ăn họ không vồ vập như trước kia, họ từ tốn, chậm rải dùng bữa. Đến khi sự giàu có đến tột cùng thì con người sẽ không làm nữa, họ chỉ hưởng thụ, chỉ ăn những món ăn ngon, sang trọng và đôi khi “mâm cao, cỗ đầy” dọn bày sẵn trước mắt, họ cũng chẳng buồn “động đũa” vì thật sự là họ không cảm thấy thèm ăn. Họ cảm nhận đã no đủ, “an toàn”.
Liên quan đến bộ sách tôi cũng lại như vậy. Con người đã quen rồi với việc “cơm canh” được dọn sẵn. Thà rằng dịch thuật, in ấn, tái bản,… những bộ sách cổ xưa hoặc tác phẩm của những tác giả danh tiếng, đã được nhân loại thừa nhận sẽ “an toàn” hơn việc đứng ra in ấn một bộ sách mới của một người viết không chút tên tuổi.
Thêm nữa, nội dung của bộ sách thì lại trình bày nhiều vấn đề mà nhân loại chưa chuẩn bị tri thức thừa nhận là một việc làm không thật an toàn và ít nhiều mạo hiểm.
Tôi đã hiểu “Vì sao con người không thể vì nhân loại mà sống?”.
Vì bởi họ đã an toàn trong cái vỏ ốc được họ dày công xây dựng và tạo ra.
Không chỉ vậy! Xung quanh họ còn có không ít cái vỏ ốc đang cần sự an toàn. Họ nghĩ rằng “Sự an toàn của họ góp phần cho những cái vỏ ốc gần kề an toàn”. Thật ra, họ có biết “vì nhau mà sống”, tôi không nên phiền muộn, vội trách họ nhưng dẫu sao tôi cũng có sự chán chường.
Quả thật là tôi không thể trách phiền ai cả bởi vì tôi từng sống với một trái tim đã chết, chỉ nghĩ đến sự bình an, giải thoát cho tự thân,…
Dường như nhân loại có bao nhiêu cái sai thì tôi cũng có ngần ấy lỗi lầm. Rõ thật là tôi không có quyền hạn, tư cách mà oán trách người vì tôi vẫn đang từng bước sửa sai, hoàn thiện lại cá nhân và mọi việc.
Chẳng những vậy! Tôi thật lòng cảm ơn tất cả mọi người đã giúp tôi bình thản, tự tại đối diện với mọi sắc thái nơi cuộc sống xã hội.
Đã lâu rồi, tôi không xem truyền hình nữa nhưng tôi vẫn thường được nghe những thông tin như Triều Tiên, Ấn Độ,… thử nghiệm bắn tên lửa tầm xa, Trung Quốc không ngừng gia tăng sức ép các nước trong khu vực ở biển Đông về hải phận, Philipin đã lên tiếng thể hiện rõ lập trường “sống còn” với Trung Quốc, Tàu ngầm hạng nặng của Hoa Kỳ đã tiến vào biển Đông, người chết do những cuộc đánh bom liều chết không ngừng tăng lên, Syria và Lybia khắc khoải sống trong thù hận, tang thương, đau khổ,…
Tôi hiểu rằng “Tôi cần phải sớm rộng truyền bộ sách vào trong nhân loại”. Nếu một mai chiến loạn xảy ra, khi hận thù nung nấu, khổ đau, nước mắt và máu nhuộm khắp mọi nơi thì việc sửa sai sẽ lại càng thêm khó.
Nếu điều đó xảy ra thì tôi đã làm việc không đúng thời và không hết lòng vì bi nguyện của Như Lai cùng với lòng mong mỏi của nhân loại.
Tôi sẽ truyền trao bộ sách đến tay nhân loại bằng mọi khả năng mà tôi có. Cho dù phải “vắt cạn” sức lực, hơi thở,… Cho dù máu của tôi thấm ướt tất cả những nẻo đường mà tôi đã, đang, sẽ đi qua và giọt máu cuối cùng trong tôi khô cạn,… tôi vẫn hoàn thành việc trao truyền, trả chánh pháp về cho tri thức nhân loại.
Có lẽ việc làm đó là lẽ sống và hợp với lòng tôi.
Oa, oa, oa,…!
Tiếng khóc của một bé gái vừa mới chào đời giúp tôi choàng tỉnh. Tình yêu của em bé đối với người mẹ thật lớn lao, vĩ đại. Vì người  mẹ mà em bé đã phải khóc. Tiếng khóc đó đã giúp trái tim người mẹ sống lại và khe khẽ những nhịp đập bình yên.
Thật vậy, nếu chào đời mà những đứa bé không cất tiếng khóc thì có lẽ sẽ có nhiều bà mẹ phải chết và người cha cũng vạn phần đau khổ. Từ lâu, nhân loại đã quên bỏ điều này. Trái tim của cha mẹ với con cái là không cùng, là vô tận thì tình yêu thương của người con cũng không hề nhỏ nhoi, kém cỏi hơn.
Cảm ơn em! Cảm ơn tiếng khóc của thiên thần nhỏ bé! Em đã giúp tôi tôi nhận ra “Tôi hãy còn đang sống vì nơi trái tim tôi cũng đang khóc, giọt nước mắt của tình yêu thương”. Em bé nhỏ! Em đã giúp tôi “Lại một lần được khóc”.
Tôi sẽ vay tiền để xuất bản bộ sách. Xét lại nội dung bộ sách, tôi nhận ra “Cơ hồ còn thiếu một điều gì đó?”. Rồi tôi nhận ra “Còn thiếu ngọn gió đông”.
Có lẽ tôi lại phải viết thêm vài quyển sách nữa để tạo ra “ngọn gió đông” góp phần giúp bộ sách lan truyền nhanh, rộng và toàn diện.
Sau cùng, tôi quyết định chuyển bộ sách 5 quyển thành ra 6 quyển, kết hợp chung cùng 2 quyển sách được viết bổ sung và hoàn chỉnh bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người”. Nhằm giúp bộ sách dễ dàng hơn trong việc xin giấy phép xuất bản, đề tựa của vài quyển sách đã có sự thay đổi. Cụ thể, đề tựa của bộ sách 8 quyển gồm:

- Hãy là đường xưa mây trắng bay…
- Đạo đức kinh thậm giải.
- Dứt phàm thành thánh.
- Tùy bút luận xưa nay - Tập 1.
- Tùy bút luận xưa nay - Tập 2.
- Tùy bút luận xưa nay - Tập 3.
- Cánh cửa cuối đường hầm.
- Tìm em giữa bóng đêm.

Khác với cách viết bằng tâm huyết, sự phóng khoáng, mạch lạc của những quyển sách trước, quyển Tùy bút luận xưa nay - Tập 3 được tôi định hình với 1 chút chán chường, mệt mỏi,… Điều này được thể hiện qua những đề mục và cách hành văn, tôi biết rằng “Mình dường như đã không còn viết bằng tâm huyết như ban đầu, tôi đang viết bằng trách nhiệm, bằng việc thể hiện ra những vấn đề mà nhân loại, người học Phật đang cần tháo gỡ, những gút mắc.
Tuy nhiên, tiếng khóc của bé gái sơ sinh đã giúp tôi từng chút một gỡ bỏ những bước chân nặng nề trong nội dung quyển sách sau cùng.
Có lẽ với nguồn kiến thức được bổ sung trong bộ sách, mọi người sẽ ít nhiều tin nhận. Sự tin nhận đó chỉ dừng lại nơi niềm tin. Vì thế nhân loại cũng không thể sống theo sự chuẩn mực của chánh pháp. Vậy tôi sẽ chuyển niềm tin thành sự thật nhằm giúp nhân loại sáng rõ sự chân thật và hằng sống nơi chánh pháp, giải trừ đau khổ, hận thù,… mang lại niềm an lạc, giải thoát hoàn toàn ngay trong hiện kiếp nơi con người.
Vì sự thật đó tôi sẽ bước qua sinh tử bằng một giấc ngủ sâu mãi mãi mà không dựa vào sự tác động bên ngoài, tôi sẽ đi qua cõi vô hình bằng việc hành trì rời bỏ xác thân. Đây là việc làm cuối cùng mà tôi sẽ chứng thực cho nhân loại. Chỉ mong chánh pháp về sau tỏa rạng giúp con người và chúng sinh trong 3 cõi dứt trừ khổ đau, thù hận, cùng sự hiểu biết không sáng rõ - vô minh.
Rồi thì tôi cũng được cầm trên tay một khoản tiền vay 30 triệu đồng, là khoản chi phí dự tính cho việc in ấn 2 quyển sách đầu tiên. Xem ra những quyển sách sẽ được sớm đến tay người đọc. Nhìn lại những tờ giấy bạc được xếp ngay ngắn, đẹp đẽ chợt tôi lại nhớ đến những đồng tiền bẩn, ngón tay thối, người đẹp lộ hàng,...
Sao lại có khái niệm đồng tiền bẩn? Ngón tay thối? Là ngón tay của người sống mà sao lại trở thành ngón tay thối? Người đẹp lộ hàng? Con người sao lại trở nên là món đồ vật?... Ngôn ngữ phải chăng đã bị con người bóp méo, làm biến dạng đi tính thuần khiết, trong sáng và khách quan?
Tại sao nơi con người bán rẻ nhân cách, phẩm giá đạo đức,… bằng những hành vi hư xấu, không hay thì những ngôn từ quy ước đơn thuần mô tả một sự vật, hiện tượng lại bị bẩn dơ, ô nhiễm?
Ai đã làm cho ngôn ngữ trở nên bẩn dơ, nhiễm ô?
Lẽ nào con người ngày nay vì đắm mê thể hiện cái tôi mà bất chấp mọi hành vi, thủ đoạn những mong tạo được tên tuổi, người người ngưỡng mộ.
Việc làm thiếu chuẩn mực của những người đẹp, siêu mẫu, giới thượng lưu,… là thể hiện sự phóng túng, cuồng ngông, tha hóa nhân cách,… hay chỉ là một tai nạn, rủi ro nghề nghiệp?
Thực ra người tạo những scandan hay người viết lời bình cho những sự kiện trên mới là người nên “xét lại” giá trị của chính mình?
Hay những việc làm đó dựa trên lòng mong mỏi của nhiều người?
Từ một sự việc không chuẩn mực, qua quá trình nhào nặn, làm biến dạng ngôn từ tạo ra hàng loạt những sai lầm trong tư duy, nhận thức ở mỗi con người, dẫn đến giá trị, nhân cách con người trở nên méo mó, đảo lộn.
Những người tạo nên những sự kiện không minh bạch, scandan sẽ được gì?
Báo chí, người đọc chỉ trích, lên án hay thật ra đang cố “đánh bóng” tên tuổi của “nạn nhân” và làm giảm đi nhân cách của chính mình.
Những tờ giấy bạc mỏng manh lại chứa đựng đầy đủ những sắc thái biểu cảm nơi con người. Nào những tham lam, sân hận, si mê, tranh giành, vui buồn, được mất, đố kỵ, ganh ghét, sự cao thượng, tình yêu thương, sự chân thành, bác ái, tính hèn hạ, thói ích kỷ, bần tiện,…
Không chỉ vậy, những tờ giấy bạc chứa đựng cả giá trị nhân cách con người, sự giả tạo gượng ép, sự tha hóa suy đồi, sự trụy lạc, phóng túng, sự trơ trẽn, ngông nghênh, sự thánh thiện, một bàn tay nắm lấy một bạn tay, một ánh mắt sẻ chia, một tấm lòng đồng điệu,…

Khi tôi cầm trên tay một khoản tiền vay. Một thoáng mông lung, bất chợt tôi không nhận biết "Tôi là tiền hay tiền là tôi nữa?”. Cuộc sống bây giờ quả thật đảo điên. Con người có thể dùng tiền mua cả mạng sống người khác. Nếu điều đó xảy ra với tôi thì rõ thật "Tôi là tiền hay tiền là tôi?”. Tôi có thể tạo ra được tiền nhưng tôi cũng có thể vì những đồng tiền mà bị mất mạng.
Đồng tiền bẩn. Quái lạ! Đồng tiền cớ sao lại bẩn, bị rơi rớt ở nơi sình lầy, cáu bẩn chăng? Ồ không! Đồng tiền bẩn là do nơi cách thức con người tìm kiếm ra chúng. Vậy lòng người bẩn cớ sao lại bảo “đồng tiền bẩn”?
Tôi đã xem xét kỹ lưỡng lại đồng tiền. Ồ, tôi thấy mồ hôi của cha, nước mắt của mẹ, có cả máu của rất nhiều người: những người lao động chân chính, của bà bán vé số, của em bé đánh giày, cả những tên cướp, quân lính và máu của tôi,...
Ôi, đồng tiền có sự tham lam, ích kỷ, bội bạc nhưng lại cũng có sự thủy chung, chia sẻ, cảm thông,... Đồng tiền sao giống tôi đến thế cũng gian trá, lọc lừa, cũng miệng lưỡi chua ngoa,... lại cũng có tình yêu, sự chân thật, bình yên, an lạc, bình thản,...
Tôi có tham không?
Nếu ngày mai tôi bước trên đường mà nhìn thấy 2000, 5000 đồng tôi sẽ bình thản bước đi. Nếu 20.000, 50.000 đồng tôi sẽ mua vài tờ vé số, tìm sự rủi may và niềm vui ở một bà lão già nua. Nếu 5.000.000, 10.000.000, 20.000.000 đồng người đánh rơi có cơ may nhận lại. Nhưng nếu 100.000.000 - 1.000.000.000 đồng tôi e rằng sẽ không ai nhìn thấy và biết rằng “Tôi là người đã nhặt lấy rồi chiếm hữu số tiền bị đánh rơi”.
Ôi! Sao lòng tôi cũng chứa đầy những gian trá, đổi thay
 Vì tôi cũng chỉ là một đồng tiền bạc tình, bạc nghĩa!

Quả thật, đồng tiền, địa vị, danh vọng, của báu,… chứa đựng cám dỗ, lòng tham, máu, nước mắt, thù hận, khổ đau,… và giá trị con người. Nếu con người không rõ biết giá trị đồng tiền thì con người sẽ sa ngã và làm nô lệ của đồng tiền. Khi đó, con người sẽ sống với đầy dẫy mưu mô, thủ đoạn, toan tính,... Cuộc sống của những con người làm nô lệ cho đồng tiền cũng dần dần đánh mất sự ấm êm, bình yên, hạnh phúc.
Khi con người không đủ sáng suốt làm chủ đồng tiền thì nơi đồng tiền có chứa đựng sự tha hóa nhân cách đạo đức, sự suy đồi, ích kỷ, tội lỗi xấu xa,…
Trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều người giàu có, tài sản kết xù,… nhưng họ lại không nhận biết đồng tiền chỉ là phương tiện giúp họ có đời sống no đủ, hạnh phúc. Thế nên, những con người đó đã chọn lựa “làm nô lệ đồng tiền”. Họ mải mê, tham đắm kiếm thêm thật nhiều tiền mà không rõ biết “Họ đang kiếm tiền nhằm mục đích gì?”.
Do không xác định rõ cách thức dùng tiền, họ đã ném tiền vào những cuộc ăn chơi trác táng, trụy lạc, sa đọa, tự bán rẻ nhân cách với việc “bán mua” tình dục, ma túy, người tình,…
Do mải mê hưởng thụ, họ không nhận ra “Họ đã đánh mất đời sống hạnh phúc”. Con cái, vợ chồng, người thân,… giờ đã là những con nghiện, những kẻ giết người, trộm cướp,… đang kéo lê những tháng ngày dài sau song sắt của nhà tù và tâm hồn họ đang tự đọa đày với những khổ đau, ân hận dằn xé.
  1. Đôi Mắt.
    1. Khoa Học.
Hiện nay, tri thức khoa học đang có những thông tin trái chiều. Những thông tin khoa học đó dựa trên cơ sở tư duy, lập luận phiến diện, chủ quan và không ít sai lạc.
Cụ thể, trong khi một nhóm nhà khoa học sau khi phân tích nghiêm túc những nguồn thông tin, dữ liệu quan trắc đưa ra giả định “Trái đất mỗi ngày nặng thêm 100 tấn do bụi vũ trụ” thì một nhóm nhà khoa học khác độc lập nghiên cứu lại đưa ra nhận định “Mỗi năm trái đất nhẹ đi 50.000 tấn do vật chất của trái đất phát tán vào vũ trụ”.
Vậy nhóm nhà khoa học nào đã đưa ra giả định có tính chính xác?
Nguyên nhân cuối cùng dẫn đến việc tăng lên hay giảm nhẹ trọng lượng của trái đất thật sự là gì?
Chỉ thấy những giả thuyết, nhận định thiếu cơ sở khoa học, không mang tính tổng thể, chủ quan,…
Những giả định trên có giá trị gì?
Có chăng là chỉ làm rối trí không ít người và trói con người vào những sự hiểu biết lệch lạc.
Với tôi, từ xưa đến nay, trái đất luôn có sự trao đổi vật chất với vũ trụ, chưa bao giờ quá trình trao đổi vật chất giữa các hành tinh có sự dừng lặng.
Tại sao có sự trao đổi, hoán chuyển vật chất giữa trái đất và vũ trụ?
Vì trái đất cũng như những hành tinh khác, mặt trời, mặt trăng,… là một cơ thể sống. Sự trao đổi vật chất giúp chúng tồn tại trong không gian và thời gian. Mặt khác, tự thể mỗi hành tinh vẫn luôn tồn tại cơ chế tự cân bằng, ổn định tương đối tương ưng với tác động, nhiễu động tổng thể của tất cả các hành tinh, thiên hà, vật chất,... trong vũ trụ.
Tại sao trái đất phải trao đổi vật chất với bên ngoài?
Vì tâm ý của những thực thể sống đòi hỏi phải có sự trao đổi chất thì mới có thể tồn tại. Cụ thể, các loài thực vật, cây cối, thảm cỏ,… luôn cần Cacbon, Ôxi, Hidro,… ánh sáng, nước,… để tổng hợp nên các vật chất hữu cơ nhằm sinh trưởng và phát triển,... Những chủng loài động vật và con người gián tiếp hoặc trực tiếp sử dụng nguồn vật chất hữu cơ mà thực vật tổng hợp được nhằm tồn tại, phát triển. Vì thế luôn có sự luân chuyển vật chất trong trái đất và cả ở vũ trụ. Bởi lẽ, hiện nay dân số thế giới đã vượt 7 tỷ thì lượng vật chất hữu cơ đảm bảo cho nhân loại sẽ tăng vượt mức so với những thế kỷ trước. Lượng vật chất có trong trái đất với thời gian ngắn đã không thể chuyển hóa thành vật chất đáp ứng cho nhu cầu tổng hợp vật chất hữu cơ và bụi vũ trụ được trái đất hấp thu nhằm thỏa mãn nhu cầu đó.
Tuy nhiên, bụi vụ trụ không là vật chất tinh mà là những khối vật chất thô và sự sống đã phải “đãi cát đá tìm vàng” mà góp nhặt từng ít một lượng vật chất cần thiết.
Vì lẽ đó mà khối lượng trái đất không ngừng tăng lên, phải chăng chẳng bao lâu thì trái đất sẽ trở thành một khối rắn chắc và không còn thực thể sống (Theo quan niệm sống của khoa học)?
Thực ra, bên cạnh quá trình hấp thu bụi vũ trụ thì trái đất cũng tồn tại song song quá trình đào thải khối vật chất không thể hấp thu từ vũ trụ và cả lượng vật chất trơ có nguồn gốc ở trái đất mà qua quá trình “nhào nặn” của sự sống đã “mất chất”, không còn sử dụng được.
Có lẽ hai quá trình này đều diễn ra ở tất cả các hành tinh có trong vũ trụ, vật chất được đào thải chính là một phần vật chất có trong bụi vũ trụ. Vậy trái đất nặng lên hay nhẹ đi là hoàn toàn lệ thuộc vào việc vận hành lượng vật chất có trong nội tại trái đất, tùy vào tâm ý của thực thể sống mà nhất là nơi tư duy, nhận thức của con người.
Dù rằng luôn có sự tự cân bằng nội tại nhưng cơ chế điều hòa này chỉ mang tính tương đối. Thế nên khi sự vận hành vật chất của trái đất vượt giới hạn thì có những xáo trộn nhất định, đôi khi sự vượt mức sẽ dẫn đến việc tái cơ cấu lại vật chất trên toàn trái đất, trước khi trái đất lập lại sự cân bằng.
Giá trị của bụi vũ trụ là gì?
Bụi vũ trụ có giá trị bổ sung nguồn vật chất cần thiết mà sự sống đang đòi hỏi, dựa vào nhu cầu vật chất của trái đất.
Bụi vũ trụ từ đâu mà có?
Hãy quay về vấn đề lỗ đen vũ trụ. Giá trị của lỗ đen vũ trụ chính là tạo ra bụi vũ trụ, tái tạo lại vật chất lơ lững trong không gian thành lượng vật chất hữu ích.
Tại sao đến nay các nhà khoa học vẫn chưa nhận biết rõ về lỗ đen vũ trụ?
Vì mọi loại vật chất khi rơi vào lỗ đen thì mất dấu và cả ánh sáng cũng bị tan biến trong lỗ đen. Với những phương tiện thu nhận dữ liệu không gian chưa thật hoàn hảo hiện nay, giới hạn khoảng cách không gian và cả thời gian thu nhận dữ liệu là có sự sai biệt lớn nên các nhà khoa học không thể nhận diện lỗ đen.
Thêm nữa, có thể các nhà khoa học đã chọn sai vị trí, góc nhìn khi tìm hiểu lỗ đen. Họ đã chọn tâm của lỗ đen quan sát nên hoàn toàn mất hết mọi dữ liệu khi tiếp cận đến lỗ đen vì nơi đó áp suất, từ trường,… cực lớn. Đến nay, chưa có một loại vật chất nào có thể tiếp cận, cũng như xuyên thấu qua lỗ đen. Có lẽ các nhà khoa học nên đổi góc quan sát khi tìm hiểu, nhận diện lỗ đen.
Nhằm giúp bạn tiếp cận lỗ đen vũ trụ tôi sẽ trình bày về vòng xoáy nước được tạo ra do chênh lệch áp suất, độ cao,… Bạn hãy quan sát một vòng xoáy nước được tạo ra do chênh lệch độ cao.
Bạn sẽ thấy những vật chất liền kề bị hút vào vòng xoáy rồi biến mất và khi đứng ở trên nhìn xuống thì bạn khó có thể nhận biết đường dẫn, hình dạng của vòng xoáy nước. Nhưng khi đổi góc nhìn nhằm quan sát hình ảnh vòng xoáy nước ở dưới nước thì bạn sẽ nhận dạng được vòng xoáy nước rõ ràng hơn.
Mở rộng vấn đề ra bạn hãy quan sát vòi rồng hay một cơn bão. Bạn sẽ thấy một vòng xoáy cực lớn gồm những lớp không khí bao bọc nhưng đó là khi bạn nhìn từ bên ngoài. Nhưng nếu bạn quan sát ở ngay vị trí tâm bão thì bạn chỉ thấy những khối vật chất khổng lồ bị hút vào tâm bão và mất hút. Bởi lẽ cột xoáy của cơn bão không là một đường thẳng. Bạn sẽ có thể tìm thấy khối vật chất bị vòi rồng hút ở một nơi khác và phần lớn bị biến dạng, nát vụn. Một tấm tole dài, dẹp sẽ bị vo tròn lại, một ngôi nhà bị xé nát vụn, một chiếc xe méo mó, nhăn nhúm,… Điều này cho thấy sức nghiền, áp suất được tạo ra nơi tâm bão,… là rất dị thường, khủng khiếp,…
Tương tự như vậy, phải chăng lỗ đen chính là vòi rồng vũ trụ và áp suất tạo ra nơi lỗ đen là không dễ nghĩ bàn?
Với sức mạnh kinh khiếp đó thì nhiệm vụ của lỗ đen là nghiền nát, tái cấu trúc lại vật chất cho vũ trụ, không gian.
Việc làm của lỗ đen có giá trị gì?
Những hành tinh bị tan hoại, những mảnh vỡ của vật chất trôi nổi khắp không gian, chúng va đập tạo ra những xáo trộn, những vụ nổ làm ảnh hưởng đến sự cân bằng thường tại của vũ trụ. Chúng đủ lớn nên không thể kết dính với những hành tinh và chúng tồn tại trong không gian mà không có một giá trị rõ ràng. Lỗ đen đã “Nuốt chửng” và nghiền nát chúng ra thành bụi vũ trụ. Khi đó chúng trở nên có ích cho sự sống vì chúng dễ dàng được các hành tinh hấp thu, giữ lại và chuyển hóa.
Tôi lại nói về mặt trời đang nóng lên là do sự tác động từ trái đất. Bạn hãy kiểm nghiệm lại thực nghiệm sau:

Hãy lấy một thỏi nam châm vĩnh cữu có lực nam châm vào khoảng 5 newton và giữ cố định thỏi nam châm đó. Tiếp theo bạn hãy lấy một thỏi nam châm khác có lực nam châm cũng vào khoảng 5 newton. Đặt thỏi nam châm gần kề và cùng cực với thỏi nam châm được cố định. Do đặt cùng cực nên chúng sẽ đẩy nhau tạo ra một khoảng cách, giả sử khoảng cách được tạo ra là 10 cm. Bạn lại cố định tương đối thỏi nam châm còn lại (Đồng nghĩa với việc thỏi nam châm được dịch chuyển trong giới hạn cho phép). Kết nối thỏi nam châm còn lại với nguồn điện và làm thay đổi  thỏi nam châm trên thành 1 thỏi nam châm điện. Bạn hãy gia tăng cường độ dòng điện tạo ra lực nam châm điện tăng từ từ đến giá trị 15, 20, 25,… newton. Bạn sẽ thấy khoảng cách hai thỏi nam châm được nới rộng, giữ như thế một khoảng thời gian nhất định. Sau đó, bạn ngắt nguồn điện và đo lại giá trị lực nam châm ở thỏi nam châm vĩnh cữu. Rõ thật là đã có sự sai khác, lực nam châm của thỏi nam châm vĩnh cữu không dừng lại ở con số 5 newton.

Trái đất, mặt trời và những hành tinh khác về cơ bản là không khác với những thỏi nam châm. Chúng đã tự cân bằng và cố định tương đối về vị trí trong không gian. Giữa chúng luôn có sự tương tác qua lại về từ trường, áp suất, ánh sáng,… Sự thay đổi nội tại của một hành tinh bất kỳ đều có sự tác động đến tất cả hành tinh khác và ngược lại. Mặt trăng, mặt trời, trái đất cũng không là ngoại lệ.
Hiện nay, nếu dùng sự hiểu biết tổng thể, nhận thức, tư duy khách quan tri thức nhân loại sẽ tự thừa nhận “Trái đất đang nóng lên từng ngày là do nơi nội tại của trái đất”. Chính những đòi hỏi nhằm đáp ứng nhu cầu ánh sáng, năng lượng, từ trường,… của trái đất mà mặt trời ngày càng trở nên nóng bức hơn.
Chính do sự đòi hỏi nhu cầu vật chất, năng lượng, ánh sáng,… vượt giới hạn và kém hiểu biết mà con người đã tạo ra những hệ lụy khi nung nóng trái đất, tạo ra nguy cơ “Trái đất chuyển mình”.
Nhằm đảm bảo tính an toàn, bền vững tương đối kết cấu vật chất nên quỹ đạo di chuyển của trái đất, mặt trời, các hành tinh,… luôn được giữ ở vị trí cố định tương đối. Bởi lẽ khi áp suất, từ trường, năng lượng,… vượt giới hạn thì trái đất, các hành tinh sẽ lệch khỏi vị trí cố định tương đối và chuyển mình nhằm lấy lại sự cân bằng, ổn định. Tuy nhiên, khi mọi thứ vượt mức giới hạn an toàn thì trái đất sẽ nổ tung.
Hiện tại, con người vẫn đang làm chủ việc tồn tại của sự sống nơi trái đất và con người cũng đóng vai trò quyết định về sự tồn vong của trái đất, nhân loại cùng muôn loài.
Lại một câu chuyện nói lên mối tương tác giữa mặt trời và trái đất. Một câu chuyện rất thú vị, rất thật, rất đời thường,...

Hãy xem mặt trời là một cô gái chân dài, ngực nở, eo thon, nóng bỏng và trái đất là một anh tá điền vạm vỡ, rắn rỏi. Câu chuyện tình yêu bắt đầu. Trải qua một thời gian dài tìm hiểu rồi yêu nhau, chàng lực điền và cô gái trẻ chấp nhận kết hôn. Dưới sự chứng kiến của đức Cha Tạo Hóa, một cuộc hôn lễ được tổ chức long trọng với đủ mặt mọi người mặt trăng, sao thủy, sao kim, sao mộc,...
Lẽ ra, cô gái và chàng trai sống đến ngày "răng long đầu bạc", hạnh phúc bền lâu, trăm tuổi bên nhau. Nhưng chàng trai lại là người "tham dâm, túng dục", cô gái lại rất nóng bỏng và khêu gợi. Những cuộc mây mưa kéo dài, không ngừng nghỉ, không kể ngày đêm. Chỉ một thời gian rất ngắn, chàng trai trẻ đã đốt cháy hết năng lượng tình dục, tinh lực của cơ thể. Chỉ mới hơn 45 tuổi mà chàng trai đã tiều tụy, hình hài. Nhưng do "ăn quen, nhịn không quen" chàng trai đã vắt kiệt sức khỏe của chính mình và chàng trai gục chết vào một đêm hoang lạc ở độ tuổi 52, chết trên xác thân người đẹp. Một cuộc tình nông nổi. Cô gái cũng không còn quá trẻ và sống cô độc suốt phần đời còn lại.

Hẳn đây không là một câu chuyện tình không có cơ sở khoa học, logic và thực tế.
Thêm nữa, bạn hãy xem lại vấn đề sự sống theo quan niệm khoa học hiện tại, có thể là với khái niệm sự sống gói trong phạm vi hạn hẹp như thế sẽ là thiếu xót lớn. Thực tế là sự sống có ở khắp mọi nơi, mặt trời, trái đất, các hành tinh,… đều là cơ thể sống cả. Nếu mặt trời không là thực thể sống thì trái đất, con người không thể sống, chẳng có sự sống tồn tại,...
Khoa học, tri thức nhân loại từ lâu đã tìm hiểu cội nguồn của sự sống. Nhưng khi tìm hiểu sự sống khoa học lại đi mò mẫm, dò tìm trên xác thân vật chất mà lại không nhận thức được rằng phần tâm ý vô hình mới thật là gốc của sự sống. Bỏ gốc tìm ngọn thế nên khoa học mãi mãi không thể tìm ra nguyên nhân có sự sống trong vũ trụ.
Con người nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi mọi thứ ở bên ngoài mà sự sống chính ở nơi tự thân lại không rõ biết “Tại sao một xác thân vật chất lại có thể đi đứng, nói cười, buồn vui,…?”.
Do không thấu rõ cội nguồn sự sống, con người mà nhân loại đang sống dựa trên hàng loạt những tư duy, nhận thức sai lầm.
Con người sống mà lại không biết “Vì sao con người lại sống?”, “Sống vì điều gì, sống để làm gì?”,…
Khổ đau, thù hận, chiến tranh, bạo loạn,… cũng tạo ra do những sai lầm nơi nhận thức, tư duy ở loài người.
Muốn rõ biết sự sống con người có lẽ tri thức nhân loại nên quay về tìm hiểu tâm thức vô hình có trong xác thân vật chất của con người và vạn vật.
Ngay khi con người mở mắt chào đời thì tế bào thần kinh là tổ chức sống duy nhất không được thay thế, bổ sung trong suốt quá trình sinh lão bệnh tử của đời người. Những tế bào thần kinh được hình thành, phân hóa, chuyên biệt,… trong quá trình bào thai phát triển và hoàn chỉnh. Với những tế bào khác của cơ thể thì luôn diễn ra quá trình thay thế, bổ sung xuyên suốt cả đời người.
Tại sao có sự khác biệt giữa tế bào thần kinh và các tế bào cơ, tế bào máu, tế bào mô,…?
Tri thức nhân loại cho rằng việc truyền giữ những dữ liệu, thông tin,… là rất phức tạp. Do đó, việc thay thế sẽ làm gián đoạn, mất dữ liệu ghi nhận trong não bộ, cũng như là những thông tin di truyền.
Lập luận này có thật sự chuẩn xác không?
Sự co bóp ở tế bào cơ tim cũng không hề đơn giản, chỉ cần chút ít “lỗi nhịp” thì con người sẽ chết, phải chăng tế bào cơ tim cũng cần không được thay thế, bổ sung?
Dường như tế bào thần kinh không được thay thế còn ẩn chứa những nguyên nhân sâu kín hơn. Nó chứa tập tính giống loài, chứa thông tin di truyền nhiều đời về việc di truyền nòi giống, việc giăng tơ ở nhện, việc tạo kén ở sâu, việc lột xác ở côn trùng, ếch nhái,… Có những điều mà mọi loài và con người không học vẫn rõ biết như việc giao phối, đẻ trứng, đẻ con, nuôi con,… Xem ra tế bào thần kinh phức tạp hơn rất nhiều lần so với sự nhận định của nhân loại về vai trò và chức năng mà tri thức nhân loại đã gán ghép nơi tế bào thần kinh.
Phải chăng tế bào thần kinh chứa đựng cả thông tin di truyền của dòng tộc, cả nghiệp nhân quả khi thần thức nương gá vào bào thai và cả sự hiểu biết, tâm ý của thần thức chúng sinh trong 3 cõi?
Đúng sai?
Có không những việc mà con người chưa từng được học hỏi mà vẫn nhận biết. Những phát minh, thành tựu khoa học đôi khi không hoàn toàn do học hỏi mà con người sáng tạo ra.
Thêm nữa, có rất nhiều vấn đề tôi trình bày trong bộ sách lại không có nguồn gốc từ việc học hỏi qua trường lớp, kinh sách,…
Bộ não của mỗi con người thật ra tự thể đã chứa nguồn thông tin, dữ liệu vô cùng dồi dào, phong phú và cập nhật không ngừng từ rất nhiều đời, nhiều kiếp,… Việc học hỏi sự hiểu biết ở cuộc sống, trường lớp,… sẽ góp phần từng bước mở những cánh cửa tri thức đã bị lãng quên.
Việc mở những cánh cửa tri thức có trong não bộ mỗi người lệ thuộc nhiều vào sự học hỏi, sự hiểu biết khi con người tiếp xúc với cuộc sống. Thông thường những người có đời sống nội tâm phong phú, tâm hồn rộng mở sẽ mở được những cánh cửa tri thức hữu ích, có giá trị thực tiễn cho nhân loại và họ thường sống tốt, hạnh phúc,…
Tôi vốn không phải là một người nghiên cứu khoa học nhưng vì tôi nhận ra “Có một vài lỗ hổng nơi tri thức khoa học nên mở lời đóng góp”. Những điều tôi đóng góp là đúng hay sai, tri thức nhân loại hãy từ từ “xét lại”, đừng vội phiến diện, chủ quan khi nhìn nhận, đánh giá một vấn đề.
  1. Giáo dục.

Ngày … tháng … năm …
Gửi cho tuổi học trò!

Anh biết rằng rồi có một ngày anh sẽ ngồi lại để cùng em bày tỏ đôi điều. Khi đó, anh cùng em sẽ có dịp ngồi nhìn lại những con đường, những năm tháng đã qua, rồi chiêm nghiệm và chọn lấy cho riêng mình những con đường dấn thân vào đời. Dẫu rằng con đường đó không trải đầy hoa hồng, nhung gấm giàu sang nhưng ở đó có sự gần gũi sẻ chia, tình yêu thương và niềm hạnh phúc.
Tuy nhiên, anh cũng không là người anh độc đoán trói buộc em vào con đường mà anh sẽ chọn lựa cho em. Anh sẽ không làm thế, không chọn lựa con đường cho em mà chính em mới thật là người chọn lựa lối đi của riêng mình. Vì lẽ anh hiểu em cũng giống như anh, là một người khao khát sự tự do trong cuộc sống. Chỉ khi nào tự lòng em hiểu rõ, nhận biết rồi chọn lựa con đường em bước đi thì em mới trân trọng và kiên định với chọn lựa của riêng mình mà không bị lung lạc, buông xuôi khi một ai đó. Ví như là anh ngăn cản, khuyến dụ em rẽ lối vào con đường không đúng với mong mỏi của lòng em.
Cũng như em anh đã từng trải qua những năm tháng thơ dại, hồn nhiên. Rồi anh lớn lên để đến trường được học tập vui đùa cùng chúng bạn. Hình ảnh chiếc khăn quàng đỏ thắm, những điểm số 9, 10 chứa đựng niềm kiêu hãnh của anh và mẹ cha. Tuy nhiên, tuổi học trò của anh cũng không ít lần vụng dại. Những điểm số 1, 2 cũng thường nép sâu trong trang vở học trò. Dẫu vậy những điểm số đó vẫn không trốn tránh được cái nhìn của mẹ. Ở nơi đó có nỗi buồn của anh, sự thất vọng của thầy cô, tiếng rầy la của cha, những đòn roi của mẹ và anh đã khóc.
Không chỉ vậy tuổi thơ của anh còn có cả những lần trốn học rong chơi, việc không thuộc bài, việc đi học muộn,... Năm tháng dần trôi áo trắng học trò giờ anh xa mãi, cũng có những nuối tiếc đã qua nhưng dẫu sao anh vẫn dấu yêu những năm tháng học trò trong sáng, thơ ngây và tươi đẹp.
Em thấy không? Giống như em anh đã từng có ngần ấy tháng năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, cũng nếm trải tình thầy trò cao đẹp. Để hôm nay, anh ngồi lại đây nhìn những bước chân em đi trên con đường mà ngày xưa anh đếm bước rồi suy niệm, nhớ về những ngày đã qua.
Chiều nay, trời đã đổ mưa nặng hạt. Anh vẫn lặng lẽ ngắm nhìn những bong bóng nước rượt đuổi nhau trên dòng nước đục ngầu xuôi chảy hòa vào con kênh nhỏ bên hông nhà. Những chiếc bong bóng nước thi nhau vỡ tung và hòa lẫn vào dòng nước ngầu đục. Trời mưa khiến lòng anh chậm lại. Anh đã dừng lại và nhớ về em.
Có lẽ bây giờ anh sẽ ngỏ lời tâm tình cùng em vì bởi trời mưa cũng làm cho em dừng lại để lắng nghe, nhìn nhận và chọn lựa bước đi tiếp theo cho đời em khi cơn mưa tạnh hẳn.
Em à! Vài tuần trước anh có ghé thăm cô giáo chủ nhiệm năm anh học lớp 9. Anh ghé thăm cô vì được biết chồng cô vừa dừng xạ trị sau khi phải thực hiện hai ca phẫu thuật tháo khuỷu tay rồi sau tháo cả khớp vai phải. Gặp cô anh mới được biết khối u đã di căn vào các bộ phận khác gây co cơ khiến thầy đau đớn rất nhiều. Nhà cô thì lại neo người, cô vẫn phải ngày ngày đến trường truyền trao kiến thức cho các em. Hỏi thêm, anh được biết 2, 3 năm sau cô mới đến tuổi nghỉ hưu. Hỏi về việc học của em, anh nhận thấy ánh mắt cô như buồn hơn. Cô nói “Học trò bây giờ khác thời bọn anh nhiều lắm. Học trò ngỗ nghịch, xem thường thầy cô và phụ huynh cũng không còn quan tâm nhiều đến việc học của con em. Tất cả chỉ còn là tiền và ngành giáo dục thì chạy theo thành tích”. Dù rằng cô vẫn muốn truyền trao kiến thức cho thế hệ mai sau trưởng thành nhưng cô mệt mỏi lắm với thái độ, nhân cách của học trò thời nay. Cô không biết liệu có đứng vững để tiếp tục hướng dẫn học trò với tình yêu nghề giáo đã giúp cô đứng vững ngần ấy năm.
Nhìn gia cảnh của cô anh thấy thương cô nhiều hơn. Anh cảm nhận được lòng yêu nghề của cô cũng như nỗi buồn ẩn chứa trong lòng cô vì sự đổi thay ở thế hệ trẻ ngày nay. Anh lại nhớ khi anh còn là một cậu học trò lớp 9. Đã có lần anh phạm phải sai lầm suýt phải rời khỏi ghế nhà trường. Chính cô đã giúp anh đứng lên và tiếp tục đi trên con đường học vấn. Anh biết anh cần phải làm một điều gì đó dẫu rằng là có muộn màng và cho dù là vô nghĩa. Anh vẫn sẽ làm vì đó là tiếng nói của lòng anh.
Việc làm đó không thể là lời xin lỗi, tiếng cám ơn gửi đến cô vì tình yêu nghề giáo của cô sâu nặng lắm.
Đó cũng không thể là lời răn dạy nghiêm khắc của người anh gửi đến em mà chỉ là lời tâm tình của một người anh đã từng nông nổi và không muốn nhìn thấy người em thân thương vấp phải những lỗi lầm xưa cũ mà anh đã từng phạm phải.
Anh chỉ mong ánh mắt của những giáo viên yêu nghề, sống với tâm đạo, với niềm mong mỏi thiết tha là việc truyền trao kiến thức, sự hiểu biết đến thế hệ mai sau,… không đượm buồn vì sự vụng dại, lầm lỗi của những cô cậu học trò trong sáng, ngây thơ.

Tự Truyện Của Một Người Bạn

Năm lên 4 tuổi, trong một lần cùng mẹ bắt trùn cho ba cắm câu cá trê, tôi hỏi mẹ:
- Mẹ ơi có phải trên đời này ai cũng phải chết  không
 Mẹ tôi trả lời:
- Đúng ai cũng phải chết.
Lúc đó, trong lòng tôi buồn vô cùng và suy nghĩ hướng về cái chết. Và tôi nói tiếp câu chuyện với mẹ:
- Vậy sao mình không chết luôn bây giờ đi, chớ sống làm chi rồi sau này cũng phải chết?
Mẹ tôi trả lời:
- Đúng trên đời này ai cũng phải chết vì thế khi sống mình phải sống sao cho có ý nghĩa? Không phải sống cho bản thân mình là đủ, còn phải sống cho người khác nữa, con phải cố gắng học tập và làm những việc có ích cho xã hội nữa, còn phải giúp đỡ mọi người.
Tôi hứa với mẹ sẽ cố học, sau này trở thành kỹ sư. Thế là từ đó ngày nào tôi cũng phụ giúp ba mẹ, anh chị làm những việc mà bản thân mình có thể làm được. Đặc biệt, bản thân tôi không như những bạn cùng trang lứa thích chơi những trò chơi dân gian, trái lại tôi chỉ thích học hỏi, tìm tòi và mỗi tối tôi thường nhờ mẹ chỉ cho làm toán, đánh vần, học viết. Với 24 ngày học lớp 1 ít ỏi của mẹ (Mẹ tôi chỉ được đến trường học có 24 ngày và học lóm thêm) nhưng cũng khá đủ cho tôi có được những nền tảng cơ bản của một đứa trẻ thơ trước khi cấp sách đến trường.
Rồi thời gian cứ trôi đi, tôi vào lớp 1, lớp 2,... rồi đến lớp 6. Năm nào tôi cũng được học sinh khá, giỏi của trường.
Một hôm, thấy một người bạn cùng xóm, được cha mẹ cho nghỉ học để đi cắm câu cua, mỗi ngày kiếm được hơn 30 nghìn đồng, tính ra mua gần 20 kg gạo, một người ăn có thể cả tháng trời. Suy đi, nghĩ lại và nhẩm tính nếu học thêm 6 năm học phổ thông trung học cộng  thêm 4 năm đại học nữa thì tôi mới trở thành một kỹ sư, tổng cộng là 10 năm, tổng số tiền mà cha mẹ bỏ ra để cho mình học phải trên 200 triệu đồng. Nếu bây giờ, mỗi ngày mình chỉ kiếm 30 nghìn đồng như đứa bạn  thì trong 10 năm mình đem về cho cha mẹ cũng gần 150 triệu đồng. Vừa không tốn tiến, vừa được tiền cho cha mẹ, thế là tôi tự trốn học 2 hôm, thấy cử chỉ, thái độ biểu hiện khác thường của tôi, mẹ tôi dò xét, cuối cùng tôi cũng phải nói và thú thật tất cả với mẹ của tôi.
Mẹ không mắng tôi mà nhẹ nhàng nói:
- Cuộc sống không phải chỉ có tiền là đủ con à, con phải học đi học, chỉ có học con mới hiểu được lẽ phải, mới có điều kiện kiếm được nhiều tiền, rồi con mới giúp được nhiều người. Nếu như sau này rừng đước không còn cua để con cắm, con không còn  sức khoẻ để làm thuê, làm mướn thì làm sao con nuôi cha mẹ được?
Tôi như hiểu ra nhiều thứ, tôi tiếp tục cắp sách đến trường, hàng ngày chỉ biết học và học, không kể ngày đêm, rảnh thì  phụ giúp gia đình, việc chơi xếp lại một bên. Dù đầu óc tôi không được thông minh nhưng với sự động viên nhiệt tình của mẹ cùng mọi người trong gia đình tôi như được tiếp thêm sức mạnh, phấn đấu cho đến ngày được vào rồi ra đại học và có việc làm ổn định như hôm nay.
Tất cả là mẹ đã cho tôi đấy!

Cảm ơn tự truyện của bạn! Cách viết và suy nghĩ của bạn rất chân chất, mộc mạc, đáng trân trọng!
Tôi lại biết đến một câu chuyện khác.

Có một cậu con trai sống trong một gia đình đông anh em ở một vùng quê đồng chua, nước mặn. Cha cậu là một người nông dân nghèo, không có nhiều ruộng đất. Hàng ngày, ông phải làm thuê với rất nhiều việc khác nhau để chăm lo cho gia đình như dựng nhà, cuốc đất, be bờ, nhổ mạ,… Dù vậy, người cha vẫn lo cho các con ăn học.
Đến năm 12, 13 tuổi, cậu bé trai thấy chán ngán việc học. Cậu trốn học được vài hôm thì cha cậu biết được, người cha liền bảo:
- Bây giờ, cha cho con chọn lựa. Một là con ăn học để nên người, hai là con sẽ phải cầm cái cuốc để tự nuôi sống bản thân.
Cậu bé đã chọn lựa cầm cái cuốc để vào đời. Hôm sau, người cha đi làm cùng với cậu con trai. Ném cái cuốc cho con, cậu bé đã bắt đầu bước vào đời. Người cha đó đã rèn luyện cho cậu con trai biết làm lao động và học đức tính chăm chỉ, cần mẫn,…
Đến nay, cậu bé trai đó đã trưởng thành với 1 gia đình có một người vợ và 2 đứa bé con. Cuộc sống của gia đình tạm ổn và chàng thanh niên đó nói với tôi rằng “Sẽ nuôi cho con ăn học thành tài vì cuộc sống lao động chân tay thật vất vả, nặng nhọc”.
Với đức tính chuyên cần, chịu khó,… chàng trai đó được mọi người trong vùng quý mến, tin tưởng giao cho nhiều việc mà họ cần làm. Nhờ vậy, chàng thanh niên có thể bán sức lao động và mang về những đồng tiền chân chính xây dựng tốt cuộc sống gia đình.

Những người nông dân chân chất, ít học nhưng họ vẫn biết cách nuôi dạy con cái trở thành những công dân có ích cho xã hội. Thật đáng trân quý thay tấm lòng của những người nông dân chân quê, thuần khiết!
Thực trạng ngành giáo dục hiện nay đã không còn chú trọng đến việc rèn luyện nhân cách, đạo đức cho con người. Người học trò bước vào ngành giáo dục bằng một sự gượng ép mà không bắt nguồn từ sự yêu thích học hỏi. Cùng với một dung lượng kiến thức khổng lồ, không sáng rõ, không có giá trị thực tiễn cho cuộc sống,… được nhồi nhét vào bộ não không được nâng cấp về mặt vật chất xuyên suốt quá trình con người ra đời và tiến hóa. Việc học trở nên quá tải đối với những hệ thần kinh non nớt, nhỏ bé. Người học trò ngày nay phần lớn rất chán ngán việc học.
Thêm nữa, người học trò không nhận thức rõ giá trị của việc học.
Học để làm gì?
Cha mẹ có học đâu mà vẫn giàu, có “của ăn, của để” trong khi đó có khối người được đào tạo qua trường lớp kỹ sư, bác sĩ, giáo viên,… với vô số bằng cấp vẫn thất nghiệp, đói nghèo.
Với lối sống thực dụng và quyền trẻ em được “khuếch đại” những người giáo viên có tâm huyết khó thể răn dạy những cô cậu học trò. Họ thật sự mệt mỏi, chán chường việc giáo dục nhưng họ không dễ rời bỏ việc dạy học. Họ đã được “đào tạo” để nhằm vào việc dạy học, việc dạy học đảm bảo cơm áo gạo tiền cho bản thân và gia đình. Từ bỏ việc giáo dục sẽ đưa họ vào tình trạng bấp bênh trong cuộc sống.
Quả thật, ngọn lao khi đã phóng đi khó thể thu hồi lại. Những người đang làm trong công tác giáo dục bị rơi vào tình huống “Tiến thoái lưỡng nan” và đành “nhắm mắt” bước đi. Việc giáo dục tiến cũng được, thoái cũng được, đến đâu hay đến đó, trước mắt là làm cho xong trách nhiệm mà ngành giáo dục giao phó. Dù vậy những người giáo viên không tránh khỏi điều tủi nhục và buồn bã.
Lối sống thực dụng, quyền trẻ em, đồng tiền trở nên có giá trị hơn nhân cách, kiến thức của các thầy cô. Những người học trò chán học, trở nên rất khó dạy bảo, đánh mất hẳn sự ngoan hiền. Chỉ cần người giáo viên rầy mắng học trò thì sẽ bị ngành giáo dục khiển trách. Nếu chẳng may việc đến tai phụ huynh thì phần lớn trường hợp rầy la học trò của giáo viên bị giới phụ huynh không tiếc lời miệt thị, mắng nhiếc.
Không rõ từ bao giờ người phụ huynh học sinh được quyền xâm phạm nhân cách của giáo viên?
Có lẽ từ khi con người trói vào quan niệm “Có tiền là có tất cả”. Người học trò không cần việc học, cha mẹ người học trò không coi trọng việc học.
Ngành giáo dục trở nên thừa thải vì không có sự cải cách phù hợp với tình hình hiện nay, định hướng giáo dục lại không sáng rõ, chạy theo thành tích của các nhà quản lý, áp lực của xã hội.
Trường lớp, cơ sở vật chất đã xây dựng, không tổ chức giảng dạy thì dùng vào việc gì?
Người học trò và gia đình “bị buộc” cho con em đến trường.
Ngành giáo dục thì lại không thật rõ trói con người vào việc học để làm gì?
Xã hội đặt ra áp lực cho ngành giáo dục về việc giảng dạy cũng không rõ biết “Học để được gì?”. Với hàng loạt sai lầm con người đặt ra yêu cầu cho giới trẻ “Hãy học đi mà không cần nhận thức rõ giá trị của việc học”.
Chính từ những áp lực không thật rõ ràng mà cả phụ huynh lẫn học trò đều không nhận thức được giá trị việc học là cần thiết. Theo yêu cầu từ xã hội con người bỏ tiền ra mua ngành giáo dục sự thừa nhận “Là công dân có văn hóa” và không cần biết giá trị thật của việc học.
Giáo viên là người truyền dạy kiến thức, nhân cách của cả thế hệ tương lai lại không được xã hội coi trọng và bị tước đoạt mọi quyền hạn, phương tiện hỗ trợ việc giảng dạy.
Khi đó, người giáo viên còn có thể làm được việc gì?
Người giáo viên trong xã hội hiện tại cơ hồ như là những chiến sĩ được đẩy ra chiến trường mà không có bất kỳ một thứ vũ khí nào, không có một tấc sắt trong tay và họ phải hoàn thành trách nhiệm tối quan trọng là phải chiến thắng, phải giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Điều này có thể thực hiện được không?
Người giáo viên đang rơi vào tình trạng bức bách, dồn ép đến đường cùng.
Mặt khác, những ngành phụ trợ cho ngành giáo dục được bảo trợ đến có phần vô lý. Hơn 20 năm trước, một bộ sách giáo khoa ra đời được sử dụng luân chuyển. Điều này có nghĩa là những thế hệ sau vẫn học cùng một quyển sách với thế hệ trước.
Xét ở mức độ tiết kiệm vật chất, điều này ít nhiều có sự chuẩn mực. Do lượng sách không nhiều nên người học trò rất quý trọng sách vở.
Ngày nay thì sao?
Một bộ sách giáo khoa ra đời chỉ có tuổi thọ một năm vì năm sau đã có sự cải cách, thay đổi theo chương trình của bộ giáo dục. Trên thực tế nội dung bộ sách gần như không có sự thay đổi nhưng xã hội lại đồng thuận làm đó.
Tại sao?
Vì việc làm đó giúp giải quyết việc làm cho một lực lượng người. Nếu ta xét ở góc độ tiết kiệm vật chất thì dường như con người đang hoang phí vật chất. Dường như việc làm của nhân loại đang áp dụng rộng rãi ở thời điểm hiện tại là làm biến dạng vật chất nhằm lấy đi giá trị thặng dư của những người lao động sản xuất trực tiếp sản phẩm tiêu dùng thiết yếu, tạo ra rất nhiều giá trị thặng dư ảo, không thật.
Nếu xét trên diện rộng và lâu dài thì tôi đảm bảo rằng việc làm biến dạng vật chất không có lợi ích bằng việc tiết kiệm vật chất. Vấn đề giải quyết lực lượng lao động ở xã hội không thể xây dựng dựa theo định hướng sai lầm, không sáng rõ. Bởi lẽ khi không có công việc ở những ngành nghề làm biến dạng vật chất vô ích và việc phân định giá trị thặng dư xã hội hợp lý thì những người lao động sẽ tìm đến những việc làm ở những ngành nghề có giá trị hữu ích hơn.
Không chỉ vậy! Việc sử dụng hoang phí vật chất tạo ra lượng sách giáo khoa dư thừa dẫn đến con người không xem trọng sách vở, đồ dùng học tập. Người học trò sẽ không dùng lại bộ sách giáo khoa chỉ mới được dùng qua 1 lần hoặc chưa từng dùng đến nhưng là sách giáo khoa của năm học trước vì mặc cảm không “bằng chị, bằng em”.
Thói quen hưởng thụ, hoang phí, thể hiện cái tôi đang được nuôi lớn ở giới trẻ ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Từ một sự sai lầm trong tư duy của thế hệ trước tạo ra vô số sai lầm trong nhận thức của thế hệ sau.
Việc sửa sai sẽ mất rất nhiều thời gian, trải qua nhiều thế hệ. Bởi lẽ giới trẻ ngày nay không mặn mà với việc đọc sách nuôi dưỡng tâm hồn, rèn luyện nội tâm, tu thân.
Giới trẻ đang sống hưởng thụ, đam mê thể hiện cá tính, phong cách và bị cuốn vào những trò chơi ở các phương tiện truyền thông, phim ảnh,…
Việc học không đúng mực đã khiến giới trẻ chán ngán việc đọc sách. Nếu con người không sớm nhận ra những lỗ hổng nhằm cùng sửa sai thì nhân loại sẽ rơi dần vào những hậu quả nghiệt ngã, khó lường và tàn khốc.
Tại sao tôi cứ mãi nói về vấn đề giáo dục?
Vì dù con người sống trong thời đại nào thì giáo dục cũng là ngành then chốt quyết định tương lai của nhân loại. Quả thật tôi mệt nhoài với việc trình bày các vấn đề liên quan đến ngành giáo dục.
Nếu tôi không nói thì ai sẽ nói?
Đến bao giờ mới có người lên tiếng ở góc độ tổng thể, khách quan?
Cũng như những vấn đề khác được trình bày trong bộ sách tôi thật sự không nhằm vào việc thể hiện cá nhân. Đó chỉ những điều tôi nhìn thấy, nhận biết và tôi đã nói thật lòng mình bằng vào sự khách quan, không chỉ trích, không xuyên tạc, không tô hồng vấn đề,…
Nếu cứ mãi nói về cái tâm của người làm công tác giáo dục, việc giáo viên bây giờ bị cuốn vào căn bệnh thành tích của ngành giáo dục,… thì đến bao giờ mới nói đến tận cùng?
Những con số thống kê liên quan đến vấn đề giáo dục có bao nhiêu phần trăm thể hiện thực chất?
Bao nhiêu người được đào tạo qua trường lớp không tìm được công việc thích hợp mà phải làm công nhân trong các xí nghiệp may, công nhân sản xuất rượu bia, làm nhân viên tiếp thị, nhân viên quán bar, café,…?
Vì chạy theo thành tích mà có bao nhiêu người tốt nghiệp lại không có đủ kiến thức chuyên môn, kiến thức phổ thông và nhân cách đạo đức làm người?
Có lẽ ngành giáo dục đang phát triển mà thiếu đi sự định hướng sáng rõ. Thế nên việc đào tạo mới trùng lấp, tràn lan mà không có tính chuyên sâu nhằm đáp ứng theo nhu cầu thực tế xã hội.
Còn người học thì cũng không định hướng được rõ ràng con đường tiến thân nên không chọn được ngành học thích hợp. Vì thế người học không tích lũy được lượng kiến thức cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu công việc. Kết quả có không ít người có trong tay nhiều loại bằng cấp mà không thể tìm được một công việc ổn định, thích hợp, đành làm công nhân, nông dân, nhân viên bảo vệ,… Số người học khác rơi vào tình trạng “lỡ thầy, lỡ thợ” không biết xoay chuyển, sống như thế nào trong cuộc sống bon chen, cám dỗ, thực dụng,…
Cũng như những bộ ngành khác, hiện trạng ngành giáo dục đang có những bước đi chệch choạng. Người có công trở thành kẻ gây ra tội, đáng chê trách,... Gần đây là việc một cậu học sinh dùng máy ghi hình quay lại việc gian lận trong thi cử.
Trong khi việc xử lý sai phạm của những người làm sai trong công tác giáo dục chưa được sáng rõ thì việc ghi hình cảnh tiêu cực của cậu học sinh lại được đưa ra mổ xẻ. Cậu học sinh bị trói vào việc vi phạm quy chế thi cần được có hình phạt thích đáng.
Nếu việc này được thực thi thì về sau liệu còn ai dám chỉ ra những sai phạm, tiêu cực của ngành giáo dục cũng như ở các bộ ngành khác?
Nếu điều đó xảy ra thì phải chăng xã hội đang cố bao che, dung túng cho những việc làm tiêu cực, sai phạm tồn tại?
Tôi sẽ kể một câu chuyện.

Có một gã ăn trộm tìm cách đột nhập vào một tòa nhà sang trọng. Hắn không ngờ rằng “Đó là sào huyệt của một nhóm khủng bố quốc tế, buôn bán vũ khí, ma túy, bắt cóc tống tiền”. Sau khi vào trong tòa nhà, tên trộm tình cờ nghe được kế hoạch đặt bom khu trung tâm thương mại và việc ám sát một nguyên thủ quốc gia. Tên trộm rất run sợ và trốn thoát ra ngoài. Hắn quyết định đến cơ quan an ninh trình bày những gì “mắt thấy, tai nghe”. Không may cho hắn, viên cảnh sát địa phương lại hỏi hắn “Đột nhập vào nhà người khác làm gì?”. Tên trộm thành thật khai báo, ngay lập tức hắn bị tống giam và chờ ngày xét xử mà chưa kịp trình bày âm mưu của nhóm tội phạm nguy hiểm.

Vào thời xa xưa, những tên trộm sẽ bị trừng phạt bằng việc chặt tay. Việc làm của lực lượng an ninh trên có khác nào là hành động “chặt tay” tên trộm và tự làm “mù mắt” của chính mình.
Trong hệ thống giáo dục còn có rất nhiều những bất cập khác như bạo lực học đường, nạn học sinh học làm đàn anh, đàn chị, việc tập tành làm người lớn đã tạo ra những bà mẹ trẻ con, ngôn từ của học sinh đang bị “kẻ chợ hóa”. Việc nói tục, chửi thề,… đang được giới trẻ tôn vinh, thể hiện đẳng cấp, cá tính của mỗi người, việc bỏ học đi ăn chơi, đua đòi trụy lạc, sa đọa của các cô cậu học sinh không ngừng gia tăng theo thời gian, việc bài bạc, trộm cướp, ma túy, mại dâm,… do giới học sinh - sinh viên thực hiện đã không còn là chuyện ít gặp,…
Ngành giáo dục và xã hội dường như chưa có giải pháp khả thi nhằm giải quyết rốt ráo những vấn đề bất cập trên.
Phải chăng là do cơm áo gạo tiền, địa vị, quyền lợi, trách nhiệm bị “đá qua, đá lại”?
Phải chăng đó là việc của thiên hạ?
Khi ngành giáo dục và xã hội không còn chú trọng việc rèn luyện nhân cách đạo đức, giá trị con người cho giới trẻ cũng như cho chính tự thân thì việc xã hội hỗn loạn, lòng người rối ren, đảo lộn là điều không khó xảy ra.
Mai này, cuộc sống xã hội sẽ ra sao khi con người chỉ biết sống cho riêng mình, tự tư, tự lợi?
Việc giáo dục ở gia đình, con người đã quên bỏ do bị cuốn vào cuộc sống vật chất. Những bậc làm cha mẹ chỉ còn biết tìm cách gom góp tiền của rồi dệt giấc mơ “Người con là một thiên tài” và bằng mọi giá họ sẽ biến điều đó thành sự thật. Không ít những người làm cha mẹ đã rất xem trọng đồng tiền vì họ nghĩ “Có tiền là có tất cả”. Ném cho con cái những khoản tiền lớn và sẵn sàng bỏ tiền ra mua điểm số, thành tích học tập cho con.
Cầm số tiền lớn trong tay cả phụ huynh và học sinh không coi trọng giá trị nhân cách cùng kiến thức của giáo viên.
Lẽ ra khi không cần sự hiểu biết của giáo viên thì họ không cần đến trường nhằm gom góp kiến thức.
Nếu tiền có thể mua được sự hiểu biết và che dấu được sự ngu ngốc, tối tăm trong tâm hồn thì xã hội không cần giữ lại ngành giáo dục xem chừng không còn hữu ích.
Việc dùng tiền mua kiến thức đã tạo ra những tri thức giấy, kém cỏi về kỹ năng sống, thoái hóa về đạo đức,…
Nếu xã hội vẫn xây dựng quan điểm giáo dục theo định hướng hiện tại nhân loại sẽ về đâu?
Có thể nói thế hệ trẻ đang được xã hội bảo bọc quá mức. Thế hệ trẻ được cung phụng nhiều hơn so với những gì họ cần. Kết quả họ đã không trân trọng những gì đang có.
Đã là con người thì phần lớn đều trưởng thành trong sự thiếu thốn, gian truân, khó khăn. Khi tất cả đều đầy đủ thì con người sẽ mất đi động lực phấn đấu. Vì thế thế hệ trẻ hiện nay đã không thể tư duy, nhận thức được “Học để làm gì?”.
Với nhận thức “Có tiền là có tất cả” con người đâu cần phải tập trung cho việc học.
Tôi không cho rằng “Những bậc làm cha mẹ không chăm lo, bảo bọc, nâng đỡ thế hệ trẻ”.
Tôi chỉ góp lời “Hãy yêu thương con cái một cách đúng mực, giúp cho giới trẻ rèn luyện nhân cách, phẩm chất đạo đức, hàm dưỡng đời sống nội tâm, tinh thần lành mạnh, biết giúp đỡ lẫn nhau, biết yêu thương chân thành, biết sống vì nhau, sống có sự hiểu biết, coi trọng nhân cách, giá trị con người và tự thân,…”
Việc cầm trên tay số tiền lớn, lối sống thực dụng, đua đòi,… thế hệ trẻ lao vào việc thể hiện đẳng cấp, bản lĩnh, bộc lộ cái tôi cuồng ngông của những đứa trẻ chưa trưởng thành. Yêu cuồng, sống vội, đốt cháy đời mình trong những tệ nạn xã hội, nghiện hút, quan hệ tình dục bừa bãi, sống buông thả,…
Học sinh - sinh viên sử dụng ngôn từ của kẻ chợ nhằm thể hiện cái tôi, những clip quay phim sex mà diễn viên là những cô cậu học sinh, clip những học sinh nữ đánh nhau, lột quần áo,… được tung lên mạng internet.
Quả thật nhân cách giá trị của thế hệ trẻ đang đảo điên mà nguyên nhân là do sự thiếu quan tâm của những bậc làm cha mẹ và việc giáo dục đạo đức con người bị ngành giáo dục lãng quên.
Còn gì nữa?
Còn rất nhiều những lỗ hổng trong ngành giáo dục ở cả trường học, gia đình và định hướng học tập của giới trẻ.
Tôi chỉ có lời góp ý cho giới trẻ khi chọn việc dùng ngôn từ kẻ chợ để thể hiện cái tôi của chính mình. Bạn hãy tự trưởng thành hơn và đặt bản thân vào vai trò làm người cha, người mẹ. Bạn hãy lắng nghe những đứa con bạn nói ra những lời thô tục, khó nghe,…
Phải chăng lời nói của mỗi con người sẽ giúp bạn nhận ra nhân cách đạo đức, giá trị của con người mà bạn đối diện?
Một lời xin lỗi tôi xin gửi đến từ “kẻ chợ”, tôi không cố ý đồng hóa bạn với những ngôn từ thô tục, những thói hư, tính xấu,… tôi chỉ là mượn ngôn từ giả lập mà con người thường dùng để trình bày vấn đề.
Hơn nữa, có lẽ những ngôn từ mà kẻ chợ đã từng dùng e rằng cũng còn lịch sự, sạch sẽ,… so với ngôn từ mà không ít giới trẻ đang sử dụng.

Đừng trông chờ sự thay đổi ở mọi người và cuộc sống, bạn hãy dùng sự hiểu biết, tư duy, nhận thức,… nhằm chọn cho mình một cuộc sống thích hợp, hạnh phúc. Mỗi người, mỗi thành phần xã hội,… phải tự cứu lấy mình vì nếu không tự mình đứng lên, sửa sai thì sẽ không có một đấng quyền năng nào có thể giúp bạn thoát ra khỏi vòng xoáy nghiệt ngã của cuộc sống.
Mai này nếu thế hệ trẻ đều là kỹ sư, bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư, giới trí thức, chính trị gia, nhà kinh tế, người mẫu, ca sĩ, cầu thủ, vận động viên,… mà không có người lao động thì nhân loại liệu có còn tồn tại?
Việc học phải chăng cần tiến lên một bước cao hơn là học nhằm mục đích học hỏi sự hiểu biết, rèn luyện nhân cách đạo đức để nhận biết giá trị của tự thân, nuôi dưỡng tinh thần, hàm dưỡng nội tâm, tâm hồn,…?
Việc học nhằm hướng đến việc xây dựng một đời sống vật chất - tinh thần an vui, tốt đẹp, ấm êm, hạnh phúc và sống hài hòa, bình đẳng, yêu thương thành thật.
  1. Văn hóa - Nghệ Thuật - Thể Thao.
Hiện tại, những vụ scandan liên tiếp xảy ra trong giới văn nghệ sĩ, giới nghệ thuật, thể thao, giới thượng lưu, lắm bạc nhiều tiền,…
Những đường dây gái gọi, mại dâm cao cấp, việc đóng phim sex, chụp ảnh khỏa thân, lộ ảnh nóng, lộ hàng, việc trác táng của giới cầu thủ, việc bán độ, cá độ, những canh bạc bán mua, việc suy đồi tha hóa nhân cách của giới diễn viên, ca sĩ, người mẫu,… những lời phát ngôn, những hành vi thể hiện phần nào nhân cách phẩm hạnh của những con người đại diện cho công chúng.
Hàng ngày, bạn hãy xem một vài tờ báo và bạn sẽ không khó nhận ra giá trị con người đang suy đồi, xấu xa.
Tại sao những tờ báo cứ mãi phanh phui những scandan, những việc sai trái của giới thượng lưu ngày càng nhiều?
Báo chí phục vụ cho nhu cầu người đọc, phải chăng người đọc đang chú tâm vào đời tư của người khác?
Thích thú xem người khác rơi vào những cám dỗ cuộc sống, vũng lầy xã hội rồi luận bàn và cười khinh bỉ, miệt thị.
Việc viết ra những scandan của giới người mẫu, ca sĩ,… theo nhu cầu người đọc nhằm tạo danh tiếng, địa vị, tiền của nơi người viết và giá trị nhân cách của người viết sẽ ra sao?
Nghệ thuật khi vượt mức sẽ trở nên phi nghệ thuật. Chụp ảnh khỏa thân sơ khởi chỉ là ảnh nghệ thuật nhưng do việc cạnh tranh, ganh đua không lành mạnh đã tạo ra những bộ ảnh lộ liễu, trơ trẽn, những thân hình trần trụi.
Những bức ảnh vượt mức nghệ thuật đó có đẹp không?
Đẹp bởi lẽ chúng được ghi nhận từ những thân hình đẹp, gợi cảm, bốc lửa của những người đẹp, siêu mẫu chân dài.
Nhưng nếu quay về thời điểm con người ăn lông ở lỗ thì những bức ảnh đó có nhiều khác biệt không?
Tiền và thủ đoạn của con người đã khiến con người bán đi nhân cách, giá trị tự thân với mọi hình thức.
Phim ảnh ngày nay dường như cũng đã mất phương hướng, hoặc tìm về quá khứ, hoặc hướng đến tương lai, tạo ra những bộ phim với phép màu huyền bí, những anh hùng với những tài năng không thật, robot,… Đó chính là dấu hiệu nhận biết con người đang có những rối loạn nội tâm, không tin vào chính mình. Họ mệt mỏi, chán chường nơi cuộc sống, mong mỏi một phép mầu dù là huyễn hoặc. Đó cũng là dấu hiệu thể hiện con người đang kiếm một “bến đỗ” nhằm nương gá sự bình yên tâm hồn hoặc ý thức “tìm quên” thực tại nghiệt ngã nơi cuộc sống.
Phải chăng con người đang tự lừa dối chính mình?
Chủ nghĩa anh hùng được gieo vào lòng thế hệ trẻ nhưng một xã hội yên bình thì làm sao có những anh hùng?
Những người trẻ tuổi sống thực dụng, buông thả,… thể hiện cá tính đã làm cho xã hội rối ren với những hành vi cuồng ngông, dại dột, vi phạm luật pháp,…
Có vẻ nhân loại đang xây dựng dựa trên vô số những sai lầm và ở trên mọi lĩnh vực.
Ngôi sao nhí, diễn viên trẻ, người đẹp,… là thần tượng của rất nhiều người?
Quả thật là rất hào nhoáng, thượng lưu nhưng họ còn quá trẻ để đứng trên đỉnh vinh quang. Không ít những tài năng trẻ đã choáng ngợp với vầng hào quang sáng chói. Đời sống nội tâm, nhân cách đạo đức nếu không được hàm dưỡng đúng mực thì họ sẽ gục ngã, bán rẻ giá trị chính mình. Ngay trên đỉnh vinh quang thì cũng chính thật là địa ngục trần gian vì lại có nhiều tài năng trẻ lại tỏa sáng. Muốn giữ được vị trí tối cao thì phải rèn luyện thêm tài năng.
Đáng tiếc! Chủ nghĩa thực dụng và lối sống hưởng thụ, con người lầm lạc xây dựng một con đường ngắn hơn để giữ lấy danh tiếng, sức thu hút công chúng bằng việc tạo ra những scandan.
Việc vô tình, cố ý “lộ hàng”, những tấm ảnh khỏa thân, scandan tình ái,… sẽ giúp công chúng chú ý nhiều hơn. Thêm nữa, công chúng muốn nhìn ngắm những đôi chân dài thế nên vải quần phải ngắn lại, công chúng muốn ngắm những bộ ngực căng tròn vì thế cổ áo được khoét rộng và bó sát hơn. Nhưng những kẻ mới nổi lên lại ăn mặc ngắn hơn nữa, thế là những bộ quần áo trong suốt, thiếu vải được thiết kế nhằm phơi bày tất cả những đường nét gợi cảm của xác thịt con người.
Đẹp không?
Rất đẹp nhưng tràn ngập, lộ liễu thế nên mọi thứ trở nên tầm thường và nhân cách con người cũng trở nên tầm thường, mất chất. Danh lợi, địa vị, tiền tài,… đã dìm những ngôi sao, người đẹp, hoa hậu,… xuống tận cùng của đáy xã hội.
Một số ngôi sao, diễn viên, người mẫu danh tiếng,… nhận biết cái đẹp không trường cửu nên đã làm bất cứ mọi việc chỉ mong có được khoản tiền lớn. Những đại gia lắm của nhiều tiền đã chi ra một khoản tiền lớn để “qua đêm” cùng người nổi tiếng.
Khi con người có rất nhiều tiền và sống hưởng thụ thì có điều gì mà không thể xảy ra?
Ngay trong giới thượng lưu quả thật có không ít người sống đời sống suy đồi, sa đọa, thác loạn,… Người xưa đã nói “Nhàn cư vi bất thiện” chính thật là một lời nói đúng, chuẩn mực.
Dù là người kém cỏi nhưng tôi cũng có lời gửi đến giới người mẫu, ca sĩ, diễn viên, cầu thủ, ngôi sao,… Bạn đang đứng trên đỉnh vinh quang và dưới chân bạn là vực sâu muôn trượng. Bạn là người của công chúng. Một số người đã đưa bạn lên tột đỉnh vinh quang thì cũng có một số người khác sẵn sàng dìm bạn xuống nơi tận cùng xã hội, nhân cách phẩm giá của bạn không còn gì cả khi bạn phạm chút ít sai lầm. Công chúng có thể tung hô gọi bạn là thần tượng nhưng họ cũng sẽ nguyền rủa bạn suốt đời nếu bạn phạm sai lầm. Thế nên, bạn hãy cẩn trọng hơn trong cuộc sống, hãy sống bằng tài năng thật sự của chính mình.
Những scandan mà bạn cố tạo ra sẽ khiến công chúng biết nhiều đến bạn hơn nhưng khi đó giá trị con người của bạn đã bị đánh mất. Công chúng sẽ tìm hiểu về bạn nhằm đánh giá, miệt thị và khinh rẻ bạn chứ không vì tài năng thật sự của bạn. Thói đời vẫn thế và khi công luận lên tiếng, cuộc sống của bạn sẽ được đặt trong ống kính, những lời bình luận gây scandan, ít có sự cảm thông.
Thật ngột ngạt, đúng không?
Đến khi bạn đánh mất sự nghiệp thì có lẽ bạn sẽ mất tất cả, có thể giá trị bạn lúc bấy giờ còn thấp thỏi hơn cả nhân cách một cô gái bán dâm rẻ tiền, đưa đón khách hàng đêm.
Dù cho bạn lẩn trốn giới truyền thông ở một nơi xa xăm, không còn ai biết đến.
Phải chăng cuộc sống gia đình bạn  bị đảo lộn, có thể người thân bạn sẽ rời bỏ bạn và con bạn phải sống làm sao khi biết quá khứ hư hèn của cha mẹ?
Cuộc sống hưởng thụ và chủ nghĩa thực dụng khiến “Tiền có thể mua được tất cả”. Giá trị con người diễn viên, người mẫu, ngôi sao thể thao,… những người đang sống trên khối tài sản khổng lồ vẫn được bán mua.
Có lý nào câu nói “Điều gì không thể mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền” lại trở thành một lời nói chuẩn mực?
Những scandan mua bán tỷ số trận đấu của các ngôi sao thể thao huyền thoại ở những giải đấu thể thao danh giá. Công luận vẫn cứ lên tiếng nhưng sai phạm thì vẫn luôn tiếp diễn ngày càng tinh vi hoặc trơ tráo, nghiêm trọng hơn.
Những ngành nghề không tạo sản phẩm vật chất cho nhân loại nhưng lại chiếm lấy phần hơn “giá trị thặng dư”. Do sở hữu rất nhiều tiền của mà không biết dùng chúng vào mục đích hữu ích gì mà con người đã tạo ra hàng loạt những sai lầm bán rẻ nhân cách, giá trị con người của vô số người, nạn cá độ đỏ đen được hợp thức hóa nhằm lấy đi nước mắt, máu, mạng sống của những người “hám lợi” tham gia trò chơi, làm cho “tan nhà, nát cửa”, đau khổ chất chồng.
  1. Sự sống.
Sự sống vô thường hay thường tại?
Sự sống nơi vạn vật và con người là vô số những biến chuyển, đổi thay,...
Vạn vật thì cứ loanh quanh vòng tròn sinh trụ dị diệt, thành trụ hoại không. Còn con người và muôn loài thì lẩn quẩn trong vòng luân hồi sinh lão bệnh tử.
Sự sống thật vô thường. Chính nơi vô thường mà sự sống thường tại. Vạn vật có trong sự sống luôn biến chuyển, đổi thay, sinh diệt. Chỉ có không gian và đất nước gió lửa chứa đựng sự đổi thay vô thường là thường tại.
Nhằm giúp cho việc nhìn nhận tình chất vô thường và thường tại ở nơi sự sống được sáng rõ, tôi sẽ “xét lại” sự sống ở nơi con người.
Bạn hãy dừng lặng lại để quán sát mọi sự vật, hiện tượng đều vô thường, biến chuyển. Từ lâu rồi bạn đã bị cuốn vào dòng chảy của sự sống. Do mãi lặn ngụp trong vòng xoáy của không gian, thời gian mà bạn quên mất việc dừng lặng, chiêm nghiệm lại sự hiểu biết, nhìn nhận lại những quãng đời đã qua.
Bây giờ, bạn hãy nhìn lại gia đình của những người quanh nơi bạn sống. Những đứa bé đã lớn, những ông già, bà cụ đã không còn, một số gia đình đã chuyển nhà đi nơi khác… Có những gia đình giàu sang, danh tiếng ngày xưa giờ đã lụn bại, con cháu lưu lạc, đứa nghiện hút, đứa tù tội. Những người già một thời danh giá, giàu sang giờ không dám ngẩng mặt nhìn mọi người, họ đang kéo dài quãng đời lê thê, khắc khổ chỉ để chăm nom đứa cháu trai nằm liệt giường sau một tai nạn đua xe.
Ôi! Những con người đã một thời quyền quý, nhìn đời bằng ánh mắt kẻ cả, vênh váo, miệt thị những người xung quanh.
Cũng lại có những gia đình nghèo khó đã vươn lên cuộc sống ấm no, đủ đầy. Con cháu họ đã đến trường học, chúng miệt mài học cả ngày đêm. Có những tuổi thơ đã bị đánh cắp. Lại có những gia đình sống hài hòa, ấm êm và hạnh phúc,…
Cuộc sống với hàng loạt những biến chuyển vô thường và bạn hãy nhìn lại chính mình. Ngày nào bạn mãi thả diều, bắt bướm, giờ bạn đã là một chàng trai, một cô gái,… Không. Tóc bạn đã hoa râm còn đâu nữa mái đầu xanh, sức khỏe rắn rỏi của tuổi xuân 18,...
Chỉ dừng lại thôi bạn sẽ nhận ra và rõ biết rất nhiều điều.
Vòng xoáy cơm áo gạo tiền khiến bạn lãng quên và đánh mất rất nhiều thứ.
Một khoảng trống nội tâm, sự bất an trong tinh thần, khoảng cách dường như vô tận giữa hai thế hệ,… Rồi sẽ có lúc, bạn tự nhủ “Ta đã già, rồi ta sẽ phải chết. Chết ta sẽ về đâu?”.
Nếu bạn không hàm dưỡng nội tâm, tinh thần,… thì bạn sẽ rất hoang mang, lo sợ.
Khi đó, hơn ai hết bạn sẽ biết rằng “Ta không muốn già yếu. Ta không muốn chết, ta muốn tiếp tục sống”. Bạn đã vội quên rằng “Con người được sinh ra, được sống thì sẽ phải chết. Đó là quy luật bất di, bất dịch không thể thay đổi của một chu trình sống bất kỳ”. Sự sống quả thật rất vô thường.
Bạn hãy thận trọng quán chiếu, nhìn nhận lại mọi vấn đề. Đừng vội bàng quan, thờ ơ “Chuyện của người ta” vì bạn thật sự đang nhìn nhận và viết lại cuộc đời của bạn cùng gia đình dòng tộc.
Tuy nhiên, cũng có người nhận ra cuộc sống rất ngắn ngủi và họ nghĩ rằng “Chết là hết” hoặc là những người u mê, vội quên quy luật sinh lão bệnh tử của một đời người. Vì thế những con người ấy đã sống trong tham đắm, hưởng thụ bất chấp mọi luân lý, dùng mọi thủ đoạn nhằm đoạt về những thứ mà họ ham muốn, đam mê.
Kết quả của việc giành giật là tạo ra thù hận, khổ đau trong nhân loại và họ sẽ sớm chết do những hành vi trái đạo. Dù rằng họ cố gắng che đậy những việc làm xấu xa nhưng họ chỉ có thể “lừa người” chứ không thể “gạt chính mình”. Với những tối tăm, gian trá trong tâm hồn họ sẽ sớm chết.
Chết - Họ sẽ về đâu?
Sự sống của một kiếp người thật không thường tại.
Xã hội ngày nay phát sinh ra nhiều hiện tượng xã hội mới lạ. Đồng tính nữ, đồng tính nam, mại dâm nữ, mại dâm nam,…
Vì sao?
Cuộc sống hưởng thụ si mê, lối sống thực dụng, ích kỷ, việc bình đẳng giới sai lạc làm người nữ bộc lộ bản tính mạnh mẽ và khiến cho người nam trở nên yếu đuối hơn,… Lối sống sai lầm phát khởi từ tư duy, nhận thức lệch lạc ở nơi con người.
Bạn thấy sự khác biệt gì nơi thế giới muôn loài trong tự nhiên và con người?
Khi xét trên phương diện tổng thể, dựa vào đa số giống loài dường như có một sự phát triển sai quy luật tự nhiên đã âm thầm tồn tại trong nhân loại. Phần lớn chủng loài trong tự nhiên có giống đực thường đẹp rực rỡ hơn giống cái.
Thêm nữa, tỷ lệ đực cái ở các giống loài tự nhiên vẫn thường không cân bằng, giống đực ít hơn giống cái rất nhiều lần.
Dù vậy giống đực vẫn phải ve vãn, làm dáng,… về vũ điệu, màu sắc, tiếng kêu,… để thu hút, quyến rũ bạn tình.
Nhưng ở loài người thì lại khác có lẽ do tâm ý phân biệt và sự hiểu biết không ngừng được nâng cấp mà con người đã có sự xây dựng, phát triển loài người theo khuynh hướng trái với tự nhiên.
Thực tế là giống cái loài người thời tiền sử và ở những dân tộc ít người không hề có hình thể đẹp hơn giống đực. Nhưng ở thời người hiện đại thì lại khác, giống cái được mặc định là người đẹp.
Tại sao lại có sự sai khác giữa loài người với phần lớn chủng loài sinh vật có trong tự nhiên?
Nguyên nhân là do từ thời xa xưa khi chuyển từ xã hội loài người ở chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ. Người đàn ông trong xã hội loài người đã dùng sức mạnh giành lấy quyền lực.
Nhằm thỏa mãn dục tính và với vai trò thống trị người đàn ông đã thừa nhận quyền chiếm hữu nhiều người nữ, lập ra “Tam cung, lục viện” với vô số cung tần, mỹ nữ để hưởng dục.
Do tính phân biệt cao ở con người mà việc chọn lựa những người con gái tiến cung được dựa trên những tiêu chuẩn đẹp chung nhất và khái niệm người nữ là người đẹp ra đời.
Trải qua thời gian dài thừa nhận thì người nữ được mặc nhiên xem là người đẹp ở loài người. Nhân loại đã phát triển tiêu chí người đẹp dựa trên tâm ý của con người và phát xuất từ lòng tham dục của người đàn ông, lòng tham sắc của người nữ.
Người nữ đã dựa trên tâm ý phân biệt về những tiêu chuẩn đẹp được xã hội thừa nhận nhằm tạo ra vóc dáng, hình thể, làn da và khuôn mặt.
Việc này được tích lũy dần qua nhiều thế hệ, nhiều đời,… dựa vào tàng thức của con người sau khi chết đi và luân hồi trở lại nẻo Người.
Một câu hỏi đúng sai lại được nhân loại đặt ra.
Thôi! Bạn hãy nhìn nhận xem có phải vóc dáng, hình thể, vẻ đẹp của con người ngày càng đẹp hơn không?
Điều gì đã tạo ra điều khác biệt đó?
Hẳn không là do nơi khoa học đã giữ lại những gen chứa vẻ đẹp cho loài người, cũng không do nơi phẫu thuật mà con người ngày càng đẹp xinh hơn. Bởi do tôi đang trình bày vấn đề vẻ đẹp con người đang tiến hóa theo quy luật tự nhiên có sự chi phối của tâm ý chứ không gói gọn vẻ đẹp con người qua việc nhào nặn của dao kéo và khoa học.
Tuy nhiên, do nơi tâm ý phân biệt người nữ ngày nay tạo ra vẻ đẹp lại không hoàn toàn nhằm đáp ứng theo nhu cầu, tham dục của người đàn ông mà một phần nhằm thể hiện sự ham muốn bộc lộ cái tôi nơi bản thân.
Có một sự ích kỷ từ ngàn xưa len lõi trong tâm thức của giới nữ, họ chỉ muốn giữ vẻ đẹp cho riêng mình, thể hiện sự vượt trội về sắc đẹp hơn những người cùng giới và chỉ tạo ra sự ham muốn nơi người nam nhưng sẽ không có sự chiếm hữu. Nhưng hiện tượng trên chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong lòng nhân loại. Cuối cùng thì phần lớn người nữ cũng tìm về một bến đỗ gia đình, tựa vào bờ vai của người đàn ông.
Không chỉ vậy. Sự phát triển con người dựa trên tâm ý phân biệt lại có một sai lầm khác. Trong tự nhiên, ở các loài khác giống đực thường phải ve vãn, tán tỉnh thu hút giống cái nhưng ở loài người dường như đang diễn ra quá trình ngược lại.
Dù rằng trên bình diện và số đông nhân loại vẫn lầm lạc tin rằng người nam thường chủ động tìm hiểu, tán tỉnh,… người nữ.
Nhưng thật ra là đã có một sự thay đổi, biến chuyển âm thầm. Dường như người nam ngày một mất dần thế chủ động trong tình yêu ở một xã hội đang nâng tầm vị thế người nữ cùng với phong trào bình đẳng giới.
Nếu khách quan, tổng thể nhìn nhận thì nhân loại sẽ không thể “lừa mình, dối người” cho rằng “Tôi đã trình bày sai về vấn đề này”.
Tại sao lại có chuyện người nữ ngày càng chủ động tìm đến nửa còn lại hơn?
Vì họ cần có một mái ấm gia đình, cần có một người chồng cùng sống hết quãng đời còn lại. Trong khi đó số lượng người nam trong xã hội luôn ít hơn số lượng người nữ. Phong trào bình đẳng giới khiến người nữ tự tin trong việc chọn lựa hơn là chờ đợi.
Có một điều chắc chắn rằng “Nếu mãi chờ đợi thì người nữ sẽ dễ rơi vào tình trạng sống cô độc suốt đời hoặc làm thân phận người thứ ba, vợ bé, tình hờ,…
Thêm nữa, lối sống thực dụng khiến con người đam mê hưởng thụ, phóng túng,… Bản chất người nữ chứa đựng sự mạnh mẽ và cũng là con người nên vẫn có những đam mê, tham đắm,…
Phong trào bình đẳng giới ra đời đã giải phóng tâm ý, lối sống bị trói buộc từ ngàn xưa và “Điều gì đến sẽ phải đến”.
Tại sao tỷ lệ người nam vẫn thường ít hơn người nữ?
Vì lẽ cũng giống như phần lớn giống loài có trong tự nhiên. Tỷ lệ giống đực vẫn thường ít hơn giống cái. Giới khoa học đã từng đưa ra nhận định về tỷ lệ nam/nữ ở loài người là 1/1. Theo giới khoa học, sở dĩ có sự chênh lệch về tỷ lệ nam nữ trên thế giới là do người nam phải tham gia chiến tranh, việc bia rượu, thuốc lá, các tệ nạn xã hội,… khiến người nam sớm chết và làm sai lệch tỷ lệ 1/1. Đây là một nhận định chủ quan, phiến diện và không dựa trên một cơ sở vững chắc, chuẩn mực.
Xét lại tỷ lệ đực cái ở các giống loài trong tự nhiên bạn sẽ nhận thấy giống cái thường có số lượng nhiều hơn giống đực.
Tại sao lại có hiện tượng sai khác về tỷ lệ đực cái ở giống loài trong tự nhiên?
Vì lẽ giống cái là thành phần có ý nghĩa hơn trong việc duy trì giống nòi. Thiên nhiên lại rất khắc nghiệt và tàn khốc. Vì thế tâm ý sự sống đơn giản nơi tự nhiên đã chọn lựa tạo ra nhiều giống cái hơn nhằm đảm bảo sự an toàn, duy trì nòi giống. Tâm ý sự sống nơi tự nhiên thừa nhận một cá thể đực được quần cư cùng nhiều cá thể cái mà ít thừa nhận điều ngược lại.
Tại sao?
Tại vì bản năng chiếm hữu của chủng loài là luôn có trong tự nhiên, giống đực luôn thể hiện sức mạnh bằng việc cắn giết, tàn hại lẫn nhau,... Rõ biết như thế tâm ý sự sống của giống loài đã chủ động điều chỉnh cho tỷ lệ đực cái có sự sai khác nhằm tạo ra sự cân bằng, ổn định tương đối trong tự nhiên, không tạo ra những cuộc giết chóc không cần thiết.

Một con sư tử đực trưởng thành đến một lúc nào đó sẽ tranh giành lãnh địa và quần thể sư tử cái với con sư tử đực đầu đàn. Do trẻ khỏe nên con sư tử đực mới trưởng thành đã đánh đuổi con sư tử đực già nua ra khỏi lãnh địa và cướp lấy bầy sư tử cái. Việc tiếp theo mà con sư tử đực cướp quyền thực hiện là cắn chết tất cả sư tử con trong bầy đàn. Việc làm đó nhằm tạo ra một bầy đàn sư tử con của vị lãnh chúa mới.

Với trí tuệ của loài sư tử việc làm hiếu sát đó không có gì là tội lỗi, là đúng, là sai. Con sư tử đực đó chỉ muốn di truyền giống nòi. Cũng lại như vậy con sư tử cũng không quá thông minh và đủ sự hiểu biết để nhận ra rằng “Có một ngày nó bị đánh đuổi, thừa sống, thiếu chết cùng với việc đàn con nó sẽ bị giết”. Vì thế nó không hề có sự đau khổ, tiếc thương,… cho số phận những con sư tử khác. Hiện tại con sư tử đực trẻ rất mạnh mẽ, hưởng thụ và không nghĩ ngợi nhiều. Con sư tử cũng không cần biết đến tiền kiếp, hậu kiếp, nhân quả luân hồi. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc loài vật sẽ thoát khỏi luân hồi vì chúng cũng có sự tham đắm, u mê và hưởng thụ.
Thế nên, tâm ý các loài trong tự nhiên ở mức độ nào đó có chứa đựng chút sai lầm, sự hiếu chiến và khát máu.
Con người cũng là sự phát triển của tâm ý sự sống nên luôn mang trong tâm thức chút sai lầm đó. Nhưng nơi tâm ý phân biệt, dính mắc, nhận thức, tư duy ở cấp cao với những việc làm tàn độc con người sẽ tạo ra hận thù, đau khổ cho người khác và cũng là nhân gây ra sự đau khổ, lo sợ, hoang mang,… khi con người không còn trẻ khỏe, thần trí không còn minh mẫn,…
Quay lại vấn đề tỷ lệ nam nữ ở loài người. Có phải nơi tâm ý sự sống đơn giản của thiên nhiên sẽ hoạch định tỷ lệ nam nữ ở con người?
Đã có chút thay đổi, với sự hiểu biết về nhận thức, tư duy được nâng cao con người dần thoát ra sự chi phối của tâm ý sự sống cấp thấp nơi tự nhiên. Quyết định cho tỷ lệ nam nữ ở loài người do chính tâm ý con người quyết định. Ngày nay, dưới sự can thiệp của khoa học con người đã chủ động hơn trong việc chọn lựa giới tính cho trẻ. Đã có nhiều thai nhi mang giới tính nữ bị giết bởi do yêu cầu của cha mẹ chúng. Thật đáng sợ nơi tâm phân biệt ở con người!
Sự can thiệp của khoa học đã làm sai lệch sự cân bằng tương đối về giới tính của tự nhiên. Nhưng đây không phải là việc làm chuẩn mực. Đã có giai đoạn số lượng người nam nhiều hơn người nữ, là dấu hiệu cho thấy sự rối ren, bấn loạn nơi xã hội con người ở tương lai không xa.
Trên thực tế, số lượng thai nhi mang giới tính nữ luôn cao hơn giới tính nam. Nếu xét trên cơ sở khách quan, tổng thể và dựa trên số bào thai nữ bị sát hại thì tỷ lệ người nữ luôn chiếm đa số.
Tại sao?
Vì lẽ dù rằng người cha, người mẹ rất ham muốn có cậu con trai nhưng trong tâm thức của cả hai luôn nghĩ về bóng dáng của người nữ xinh đẹp, quyến rũ.
Phần lớn nhân loại ngày nay khi sống đều chất chứa trong tâm thức hình hài thân nữ. Thế nên, con người khi chết đi, thần thức rời khỏi xác thân vẫn mãi giữ tâm ý về giới tính nữ. Vì thế khi nhập thai ở kiếp người, tâm ý của thần thức đã tạo ra giới tính nữ nơi bào thai có tỷ lệ cao hơn giới tính nam.
Thật là rất hoang đường, huyễn hoặc! Cho dù tri thức nhân loại có thừa nhận hay không thừa nhận thì sẽ không thể thay đổi sự thật đó.
Nhằm giúp bạn dễ dàng tin nhận về sự tồn tại của tâm ý chúng sinh trong 3 cõi tôi sẽ giúp bạn kiểm tra lại một việc. Bạn hãy đi khảo sát lại một việc trong xã hội hiện tại.
Có phải một người đàn ông rất đứng đắn dù đã lập gia đình thì trong cuộc sống người đàn ông đó vẫn thường “để mắt” đến nhiều người khác giới khác ngoài người vợ chính thức?
Không chỉ vậy, những người nữ dù đã mang thân nữ vẫn có sự chú tâm, dò xét vóc dáng, vẻ đẹp, cách ăn mặc của những người cùng giới nhằm mục đích điểm tô, trao chuốt lại nhan sắc của chính mình. Việc chăm chút cho nhan sắc cá nhân và chú tâm đến vẻ đẹp người cùng giới cũng được ghi nhận rõ trong tâm thức của người nữ. Đó cũng là nguyên nhân góp phần tạo ra giới tính nữ ở thai nhi.
Thêm nữa, nếu bạn đặt ra một câu hỏi với những người mang giới tính nữ “Nếu quả thật có kiếp sau và bạn được luân hồi ở nẻo người thì bạn sẽ chọn giới tính gì?”. Hiện nay, tôi tin chắc rằng tỷ lệ người nữ mong mỏi vẫn mang thân nữ sẽ chiếm nhiều hơn.
Con người đang can thiệp vào quy luật tự nhiên không đúng mực, làm sai lệch tỷ lệ nam nữ thì tâm ý tạo ra thân nữ ngày càng nhiều hơn.
Vì lẽ đó, tôi không lấy làm ngạc nhiên khi ngày càng có nhiều đứa bé không được chào đời vì mang giới tính nữ. Bởi lẽ ba mẹ chúng mong mỏi cậu con trai mà trong lòng lại mơ về một cô gái trẻ trung, xinh đẹp.
Thật đáng thương cho những thiên thần nhỏ bé! Ôi! Những em bé thơ ngây, hồn nhiên và vô tội.
Không chỉ khách quan mà tâm ý con người tạo ra nhiều người nữ. Hiện nay, những hình ảnh quảng cáo được đăng tải nơi báo chí, truyền hình phần lớn đều là hình ảnh những cô gái trẻ đẹp, ăn mặc gợi cảm, ngực nở, eo thon,…
Những hình ảnh này sẽ được lưu lại đậm sâu trong tâm thức của con người. Đó cũng là nguyên do khiến mai này hình hài con người sẽ lại đẹp hơn và người nữ vẫn chiếm phần hơn.
Với những hình ảnh gợi cảm vây quanh người nam sẽ mất dần nam tính, bản lĩnh đàn ông cũng yếu kém dần. Về sau, sẽ có rất nhiều người đàn ông rơi vào căn bệnh vô sinh. Mọi sai lầm đều có gốc nơi tâm ý của con người. Tôi sẽ đưa ra dẫn chứng lý giải cho mọi vấn đề đã đặt ra.
Giả định có một hòn đảo nhỏ với dân số trên đảo toàn là người nữ vào khoảng 150 người. Có một chiếc thuyền nhỏ bị đắm trôi dạt vào bờ và có khoảng 10 người đàn ông được cứu sống. Trường hợp, con người biết tiết chế, điều độ trong sinh hoạt tình dục, có việc giữ “khoảng cách an toàn” giữa người đàn ông và người nữ thì dân số trên đảo tăng dần với số lượng những bé trai ra đời sẽ nhiều hơn bé nữ. Vì lẽ với 150 người nữ, họ thấy hình thể người nam khỏe mạnh, sung mãn và là “hàng hiếm”. Họ thích vóc dáng người đàn ông vì thế sẽ có nhiều bé trai ra đời. Trải qua rất nhiều đời số lượng người đàn ông trên đảo đã cao hơn số người nữ thì sẽ diễn ra quá trình cân bằng giới tính trở lại.
Trường hợp khác, khi những người đàn ông “túng dục, khát ái” cứ “quanh quẩn” với 150 người nữ thì họ sẽ mau chóng đánh mất “bản lĩnh đàn ông”. Nếu không sớm “cách ly” thì những người đàn ông sẽ bị ức chế về tinh thần, ức chế vì sự “no đủ” và họ sớm bị bệnh vô sinh.
Do việc người đàn ông ngày nay bị trói trong những hình ảnh các cô gái chân dài khêu gợi, nóng bỏng,… cũng sẽ tạo ra sự ức chế hoặc là “no đủ” nơi người đàn ông mà lượng tinh dịch ở người đàn ông bị suy giảm nghiêm trọng.
Những điều tôi trình bày trong sách dường như rất hoang đường, không dựa trên cơ sở khoa học nhưng thật ra lại có sự chuẩn mực vì những nhận định đó dựa trên thực tiễn của cuộc sống.
Xét lại sự già đi về dân số ở các nước phương Tây, tôi sẽ giúp bạn nhận ra rất nhiều điều.
Tại sao dân số phương Tây già đi mà không có thế hệ trẻ thay thế?
- Nguyên nhân thứ nhất là do sự an toàn về đời sống. Mọi thứ trong cuộc sống của người phương Tây đều được xã hội bảo trợ, già bệnh chết đã có phúc lợi xã hội lo chu toàn. Cho nên việc có hay không có con trở thành là việc thứ yếu, không thật cần thiết. Do có quan niệm như thế người phương Tây đã không tổ chức, xây dựng thế hệ kế thừa.
- Nguyên nhân thứ hai là kể từ lâu xa lối sống phóng túng, tự do tình dục ở giới trẻ được xã hội thừa nhận, đã góp phần xây dựng lối sống hưởng thụ tình dục vô độ, quá mức.
Với hiện tượng phát dục ngày càng trẻ hóa cùng với lối sống hưởng thụ đã ăn sâu vào tâm ý giới trẻ ngày nay thì trước một người con gái 14, 15 tuổi, hơ hớ xuân thì, ăn mặc quần áo trống trước hụt sau đến như một người đàn ông từng trải 55, 60 tuổi còn phải ngây ngất, động lòng. Thử hỏi làm sao bé trai 13, 14 tuổi cưỡng lại sự cám dỗ, sự thỏa mãn ham muốn xác thịt của đối phương cho được.
Nhất là khi con người trói vào quan niệm “Chết là hết”, “Có mất gì đâu”,… ở chủ nghĩa thực dụng. Nguồn sinh lực trai trẻ, non nớt mau chóng bị vắt kiệt, mầm móng của căn bệnh vô sinh lộ rõ. Mọi việc được lưu lại trong tâm ý những thế hệ sau ngày càng suy yếu về khả năng sinh sản.
Tuy nhiên, con người vẫn luôn muốn được hưởng thụ và tình dục cũng không là ngoại lệ. Nhằm khôi phục và tạo ra bản lĩnh đàn ông đã héo mòn những loại thuốc hỗ trợ tình dục được nghiên cứu, tìm tòi,…
Việc lạm dụng thuốc của thế hệ trước càng khiến cho căn bệnh vô sinh ở thế hệ sau thêm khó điều trị.
- Nguyên nhân thứ ba phải kể đến là sự ích kỷ có nơi người cha, người mẹ. Sinh con sẽ làm mất đi vẻ đẹp, vóc hình,… Lại bận chăm nom, không có thời gian làm việc, rong chơi, có con trẻ thật là vướng bận.
Chắc rằng người phương Tây đã cố công tìm hiểu nhằm xây dựng, tổ chức lại thế hệ trẻ. Nhưng do mò mẫm, dò tìm nơi xác thân vật chất mà giới khoa học phương Tây chưa tìm ra lối thoát cho thế hệ tương lai.
Chỉ khi nào người phương Tây rõ biết những sai lầm thì mới mong có những thay đổi, cải cách phù hợp cho xã hội người phương Tây ở ngày mai.
Xét ở phương diện tổng thể, khách quan tâm ý con người vẫn luôn chịu sự chi phối của tâm ý sự sống.
Tại sao người phương Tây có tỷ lệ sinh thấp?
Là vì đã có sự an toàn về mặt đời sống, con người không cần nương tựa ở thế hệ trẻ, tâm ý không sinh con được thành hình trong tư duy, nhận thức của người phương Tây. Nhận thức này được tích lũy trong tâm ý của người phương Tây, trải qua thời gian lâu xa, nhiều kiếp người cộng với việc tiêu hao nguồn năng lượng tình dục quá mức dẫn đến sự chuyển hóa cơ sở vật chất di truyền nơi cơ thể người, làm tụt giảm khả năng sinh sản ở người phương Tây.
Việc này tương ưng với khả năng di truyền nòi giống ở các giống loài trong tự nhiên. Nếu môi trường sống thích hợp, ổn định thì việc sinh sản của các giống loài trong tự nhiên sẽ có sự định mức vừa phải, hợp lý. Nhưng khi môi trường có phần khắc nghiệt lâu dài thì sẽ có sự khác biệt. Với tâm ý sự sống ở mức thấp, lệ thuộc vào tự nhiên thì các giống loài sẽ diễn ra hai quá trình.
Ban đầu, khi môi trường trở nên khắc nghiệt thì số lượng trứng hoặc cá thể con sẽ tụt giảm so với định mức sinh sản ổn định của giống loài nhằm đảm bảo sự sinh tồn giống loài khi nguồn thức ăn không còn dồi dào, phong phú,...
Đến khi môi trường khắc nghiệt hơn và kéo dài thì tâm ý sự sống sẽ điều tiết số cá thể được sinh sản tăng lên gấp nhiều lần nhằm tạo sự an toàn về việc duy trì giống loài. Ở đây tâm lý sự sống chấp nhận sự cạnh tranh trong nội tại của giống loài về thức ăn, lãnh thổ, đặc quyền sinh sản. Ngoài ra, số lượng cá thể tăng cao nhằm chấp nhận rủi ro về hao hụt số lượng khi trong tự nhiên có nhiều kẻ thù, thú ăn thịt,…
Cụ thể, xét ở một khu rừng tự nhiên có môi trường xanh tốt, có nhiều cỏ non. Khu rừng này có một đàn thỏ và chúng phát triển rất nhanh vì khu rừng có ít sói. Khi mật độ thỏ ở khu rừng đạt đến mức bảo hòa thì khả năng sinh sản của đàn thỏ sẽ bị chững lại và giảm xuống. Do lượng thức ăn ở môi trường tự nhiên là có giới hạn. Vì thế lượng thức ăn có trong tự nhiên không thể đáp ứng đủ cho một đàn thỏ đông đúc và gia tăng không ngừng về số lượng, tâm ý sự sống có ở đàn thỏ sẽ làm giảm lượng thỏ con ở mỗi lần sinh sản cùng việc kéo giãn chu kỳ phát dục, chu kỳ sinh sản ở đàn thỏ kèm theo những dịch bệnh phát sinh. Khi lượng thịt thỏ dồi dào thì số lượng con sói sẽ tăng nhanh do tâm ý sự sống có nơi đàn sói chi phối. Sự xuất hiện của đàn sói sẽ làm tụt giảm số lượng cá thể thỏ trong khu rừng. Quá trình tồn tại đàn sói nơi khu rừng trong thời gian dài, tâm ý sự sống ở đàn thỏ sẽ tạo ra sự tăng lên về mặt số lượng cá thể thỏ con cho một lần sinh và chu kỳ phát dục có phần ngắn lại. Tuy nhiên, do số lượng sói nhiều nên mật độ thỏ trong khu rừng liên tiếp tụt giảm và có nguy cơ diệt vong. Mất đi lượng thức ăn đảm bảo sự sống, đàn sói tranh giành thức ăn, cắn giết lẫn nhau, việc tâm ý sự sống lại điều tiết lượng cá thể sói sinh sản dẫn đến sự tụt giảm số lượng sói có nơi khu rừng. Quá trình tăng đàn của thỏ lại bắt đầu cho một vòng tăng trưởng mới. Khác với sự điều tiết có phần vụng về, mắc nhiều sai lầm ở tâm ý con người, tâm ý sự sống trong tự nhiên có sự điều tiết hài hòa, cân đối, chuẩn mực. Vì thế ở mức độ tương đối sự điều tiết của tâm ý sự sống ít khi dẫn đến sự diệt vong giống loài tự nhiên nếu không có sự can thiệp vụng về do con người gây ra.
Thêm nữa, khi loài vịt sống trong tự nhiên, chúng sẽ sinh sản, ấp trứng và nuôi giữ con nên số lượng trứng ít nhằm đảm bảo cho con vịt mẹ chăm sóc, nuôi đàn con phát triển. Đến khi con người thuần hóa đàn vịt thì con vịt dần đánh mất khả năng, ấp trứng và số lượng trứng tăng lên nhằm đảm bảo sự an toàn về việc di truyền giống nòi. Lẽ dĩ nhiên là con vịt không biết con người sẽ mang trứng vịt đi ấp, tạo ra một đàn vịt con đông đúc. Nếu rõ biết có lẽ tâm ý sự sống đã làm giảm lượng trứng vịt được tạo ra,...
Khi xét mọi việc ở góc nhìn tổng thể thì nhân loại sẽ phải thừa nhận tâm ý của sự sống vẫn luôn chi phối đời sống con người.
Những can thiệp chủ quan nơi tâm ý hạn hẹp của con người thường chỉ mang đến sự khổ đau, hận thù trong lòng nhân loại. Việc tham lam, sân hận, si mê,… chỉ khiến con người khốn cùng trong vòng luân hồi nghiệt ngã nhằm đảm bảo sự khách quan, công bằng nơi sự sống.
Lại xét về vấn đề dân số ở các nước phương Đông.
Xã hội phương Đông phát triển khoa học, kinh tế, kỹ thuật chậm hơn các nước phương Tây. Quỹ phúc lợi và bảo hiểm xã hội chưa bảo trợ kín kẽ cho đời sống con người. Đây là sự khác biệt rõ rệt giữa hai nền văn hóa phương Tây và phương Đông.
Người phương Đông không có chỗ dựa vững chắc nơi quỹ phúc lợi xã hội, họ chưa được an toàn.
Từ lâu xa tâm ý người phương Đông đã dựa vào con cháu phụng dưỡng khi tuổi già, sức yếu và chết có người an táng. Vì cuộc sống khó khăn, nạn chiến tranh, việc đói ăn, bệnh tật và nhằm đảm bảo tính an toàn mà người phương Đông xưa có rất nhiều con cháu. Không chỉ vậy, người phương Đông cổ xưa đã trói người nữ vào “Tam tòng, tứ đức”, việc ăn mặc phải kín đáo, việc hạn chế tham gia công tác xã hội, ít tiếp xúc với người khác giới. Điều này góp phần đảm bảo nguồn sinh khí, tinh lực ở người đàn ông.
Phương pháp giáo dục của người phương Đông xưa lại răn dạy con người biết tiết chế, điều độ mọi vấn đề và vấn đề tình dục cũng không ngoại lệ. Người phương Đông xưa cũng không trói con người vào việc học sớm khi tuổi còn rất nhỏ. Con người chỉ thật sự bắt đầu học khi họ có nhận biết “Việc học là cần thiết”.
Do vậy khi đã xác định lấy việc học làm con đường tiến thân thì người học trò rất trân quý, tôn trọng những người truyền dạy kiến thức, sự hiểu biết.
Vì thế người phương Đông xưa mới xem trọng những người thầy được diễn đạt qua các câu “ Không thầy đố mày làm nên”, “Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”, “Muốn sang phải bắt cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”,…
Việc học của người phương Đông xưa rất chú trọng rèn luyện đức. Khi người học trò hàm dưỡng đức tốt thì họ chuyển tiếp rèn luyện tài nhưng việc học cũng không xa rời đức. Do xuất phát điểm chậm nên người học trò xưa thành tựu việc học có phần muộn nhưng vẫn đảm bảo đủ tài đức phục vụ cho triều đình, cho xã hội. Phần lớn người học trò xưa tạo lập công danh, sự nghiệp sau khi đã lập gia đình.
Sở dĩ việc lập gia đình không khiến người học trò xưa từ bỏ việc học là vì họ đã có định hướng cho việc học rõ ràng, lấy sự học làm con đường tiến thân.
Thêm nữa, người phương Đông xưa có sự hàm dưỡng tu thân nghiêm cẩn, biết tiết chế, điều độ ở cuộc sống cũng như vấn đề sinh hoạt vợ chồng. Thế nên căn bệnh vô sinh ở người xưa không chiếm đại đa số trong xã hội.
Ngày nay, kinh tế - xã hội - khoa học - đời sống phát triển, người phương Đông đang đứng trước những biến chuyển, đổi thay rất lớn lao.
Có những mối nguy tiềm ẩn sau sự hào nhoáng của văn minh và hiện đại. Những sự thử thách nghiệt ngã, khốn cùng. Lối sống hưởng thụ ích kỷ, chủ nghĩa thực dụng man trá đã tích lũy vào trong tâm ý người phương Đông.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn lượng hàng hóa vật chất được tạo ra rất nhiều, giá trị thặng dư tăng nhanh nhưng lại không có sự phân chia công bằng, bình đẳng.
Người thì choáng ngợp với lượng tiền của, tài sản dồi dào. Kẻ thì mệt nhoài, bương chải với chén cơm, manh áo. Lối sống hưởng thụ và nhiều lo nghĩ.
Có lẽ không cần đến sự tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình thì dân số ở các nước phương Đông cũng sẽ tự tụt giảm.
Tuy nhiên, sự tụt giảm đó sẽ diễn tiến chậm và ổn định hơn. Thực tế là gia đình người phương Đông bây giờ không thể sinh “con đàn, cháu đống” như trước. Chỉ có 1, 2 đứa con mà một gia đình có mức sống trung bình phải mệt nhoài với việc nuôi ăn học cho hai đứa trẻ. Còn ở những gia đình sang giàu, họ cần có nhiều thời gian hơn cho việc hưởng thụ, làm ăn và rong chơi. Chỉ 1, 2 đứa con đã là quá đủ. Chỉ có những gia đình đói nghèo, lam lủ mới tạo ra một đàn con. Có lẽ nơi gia đình đông con đó sẽ có một số người không lập gia đình. Số khác lập gia đình nhưng họ sợ lắm rồi “một đàn con nheo nhóc, đói ăn, không được đến trường”.
Do ảnh hưởng lối sống phương Tây, phong trào bình đẳng giới, quyền phụ nữ - trẻ em,… được “thổi phồng” mà thiếu đi sự đánh giá khách quan,… người phương Đông rơi vào vô số việc làm sai lầm.
Việc tự do tình dục, lối sống mở đã cởi trói người phụ nữ ra khỏi “Tam tòng, tứ đức”, được tham gia công tác xã hội nhiều hơn, được tiếp xúc người khác giới dễ dàng,… Việc ăn mặc phóng khoáng, cởi mở,… mà không có sự chuẩn mực. Vẻ đẹp thân xác trước kia được giữ gìn kín kẽ, giờ đây được phơi bày lộ liễu, trân tráo. Vẻ đẹp tâm hồn sâu kín, đáng quý có nơi người phụ nữ thời xa xưa cũng đã phai lạt, hời hợt,… bởi do ngày nay con người chạy theo chủ nghĩa thực dụng, ích kỷ, lối sống hưởng thụ,...
Dường như tư duy, nhận thức con người đang bị trói vào ngôn ngữ và vấn đề này cũng được tích lũy trong tâm thức con người.
Cụ thể là khi nói đến chân dài thì ống quần ngày càng ngắn lại. Khi nói đến ngực nở, eo thon, mông đầy đặn, thân hình gợi cảm,… thì quần áo bó sát thân người, cổ áo khoét rộng, mỏng manh. Khi nói đến bình đẳng giới thì người phụ nữ ngày càng mạnh mẽ và người đàn ông thì lại trở nên “yếu đuối”. Khi nói đến lộ hàng thì “hàng” con người bị lộ nhiều hơn. Khi nói đến tội ác thì tội ác ngày càng táo tợn, manh động, nguy hại hơn,...
Đó phải chăng là lỗ hổng về nhân cách, đạo đức của con người khi con người trói vào quan niệm sai lầm “Chết là hết”?
Phải chăng đó là sai lầm của tri thức nhân loại khi trói con người vào chế tài, hình luật, các biện pháp trừng phạt được không ngừng bổ sung theo thời gian mà không dựa vào việc giáo dục ý thức, nhận thức, tư duy, giá trị phần người ở con người?
Quay lại vấn đề trước, xã hội con người luôn có những bước chân giẫm đạp lẫn nhau. Lối sống phóng túng, tự do tình dục, khát ái,.. đã tiêm nhiễm vào mọi ngóc ngách của xã hội phương Đông. Những thế hệ về sau dần mất đi khả năng di truyền nòi giống bởi do sớm có những quan hệ xác thân vô độ.
Thời tiết nóng bức kết hợp với tâm ý hưởng thụ, tham đắm được tích lũy nhiều đời dẫn đến tuổi dậy thì con người ngày càng trẻ hóa hơn. Do sự thể hiện cá tính, việc tham dục sớm, việc ham mê bộc lộ vẻ đẹp xác thân,… những chiếc áo ngày càng trở nên mỏng manh, áo hai dây,… ưỡm ờ bộ ngực căng đầy. Những chiếc quần được cắt ngắn nhằm phơi bày đôi chân dài, trắng trẻo.
Quả thật rất lôi cuốn, những bộ ảnh chụp bikini, nội y, những bộ phim trần trụi,… tinh lực, sức mạnh nội tại nơi người đàn ông bị hủy hoại do lối sống sai lầm. Những viên thuốc cường dương chỉ có thể mang lại những phút giây hưởng thụ ngắn ngủi, là dấu chấm hết của bản lĩnh người đàn ông. Cuộc sống hưởng thụ, tham đắm, đam mê và kết hợp với nhiều sự sai lầm khác ở con người sẽ mau chóng khiến người phương Đông rơi vào căn bệnh vô sinh.
Ở một mức độ nào đó sự sống vẫn giữ vai trò điều tiết dân số của loài người đảm bảo giữ sự cân bằng, không vượt mức giới hạn.
Chỉ thấy khổ đau, buồn tủi, tiếc nuối, hận thù,… nơi những con người tham đắm, si mê.
Sống để làm gì?
Kéo lê thê quãng đời trên những bước chân buồn bã, đơn côi lủi thủi với tuổi già.
Nơi cuộc sống hưởng thụ, đam mê, phóng túng, ích kỷ, si mê,… Còn gì nữa?
Việc đồng tính nữ cho bạn nhận ra “Đó là kết quả của lối sống sai lầm từ tiền kiếp”. Sự ích kỷ vì sợ việc sinh con làm xấu  vẻ đẹp thân hình, sợ sự đau đớn khi sinh, việc bình đẳng giới khiến người nữ nhận ra nhu cầu sinh lý mạnh mẽ, dẻo dai của tự thân, sợ tiếng đời đàm tiếu về dục tính, cộng với tâm lý sợ nạn bạo lực gia đình,... Những nhận thức, ý thức, tư duy sai lạc, tôi quá mạnh mẽ để làm một người phụ nữ yếu đuối. Lối sống phóng túng, đam mê đã kéo những người phụ nữ lầm lạc lại gần nhau và thỏa mãn những cơn khát dục tình.
Việc mại dâm nam cho bạn nhận biết “Sự yếu đuối của người nam trong cuộc sống, sự mạnh mẽ của người nữ trong việc thỏa mãn đam mê xác thịt”. Tất cả đều bắt nguồn từ lối sống hưởng thụ và chủ nghĩa thực dụng đang chiếm lĩnh tâm ý con người.
Đồng tính nam cũng thể hiện sự yếu đuối của người nam trong thời điểm hiện tại. Tôi quá yếu đuối để trở thành một chàng thanh niên thực thụ. Kết hợp với lối sống từ bỏ lao động, sự phóng túng, sống buông thả, bệnh hoạn những người đàn ông đã tìm đến nhau tâm sự và thỏa mãn thú vui xác thịt.
Ôi! Những con người đang đắm chìm trong lối sống sai lầm, những mảnh đời lầm lạc. Nếu muốn thoát ra những vũng lầy tăm tối, những nẻo xấu mê mờ có lẽ bạn nên dừng lặng, thu thúc lại thân tâm nhằm tìm lại sự bình an, định tỉnh nơi nội tâm. Hãy quay về thôi vì lối đi của bạn đang mở ra những nẻo tối ở đời sau.
Sự yếu đuối của người nam ngày nay còn do tư duy, nhận thức sai lệch khác. Do sự hiểu biết nâng cao con người xa rời việc lao động chân tay khiến cho người đàn ông mất dần sức mạnh cơ bắp.
Không chỉ vậy! Đặc quyền “ăn trên, ngồi trước” cùng lối sống hưởng thụ khiến người đàn ông đang tự bào mòn sức lực của bản thân bởi rượu bia, thuốc lá, mại dâm,… Giới trẻ thì đang tiêu hao sinh lực trong những trò chơi game, sống ảo tưởng. Mọi việc đã tích lũy và đang thành hình. Người đàn ông không còn chú tâm đến việc quán xuyến gia đình, chăm lo dạy dỗ con trẻ. Họ đang tự từ bỏ vai trò trụ cột, quên mất vai trò người chủ gia đình với bia rượu, xác thân người đẹp.
Người phụ nữ buộc phải cáng đáng trách nhiệm vừa làm mẹ, vừa làm cha. Đến một lúc nào đó họ phải rời bỏ người bạn đời xem chừng vô dụng, hư thân, mất nết,… Xã hội đồng ý việc làm đó vì người phụ nữ không hề làm sai.
Việc làm của người phụ nữ là không sai nhưng việc làm đó bắt nguồn từ sự sai lầm của nhận thức, tư duy của tri thức nhân loại vì thế đó không là việc làm thật đúng, chuẩn mực.
Việc làm đó sẽ nhấn chìm tương lai nhân loại. Nhân loại không tồn tại ở xã hội con người mà trở thành loài người.
Một xã hội không dựa trên cơ sở gia đình, không tồn tại ở sự yêu thương, loài người đến với nhau do việc lợi dụng, đam mê thỏa mãn, hưởng thụ, tàn lụi và không còn gì cả.
Khi người đàn ông về già, sức khỏe, tiền của không còn, gia đình thì tự họ đánh mất. Có lẽ viễn cảnh người đàn ông “chết bờ, chết bụi” đang là điểm đến của tương lai người phương Đông. Đó là sự man trá đến tàn khốc của biến thể chủ nghĩa thực dụng phương Tây ở phương Đông.
Tương phản với sự yếu đuối của người đàn ông đang bộc lộ thì sự mạnh mẽ của người phụ nữ lại đang tiến triển không ngừng. Việc được cổ động tham gia các công tác xã hội, việc tham gia các phong trào thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe ở các sân chơi cộng đồng người phụ nữ dần dần nhận ra bản chất mạnh mẽ thật sự của nội tại.
Việc bỏ bê trách nhiệm gia đình ở người đàn ông khiến người phụ nữ của thế kỷ XXI bước vào lao động ở phần lớn việc làm trong xã hội, việc làm chủ đồng tiền dần tiến đến việc làm chủ gia đình.
Ngay cả sức mạnh cơ bắp là điểm mạnh gần như duy nhất của người đàn ông cũng dần bị sức khỏe cơ bắp của người phụ nữ vượt qua. Người phụ nữ lại ít rơi vào tệ nạn bia rượu, thuốc lá nên đảm bảo sức khỏe ổn định.
Thêm nữa, cho dù người phụ nữ rơi vào bia rượu thì họ vẫn mạnh mẽ hơn người đàn ông vì đến bây giờ họ mới tiêm nhiễm còn người đàn ông thì lại trải qua rất nhiều kiếp. Bia rượu kích thích khiến người phụ nữ mạnh mẽ hơn trong việc thể hiện ham muốn xác thịt và với lối sống hưởng thụ người đàn ông sẽ bị cuốn vào cuộc chơi như con thiêu thân lao vào lửa. Con thiêu thân đó sẽ sớm chết.
Phải chăng việc mạnh mẽ của người phụ nữ sẽ giúp họ an toàn và xã hội vẫn tồn tại, phát triển ổn định?
Sự mạnh mẽ không ngừng được khôi phục, củng  cố và tính kỷ luật, trách nhiệm sẽ giúp người phụ nữ chiếm giữ những vị trí quan trọng trong xã hội. Đây là một mối nguy tiềm ẩn cho sự an toàn của nhân loại. Tính ích kỷ là đặc trưng giới của người phụ nữ. Đây là đặc tính được tích lũy lâu đời do việc nuôi dạy con trong môi trường thiên nhiên hoang dã, khó khăn. Đây vốn dĩ là một đức tính tốt của người phụ nữ và cũng là thuộc tính chung của con người. Tính cách của người phụ nữ thường ẩn chứa sự sắc xảo do tâm phân biệt rạch ròi, tính dính mắc cao. Vì thế những gì thuộc sở hữu của người phụ nữ thì họ sẽ kiên định bảo vệ đến mức bất chấp thủ đoạn.
Điều này cũng dễ nhận biết khi bạn dừng lại quán chiếu “Khi người phụ nữ yêu và lúc người phụ nữ hận”. Đây là vấn đề thật đáng để nhân loại lưu tâm.
Tôi đang trình bày vấn đề chạm đến hơn “nửa còn lại” của thế giới một cách khách quan, tổng thể, không thiên lệch. Cũng như tất cả vấn đề khác, tôi đang trình bày theo khuynh hướng chung và mang tính đa số.
Chính vì vậy khi người phụ nữ sở hữu quyền lực mà lại trói tư duy, nhận thức vào gia đình hay một thành phần, tầng lớp của xã hội thì sẽ có sự thiên vị, đãi ngộ. Điều này nếu không được xã hội đồng thuận thì sẽ dẫn đến mất cân bằng, tạo ra những xung đột xã hội khó thể dự đoán.
Mặt khác, tâm ý thể hiện cái tôi được tích lũy trong tâm thức của người nữ sau khi luân hồi trở lại nẻo Người sẽ sớm bộc lộ ở giới trẻ trong tương lai.
Việc dậy thì sớm và dễ dàng vượt qua rào cản giáo dục, việc giám sát của gia đình, sự tự do tình dục được thừa nhận,… những cô gái vị thành niên sẽ lao vào trò chơi xác thân nhưng lại thiếu kiến thức về giới tính.
Khác với người đàn ông khi sa ngã, không trách nhiệm thì sẽ có những đứa trẻ không có cha. Ở một mức độ nào đó khả năng người đàn ông là có giới hạn. Người bé gái vị thành niên vấp ngã sẽ mang về những đứa con có mẹ. Khi người con gái đó trượt dài vào sa đọa vì “ăn quen, nhịn không quen” và không ý thức về hành vi thì sẽ có nhiều hơn những đứa trẻ ra đời.
Chỉ khi cả gia đình và bản thân bé gái đều vô trách nhiệm với những đứa trẻ thì xã hội sẽ gánh lấy phần trách nhiệm. Rất nghiệt ngã! Có rất nhiều đứa trẻ bị “vất ra đường”. Dù cho những người làm công tác nhân đạo có nhiệt tâm và thương yêu đồng điệu thì cũng không thể khỏa lấp hết khoảng trống tình mẹ cha.
Thế hệ trẻ đó sẽ vào đời bằng lối đi nào?
Nếu phải mượn ngôn từ giả lập nhằm diễn đạt về con đường mà nhân loại đang xây dựng xã hội con người thì tôi sẽ nói “Đó là con đường tiến đến sự đổ nát nhân loại”.
Những điều tôi trình bày ở trên có sự thiên lệch về các vấn đề ở xã hội phương Đông nhưng khi nhân loại nhìn nhận sáng rõ, tổng thể thì đó cũng chính thật là chìa khóa mở lối cho việc sửa sai những sai lầm ở xã hội phương Tây.
Làm cách nào để sửa sai, khắc phục những sai lầm có nguồn gốc từ lâu xa của nhân loại?
Đừng vội sửa sai khi chưa nhận biết sáng rõ những sai lầm ở góc nhìn tổng thể, khách quan. Khi không rõ biết thì việc cố sửa sai sẽ tạo ra càng nhiều sai lầm và rối việc. Bạn hãy dừng lặng, xét lại mọi vấn đề. Nhìn nhận, chiêm nghiệm lại những sai lầm cho thật sáng rõ rồi từng bước tháo gỡ những sai lầm. Thận trọng và tùy thuận. Điều này không đồng nghĩa với việc thong thả, trốn tránh trách nhiệm và đứng ra bên ngoài công cuộc sửa sai của nhân loại.
Ai sẽ chịu trách nhiệm cho những sai lầm của tri thức nhân loại?
Không ai đủ sức để nhận gánh trách nhiệm của toàn nhân loại. Mỗi người sẽ phải tự sửa sai nếu không muốn nhân loại càng chìm sâu vào vòng xoáy nghiệt ngã, tàn khốc với đầy dẫy những khổ đau, thù hận, máu và nước mắt của chính mỗi người.
Dân số thế giới đã vượt cột mốc 7 tỷ người. Trong khi các nhà quản lý về dân số lên tiếng cảnh báo về nạn bùng nổ dân số thì các nhà quản lý về lao động lại lên tiếng về sự thiếu hụt một lượng rất lớn lao động trong các khu công nghiệp và lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Vậy ai đúng? Ai sai?
Thật ra do mỗi nhà quản lý đứng ở mỗi góc nhìn khác nhau, chỉ dựa vào tầm nhìn hạn hẹp, không tổng thể, không sáng rõ nên đã đưa ra những nhận định trái chiều đến mâu thuẫn.
Lực lượng lao động trong các ngành nghề có thật sự thiếu hụt không?
Đã có sự thiếu hụt lao động thật sự ở ngành công nghiệp và nông nghiệp mà nguyên nhân phần nhiều là do khả năng điều tiết, việc hoạch định chiến lược yếu kém của các nhà quản lý. Bởi lẽ bên cạnh việc thiếu lao động trong các ngành sản xuất thì xã hội lại đang dư thừa lượng lao động tập trung ở các ngành dịch vụ, thương mại, kinh tế, ngân hàng, chứng khoán, địa chính,…
Việc giáo dục và nhận thức sai lạc nhân loại đang xây dựng xã hội con người với một lượng lớn giới trí thức, người hiểu biết từ bỏ lao động chân tay, xa rời sản xuất nông nghiệp,...
Tại sao lại có sự thiếu hụt lao động ở các ngành nghề sản xuất ra các sản phẩm thiết yếu như nông sản, lúa gạo, rau củ, quả,… phục vụ nhu cầu sống còn của nhân loại?
Do mãi chạy theo việc sản xuất ra hàng hóa mà tri thức nhân loại đã sai lầm quên mất vai trò tối quan trọng của ngành nông nghiệp.
Ngành nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm vật chất phục vụ nhu cầu ăn uống của loài người.
Có một thực tế là nếu ngành nông nghiệp không tồn tại và phát triển thì phần lớn con người trên thế giới sẽ chết.
Còn tất cả các ngành nghề còn lại như công nghiệp, dịch vụ, ngân hàng, giáo dục, báo chí,… thực sự chỉ là những ngành làm “biến dạng” vật chất nông sản - hàng hóa nhằm tạo ra giá trị thặng dư và việc có hay không có những ngành nghề này đều không ảnh hưởng nhiều đến sự sống còn của nhân loại.
Do giới hạn về nhận thức, tư duy,… nhân loại đã sai lầm khi không phân định giá trị thặng dư giữa các ngành nghề đúng mực.
Trong khi các ngành nghề thiết yếu như nông nghiệp, công nghiệp chỉ nhận được một phần rất ít giá trị thặng dư mà người lao động cần mẫn tạo ra thì các ngành phụ trợ như chính trị, kinh tế, khoa học, dịch vụ,… lại chiếm phần hơn giá trị thặng dư của nhân loại.
Chính do định hướng sai lầm này mà con người ngày càng rời xa lao động sản xuất bằng chân tay, chỉ tập trung vào các ngành nghề làm biến dạng vật chất nông sản - hàng hóa với mục đích thu về phần hơn giá trị thặng dư mà không phải lao động vất vả, nặng nhọc, chịu nhiều rủi ro,…
Chính vì sự phân chia giá trị thặng dư không đồng đều giữa các ngành nghề mà dẫn đến sự thiếu hụt lao động trong các ngành sản xuất vật chất trực tiếp và dư thừa lao động ở các ngành nghề khác.
Thêm nữa, do sự hiểu biết con người được nâng lên, tâm phân biệt rạch ròi mà tâm ý người lao động tìm đến những việc làm nhàn hạ, nhẹ nhàng,… lại được hưởng nhiều chính sách xã hội ưu đãi, có thu nhập ổn định và cao.
Chính do sự phân chia giá trị thặng dư không đồng đều giữa các ngành nghề, các thành phần xã hội,… đã tạo ra sự phân tầng giàu nghèo ngày càng sâu rộng khiến cho lòng người bấn loạn, xã hội rối ren, tệ nạn xã hội lan tràn, giết người, cướp của, bắt cóc, tống tiền, đâm thuê, chém mướn, tham nhũng, hối lộ ngày càng nhiều,… và mầm móng cho những cuộc nổi dậy, đấu tranh, bạo loạn, đòi ly khai, tự trị,...
Chính do sự phân chia giá trị thặng của nhân loại không đồng đều giữa các nước cùng với việc tham lam ở một số ít người mà vô số cuộc chiến tranh, xâm lược, cướp bóc,… đã xảy ra. Những kho vũ khí hạt nhân, vũ khí hủy diệt,… được nhân loại dựng lên và chỉ nhằm vào mục đích giết người,…
Nếu nhân loại đến với nhau bằng tình thương yêu đồng loại chân thành, sự đồng cảm sẻ chia, sự hiểu biết đúng mực,… thì có lẽ lịch sử loài người đã không phải viết bằng những trang đẫm máu. Mai này nhân loại có viết lịch sử bằng máu xương, nước mắt, đau khổ và hận thù của đồng loại hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào sự hiểu biết về tư duy, nhận thức của con người ở thời điểm hiện tại.
Tôi sẽ dệt những giấc mơ. Giấc mơ về một ngày nào đó người bạn phương Tây được mua sản phẩm nông thủy sản, tôm sú, cá tra, gạo Nàng Thơm,… với giá thành bằng với giá thành những sản phẩm cùng loại mà người dân ở các quốc gia Đông Nam Á tiêu thụ. Giấc mơ một ngày người dân Châu Á mua xe Ferrari đúng bằng với giá thành người Âu Mỹ bỏ ra để sở hữu chiếc siêu xe đạt tiêu chuẩn Châu Âu. Giấc mơ thế giới không còn kho vũ khí hủy diệt và bom hạt nhân,…
Nếu nhân loại có sự phân định giá trị thặng dư đúng mực thì xã hội sẽ tự ổn định, lực lượng lao động ở các ngành nghề tự có sự cân đối hài hòa.
Cho dù dân số thế giới có sự tụt giảm chỉ còn khoảng 4 tỷ người thì lực lượng lao động ở các ngành nghề vẫn đáp ứng tốt nhu cầu vật chất của xã hội vì sản phẩm vật chất hàng hóa là nguồn cung chỉ nhằm đáp ứng nguồn cầu là dân số thế giới.
Vì lẽ đó trên nguyên tắc cân bằng ổn định tương đối thì sẽ không có việc thiếu hụt lao động trong sản xuất nếu khả năng điều tiết lao động của các nhà quản lý thật sự hiệu quả và chuẩn mực.
Do việc phân chia giá trị thặng dư không đồng đều khiến lòng người rối loạn và do sự tham đắm, si mê, thù hận,… rất nhiều cuộc nổi dậy, những cuộc đấu súng giữa các phe phái đối lập, việc đánh bom liều chết,… có rất nhiều người tham chiến bị giết, rất nhiều người vô tội bị chết thảm, nhà cửa đổ nát, cuộc sống khốn cùng,...
Cộng đồng quốc tế kêu gọi các bên tham chiến dừng lại các cuộc bắn giết, các tổ chức nhân đạo kêu gọi nhân loại ủng hộ vật chất, thuốc men,… nhằm khắc phục việc khủng hoảng nhân đạo,…
Bên cạnh đó, có một số người thờ ơ, bàng quan buông lời “Chết đi cho bớt chật đất”, “Ngu mà chết chứ bệnh tật gì”, “Sao cứ nghe người chết mỗi ngày một nhiều mà dân số vẫn tăng nhanh nhỉ?”,…
Quả thật, khi con người không có sự hiểu biết sáng rõ, đúng mực thì tâm ý sự sống vẫn chi phối đời sống con người nhằm đảm bảo dân số thế giới không vượt mức khả năng cung ứng về vật chất của trái đất.
Những việc điều tiết của tâm ý sự sống bằng chiến tranh, bạo loạn, tự sát, tự sát tập thể, tệ nạn xã hội, thiên tai, dịch bệnh,… thật rất tàn khốc, tang thương,… cho nhân loại và muôn loài.
Ai đã tạo ra những việc điều tiết nghiệt ngã đó?
Nguồn gốc sâu xa cũng do nơi con người. Sự tham lam, si mê, sân hận, hoài nghi, kiêu mạn,… của con người. Giá như con người có sự hiểu biết sáng rõ về bản chất sự sống, về con người và vạn vật thì con người sẽ có nhận thức, tư duy đúng mực. Khi đó, con người sẽ có đời sống tốt hơn nơi giá trị con người hiển lộ.
Những điều tôi đã trình bày ở trên là đúng hay sai?
Bạn hãy tự chiêm nghiệm lấy. Câu trả lời có trong sự hiểu biết của bạn khi bạn dừng lặng quán chiếu lại mọi việc có trong cuộc sống.
Nếu có hoài nghi thì bạn hãy dừng lặng và tìm ra câu trả lời thật đúng cho tri thức nhân loại. Việc làm này thật sự cần thiết nhằm phá tan mảnh lưới vô minh đã trói nhân loại vào trong khổ đau, thù hận, si mê từ muôn ngàn kiếp.
Chỉ khi bạn có câu trả lời thật đúng thì xã hội con người mới mở ra kỷ nguyên văn minh, tiến bộ, bình đẳng, bác ái, đồng điệu yêu thương.
Nếu bạn hoàn toàn không tin về những gì tôi trình bày và không có những sự điều tiết thích hợp, những đổi thay cần thiết cho định hướng phát triển xã hội thì bạn hãy chờ đợi những vấn đề tôi đã trình bày trong bộ sách sẽ thành hình ở tương lai không xa.
Khi đó, bạn sẽ thấy cái giá sai lầm tri thức, tư duy nhân loại là rất nghiệt ngã, thảm khốc. Nhất là khi nhân loại không có những điều tiết đúng lúc, kịp thời chỉ e con người sẽ không còn cơ hội sửa sai vì trái đất đã nổ tung hoặc trở thành hành tinh chết.
Những điều tôi trình bày chứa đựng những sự thật hoang đường, khó thể tin nhận.
Tuy nhiên, chỉ cần bạn bỏ chút ít thời gian dừng lại sẽ rõ biết đó là sự thật. Đến bây giờ, thời gian của tôi không còn nhiều, thời gian đảm bảo sự tồn tại ổn định của nhân loại và trái đất không còn rộng tôi sẽ nói một lời không hư vọng, đúng thật “Tam Tạng Kinh và bộ sách mà tôi viết là hai bộ sách chứa đựng sự hiểu biết sáng rõ, đúng mực, có giá trị nhất của tri thức nhân loại ở thời điểm hiện tại, là bộ sách có tính quyết định sự sống còn, bền vững của xã hội con người”.
Chính vì tính chất sống còn có nơi nội dung bộ sách mà tôi không tiếc mạng sống nhằm hoàn thành và truyền trao bộ sách.
Câu nói “Tôi đang cố khẳng định, chứng tỏ sự đạt đạo lại được ra”.
Quả thật, tôi rất ngán ngại lời nhận định này và lời nhận định này sẽ có nguồn gốc nơi người học Phật. Tôi thật sự không là người đạt đạo. Bởi lẽ nếu có sự chứng đạo thì chỉ bằng vào lời nói tôi đã có thể khiến nhân loại tin nhận về chánh pháp, nhân quả luân hồi, giải thoát hoàn toàn. Chính do sự không thực chứng mà tôi phải dùng mạng sống chịu trách nhiệm cho việc làm của tôi.
Nếu bạn nhận thấy bộ sách có chút ít giá trị thì bạn hãy vì sự an nguy của nhân loại mà tận lực trao truyền. Hãy giúp bộ sách đến nơi cần đến - Giới chính trị, giới kinh tế, giới khoa học, giới trí thức, người lao động,… và rộng truyền trên phạm vi thế giới.
Sai lầm của tri thức nhân loại chỉ được sửa sai khi nhân loại đồng lòng, cùng góp sức. Trái đất cần chuyển mình về mặt tư duy, nhận thức tâm ý của con người nhằm “tịnh hóa địa cầu” nếu nhân loại không muốn nhìn thấy sự chuyển mình vật chất chứa đầy xác thịt của sự sống, con người.
Việc không ham thích đọc sách ở giới trẻ là một trở ngại không nhỏ cho việc sửa chữa sai lầm của nhân loại. Tôi rất cần trào lưu đọc sách ở nhân loại. Thiết nghĩ, việc đọc sách cần được nhân loại khôi phục và duy trì. Tôi tin chắc rằng “Chỉ cần bạn đọc thoáng qua bộ sách của tôi thì cuộc đời bạn và lịch sử nhân loại sẽ được viết lại bằng tình yêu thương chân thật, gần gũi luôn tồn tại nơi con người”.
  1. Xã Hội.
Xã hội phương Tây đã sản xuất ra lượng hàng hóa, vật chất dồi dào, tạo ra tâm lý sống thực dụng, hưởng thụ trong lòng người phương Tây. Các nhà quản lý thượng tầng đã xây dựng xã hội phát triển, tạo cho con người có công việc và thu nhập ổn định. Từ lâu, người phương Tây đã sống theo khuynh hướng mua hàng trả góp dưới sự bảo trợ của ngân hàng và các tổ chức tài chính.
Dựa trên thu nhập của công việc mà người lao động được sở hữu những sản phẩm yêu thích, sau đó lượng tiền được khấu trừ dần theo bảng lương hàng tháng. Nói theo cách khác là người phương Tây sẽ vay tiền ngân hàng để mua sắm các mặt hàng thiết yếu rồi trả chậm các khoản tiền vay.
Chính vì vậy mà khi thị trường tài chính - bất động sản bị khủng hoảng và nạn thất nghiệp gia tăng thì có không ít người phương Tây phải trắng tay, mất nhà cửa, tài sản vì không có tiền để chi trả cho những khoản vay tới hạn.
Xã hội phương Đông những năm gần đây kinh tế phát triển, lối sống hưởng thụ dần chi phối đời sống con người. Đã có một bộ phận người lao động đã học hỏi khuynh hướng “vay mua sắm trước, rồi trả chậm sau” theo lối sống phương Tây. Tuy nhiên, do tính chất công việc và thu nhập không ổn định đã tạo ra mối nguy trắng tay, mất tài sản, nhà cửa ở người lao động.
Điển hình tôi sẽ xét vấn đề này ở một gia đình lao động sống nơi khu vực nông thôn.
Cụ thể là một hộ gia đình có một mảnh đất vào khoảng 3000 m2 cùng ngôi nhà với tổng trị giá tài sản ước tính vào khoảng 300.000.000 (Ba trăm triệu đồng). Công việc chính của hộ gia đình này là trồng lúa. Về sau người chủ gia đình có ý định chăn nuôi heo và đã vay ngân hàng 50.000.000 (Năm mươi triệu đồng) với mức lãi suất 15%năm. Điều này đồng nghĩa với việc sau một năm người lao động này phải trả cho ngân hàng vào khoảng 50.000.000 + (15%x 50.000.000) = 50.000.000 + 7.500.000 = 57.500.000 (Năm mươi bảy triệu năm trăm nghìn đồng). Tuy nhiên, do tính chất nông dân nên với số tiền đó bị dùng sai mục đích và do nguồn thu nhập không ổn định nên chỉ một thời gian ngắn số tiền vay đã không còn.
Thêm nữa, trên thực tế với số tiền vay 50.000.000 đồng mà người lao động chưa có cơ sở sản xuất và không có công việc tạo thu nhập ổn định thì người lao động sẽ không làm được gì.
Kết quả người lao động sẽ nợ ngân hàng gần 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng). Đến ngày đáo hạn người lao động phải vay bên ngoài số tiền 60.000.000 đồng để thanh toán khoản tiền vay và thông thường họ sẽ vay lại ngân hàng số tiền ngày càng tăng thêm có thể từ 100.000.000 - 150.000.000 đồng.
Có lẽ chỉ sau 5 - 10 năm thì người lao động mất khả năng chi trả khoản tiền vay ngân hàng và việc trắng tay là hoàn toàn có thể xảy ra.
Do thu nhập không ổn định, việc không định hướng sản xuất rõ ràng, do kém hiểu biết,… mà người lao động nông thôn ở xã hội phương Đông thường rơi vào tình trạng “Vay nợ, mắc nợ, nợ chồng nợ,… và kết quả là mất luôn khối tài sản thế chấp”. Dù vậy các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng thu nhập của ngành tài chính ngân hàng luôn có những báo cáo tăng trưởng cao hàng năm.
Trường hợp người lao động có định hướng sản xuất rõ ràng thì tình trạng cũng không mấy khả quan. Bởi do ngành sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất chịu nhiều rủi ro thiên tai, dịch bệnh, giá cả sản phẩm đầu ra lại bấp bênh, thêm nữa lại chịu rất nhiều áp lực về giá cả các mặt hàng phụ trợ thức ăn, phân bón, thuốc trừ sâu, chịu cả phí dịch vụ của xã hội lên đến trên 50%,… Thế nên khi rơi vào dịch bệnh, thiên tai,… thì người lao động đối mặt với nguy cơ mất trắng khoản tiền vay. Trường hợp việc chăn nuôi, sản xuất thành công người lao động lại không thể làm chủ giá bán nông sản. Để thanh toán tiền vay ngân hàng và đảm bảo lợi nhuận thì lẽ ra người lao động phải thu nhập lãi trên 50%. Vì lẽ với khoản tiền vay 50.000.000 đồng thì người lao động phải trả hoàn toàn tiền vay gốc 50.000.000 đồng.
Đặt trường hợp sau khi trả 50.000.000 đồng cho ngân hàng người lao động lãi được 50% tương ứng với 25.000.000 (Hai mươi lăm triệu đồng). Người lao động phải trừ lãi suất 15% năm tương ứng 7.500.000 đồng. Số tiền người lao động còn lại là 25.000.000 - 7.500.000 = 17.500.000 (Mười bảy triệu năm trăm nghìn đồng).
Giả sử tiền công lao động hàng tháng là 1.000.000 (Một triệu đồng)x12 tháng = 12.000.000 (Mười hai triệu đồng). Sau cùng, người lao động sẽ còn 5.500.000 (Năm triệu năm trăm nghìn đồng).
Qua một năm lao động người nông dân thu được 5.500.000 đồng và chịu vô số những rủi ro.
Thêm nữa, với mức tiền công 1.000.000 đồng thì người lao động không đủ chi tiêu cho cuộc sống ở thời điểm hiện tại. Vì thế trên thực tế việc thu lại 5.000.000 đồng/năm sau khi vay 50.000.000 đồng từ ngân hàng là điều người lao động không dễ làm được.
Tuy nhiên, những báo cáo về thu nhập hàng năm của người lao động là không ngừng tăng lên. Đây là điều được mọi tầng lớp trong xã hội thừa nhận. Có lẽ thu nhập hàng năm của người lao động tăng không do nơi khoản tiền vay ngân hàng.
Đặt trường hợp tôi in 1000 quyển sách và ước tính mỗi tháng phát hành được 100 quyển. Tôi đã vay 30.000.000 (Ba mươi triệu đồng) dùng làm chi phí in ấn, xuất bản, phát hành 1 quyển sách với lãi suất 15%năm.
Điều này đồng nghĩa với việc sau 1 năm tôi phải trả cả vốn lẫn lãi cho ngân hàng là 30.000.000 + 15%x30.000.000 = 30.000.000 + 4.500.000 = 34.500.000 (Ba mươi bốn triệu năm trăm nghìn đồng). Hiển nhiên là phần lãi suất 4.500.000 sẽ được cộng dồn vào giá thành của quyển sách chia đều cho 1000 quyển sách tương đương 4.500 (Bốn nghìn năm trăm đồng/quyển).
Đặt trường hợp tôi là người sống bằng nghề viết sách, tôi sẽ cộng vào giá thành quyển sách chi phí sinh hoạt hàng tháng là 3.000.000 (Ba triệu đồng)/100 quyển sách = 30.000 (Ba mươi nghìn đồng/tháng). Được biết việc khấu trừ cho các nhà sách phân phối mặt hàng sách được quy định vào khoảng 40 - 50% giá thành quyển sách.
Trường hợp chi phí in ấn, xuất bản cho 1 quyển sách là 15.000 (mười lăm nghìn đồng). Tôi sẽ làm bảng chiết tính giá thành mỗi quyển sách là:
Chi phí in ấn                                         15.000 đồng
Chi phí sinh hoạt cá nhân                     30.000 đồng
Chi phí lãi suất ngân hàng                    4.500 đồng
Tổng chi phí in sách                             49.500 đồng      55%
Chi phí chiết khấu cho nhà phát hành 40.500 đồng      45%
Giá thành quyển sách                           90.000 đồng    100%
Vậy giá thành của quyển sách là 90.000 (Chín mươi nghìn đồng). Chi phí sinh hoạt cá nhân vào khoảng 33,33% tương đương với 30.000 đồng. Chi phí in ấn vào khoảng 16,66% tương đương 15.000 đồng. Chi phí dịch vụ = chi phí lãi suất ngân hàng + chi phí chiết khấu vào khoảng = 5% + 45% = 50% tương đương với 45.000 đồng
Trường hợp kênh phân phối lệ thuộc vào các doanh nghiệp sách với mức chiết khấu lên đến 70 - 75%. Tôi sẽ làm bản chiết tính giá thành của quyển sách trên lại là:
Với mức chiết khấu 70%.
Chi phí in ấn                                         15.000 đồng
Chi phí sinh hoạt cá nhân                     30.000 đồng
Chi phí lãi suất ngân hàng                    4.500 đồng
Tổng chi phí in sách                             49.500 đồng      30%
Chi phí chiết khấu cho nhà phát hành 115.500 đồng                70%
Giá thành quyển sách                           165.000 đồng              100%
Vậy giá thành của quyển sách là 165.000 (Một trăm sáu mươi lăm nghìn đồng). Chi phí sinh hoạt cá nhân vào khoảng 18,18% tương đương với 30.000 đồng. Chi phí in ấn vào khoảng 9,09% tương đương 15.000 đồng. Chi phí dịch vụ = chi phí lãi suất ngân hàng + chi phí chiết khấu vào khoảng = 2,72% + 70% = 72,72% tương đương với 120.000 (Một trăm hai mươi nghìn đồng).
Với mức chiết khấu 75%,
Chi phí in ấn                                         15.000 đồng
Chi phí sinh hoạt cá nhân                     30.000 đồng
Chi phí lãi suất ngân hàng                    4.500 đồng
Tổng chi phí in sách                             49.500 đồng      25%
Chi phí chiết khấu cho nhà phát hành 148.500 đồng                75%
Giá thành quyển sách                           198.000 đồng              100%
Vậy giá thành của quyển sách là 198.000 (Một trăm chín mươi tám nghìn đồng). Chi phí sinh hoạt cá nhân vào khoảng 15,15% tương đương với 30.000 đồng. Chi phí in ấn vào khoảng 7,6% tương đương 15.000 đồng. Chi phí dịch vụ = chi phí lãi suất ngân hàng + chi phí chiết khấu vào khoảng = 2,27% + 75% = 77,27% tương đương với 153.000 (Một trăm năm mươi ba nghìn đồng).
Nhận Xét:
Nhìn vào bảng chiết tính giá thành của quyển sách ở mức chiết khấu 45%, tôi nhận thấy dường như chi phí dịch vụ xem ra có phần khá cao. Từ một quyển sách có giá trị vật chất là 15.000 đồng (chiếm 16 - 17%) và giá trị về trí tuệ là 30.000 đồng (chiếm 30- 35%) khi đến tay người tiêu dùng thì giá thành quyển sách đã lên đến 90.000 đồng. Đã có đến 45.000 đồng (tương đương với 50% giá thành quyển sách) được chi cho các khoản phí dịch vụ khác nhau và người tiêu dùng phải gánh trách nhiệm chi trả cho những khoản phí dịch vụ đó.
Ở một mức độ nào đó dường như người tiêu dùng có phần thiệt thòi.
Xét đến mức phí dịch vụ 70 - 75%, với quyển sách có giá trị vật chất là 15.000 đồng khi đến tay người tiêu dùng thì giá thành quyển sách lên đến 165.000 - 198.000 đồng. Người đảm nhận vai trò trung chuyển vật chất đã thu về từ 115.500 - 148.500 đồng còn người tạo ra sản phẩm vật chất chỉ nhận lấy 15 - 18% giá thành sản phẩm tương đương với chi phí sinh hoạt hàng tháng của người lao động.
Nếu là người sống bằng nghề viết sách thì có lẽ trải qua hết một kiếp người, họ sẽ không dám nghĩ đến một ngôi nhà đơn sơ, tránh mưa lùa, gió tạt.
Ở đây, tôi sẽ xét thêm một vấn đề. Một người viết sách có tâm huyết, có trách nhiệm với nội dung tác phẩm thì hẳn là mỗi năm họ không thể viết ra rất nhiều quyển sách có chất lượng. Vậy tôi tạm đặt giả định người viết sách trung bình mỗi năm chỉ hoàn thành được 3 bộ sách khác nhau.
Tuy nhiên, dù có tâm huyết cho việc cho ra đời “đứa con tinh thần” nhưng không hẳn cả 3 bộ sách đều được người đọc chấp nhận. Vì thế nên không hẳn người viết sách có thể đảm bảo tốt đời sống tự thân. Trong khi đó, những bộ phận phát hành sách, doanh nghiệp sách,… hàng năm họ phân phối hàng nghìn đầu sách và với số lượng nhiều phong phú, đa dạng cả về nội dung, hình thức, thể loại,… họ ít nhiều tránh được sự rủi ro về việc thu lợi nhuận, đã có sự đảm bảo an toàn tương đối.
Thế nên, với mức chi phí dịch vụ trên 70 - 75% xem ra rất bất công với người viết sách, người lao động và chèn ép, trói buộc người tiêu dùng gánh nặng toàn bộ chi phí của xã hội.
Sự bất công này liệu có đảm bảo cho sự bền vững, ổn định và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - chính trị - xã hội - tri thức nhân loại,…?
Nhằm góp phần giúp “đứa con tinh thần” đến tay người đọc, người viết sách chân chính sẽ giảm trừ lợi nhuận cá nhân. Tôi đặt giả thuyết với quyển sách có giá in ấn 15.000 đồng, họ chỉ cộng vào 10.000 đồng cho phí sinh hoạt cá nhân, bảng chiết khấu giá thành sẽ được tính như sau:
Chi phí in ấn                                         15.000 đồng
Chi phí sinh hoạt cá nhân                     10.000 đồng
Chi phí lãi suất ngân hàng                    4.500 đồng
Tổng chi phí in sách                             29.500 đồng      55%
Chi phí chiết khấu cho nhà phát hành 24.500 đồng      45%
Giá thành quyển sách vào khoảng       54.000 đồng    100%
Vậy giá thành của quyển sách là 54.000 (Năm mươi bốn nghìn đồng). Chi phí sinh hoạt cá nhân vào khoảng 18,5% tương đương với 10.000 đồng. Chi phí in ấn vào khoảng 27 - 28% tương đương 15.000 đồng. Chi phí dịch vụ = chi phí lãi suất ngân hàng + chi phí chiết khấu vào khoảng = 8,5% + 45% = 53,5% tương đương với 29.000 đồng
Trường hợp kênh phân phối lệ thuộc vào các doanh nghiệp sách với mức chiết khấu lên đến 70 - 75%. Tôi sẽ làm bản chiết tính giá thành của quyển sách trên lại là:
Với mức chiết khấu 70%.
Chi phí in ấn                                         15.000 đồng
Chi phí sinh hoạt cá nhân                     10.000 đồng
Chi phí lãi suất ngân hàng                    4.500 đồng
Tổng chi phí in sách                             29.500 đồng      30%
Chi phí chiết khấu cho nhà phát hành 69.000 đồng      70%
Giá thành quyển sách vào khoảng       98.500 đồng    100%
Vậy giá thành của quyển sách là 98.500 (Chín mươi tám nghìn năm trăm đồng). Chi phí sinh hoạt cá nhân vào khoảng 10,15% tương đương với 10.000 đồng. Chi phí in ấn vào khoảng 15,25% tương đương 15.000 đồng. Chi phí dịch vụ = chi phí lãi suất ngân hàng + chi phí chiết khấu vào khoảng = 4,5% + 70% = 74,5% tương đương với 73.500 (Bảy mươi ba nghìn năm trăm đồng).
Với mức chiết khấu 75%,
Chi phí in ấn                                         15.000 đồng
Chi phí sinh hoạt cá nhân                     10.000 đồng
Chi phí lãi suất ngân hàng                    4.500 đồng
Tổng chi phí in sách                             29.500 đồng      25%
Chi phí chiết khấu cho nhà phát hành 88.500 đồng      75%
Giá thành quyển sách                           118.000 đồng              100%
Vậy giá thành của quyển sách là 118.000 (Một trăm mười tám nghìn đồng). Chi phí sinh hoạt cá nhân vào khoảng 8,5% tương đương 10.000 đồng. Chi phí in ấn vào khoảng 13% tương đương 15.000 đồng. Chi phí dịch vụ = chi phí lãi suất ngân hàng + chi phí chiết khấu vào khoảng = 3,8% + 75% = 78,8% tương đương với 93.000 (Chín mươi ba nghìn đồng).
Nhận Xét:
Với sự an toàn và quyết định gần như toàn quyền về việc phân phối, phát hành sản phẩm sách thì những nhà phát hành sách không có tâm với nghề gần như sẽ không quan tâm nhiều đến nội dung, chất lượng sách mà chỉ dựa vào tỷ lệ chiết khấu sản phẩm mà nhận phân phối sản phẩm sách. Thậm chí họ gần như có đặc quyền tăng thêm phí dịch vụ. Người viết sách lúc bấy giờ chỉ còn thu về từ 8,5 - 18,5% giá thành sản phẩm và trói trong cơm áo gạo tiền, lãi suất ngân hàng, áp lực cuộc sống,…
Hẳn là chất lượng, nội dung bộ sách sẽ đi xuống và nhằm đảm bảo thu nhập thì số lượng đầu sách kém chất lượng, không có giá trị chiều sâu không ngừng tăng lên. Người đọc sẽ bỏ ra một khoản tiền không nhỏ mua về những bộ sách (giá thành có kèm phí dịch vụ cao) mà nội dung thì lại không đạt chất lượng.
Không chỉ riêng ngành sản phẩm sách, gần như phần lớn sản phẩm giải trí, dịch vụ, hàng hóa nông nghiệp, công nghiệp khi qua công đoạn dịch vụ thì đều có chi phí tăng đột biến với mức phí trên 70  - 80%.
Cụ thể, qua nhiều thông tin khác nhau, tôi được biết chi phí quảng cáo, tiếp thị các sản phẩm sữa lên đến 60-70%.
Vậy chi phí sản xuất, chi phí nguyên liệu, lương công nhân, chi phí khác sẽ chiếm thêm bao nhiêu phần trăm và giá trị thực còn lại trong chất lượng sữa đáng giá là bao nhiêu?
Chiết khấu cho các đại lý phân phối của mặt hàng phân bón, thuốc trừ sâu, hóa chất, thức ăn, thuốc thú y, gia súc, gia cầm, thủy sản,… là trên 40 - 50% và có không ít sản phẩm lên đến 80%. Cộng với chi phí sản xuất, chi phí nguyên liệu, lương công nhân, chi phí khác,…
Vậy chất lượng thực của sản phẩm sẽ là bao nhiêu?
Tôi không cho rằng là không nên áp giá chi phí dịch vụ nhưng có lẽ xã hội đang rất cần một sự phân phối giá trị thặng dư xã hội phù hợp, hợp lý hơn.
Hơn 15 năm trước, tôi bước chân vào giảng đường đại học. Lúc bấy giờ phí sinh hoạt hàng tháng của tôi chỉ vào khoảng 250.000 (Hai trăm năm mươi nghìn đồng). Với số tiền đó tôi đảm bảo cuộc sống ở mức sống trung bình thấp nhưng vẫn đủ điều kiện tốt nghiệp đại học.
Với số tiền 250.000 đồng ở thời điểm hiện tại dường như không đủ chi tiêu cho việc ăn sáng, uống cà phê trong vòng 10 ngày còn các cô, các chị,… sống ở nông thôn sẽ không thể dùng số tiền trên đi chợ hơn 3 lần,…
Với định hướng phát triển hiện tại liệu 10 năm sau 250.000 đồng có đủ để cho bạn mời một người bạn một ly cà phê sáng?
Lẽ nào nhân loại sẽ lại có thêm nhiều quốc gia Zimbadwe mới trong tương lai?
Khi đó con người sẽ dùng nhiều tỷ đồng nhằm trao đổi 1 cái bánh mì, 1 lon nước giải khát và phải gánh tiền đi chợ mua sắm,…
Quả thật, xã hội ngày càng phát triển, hàng hóa, sản phẩm vật chất ngày càng nhiều,… Đời sống con người dường như được cải thiện, nâng lên với những tiện nghi, vật chất phục vụ nhu cầu sống ngày càng phong phú, đa dạng.
Tuy nhiên, con người dường như ngày càng mệt nhoài hơn trong dòng đời hối hả, quay cuồng. Đời sống tinh thần của con người dường như đã bị cuốn vào trong guồng máy kinh tế hàng hóa.
Việc không có thời gian trui rèn nhân cách đạo đức cho thế hệ trẻ và tự thân người lao động, người tiêu dùng, các nhà quản lý, các thành phần, tầng lớp xã hội khác nhau.
Mai này, khi con người không còn sức lao động buộc phải rời bỏ sản xuất với một khoảng trống nội tâm, khoảng cách giữa hai thế hệ. Hẳn là xã hội hỗn loạn, cuộc sống người già sẽ khốn cùng, quẫn bách. Vì lẽ thế hệ trẻ đã sống hưởng thụ hết phần lớn vật chất, tài sản mà thế hệ đi trước vất vả tạo ra. Lối sống thực dụng với tâm hồn chai sạn, trống rỗng thương yêu khiến thế hệ trẻ ruồng bỏ thế hệ đi trước già lẩn đến hồi vô dụng,…
Lẽ ra, nhân loại cùng chung tay xây dựng xã hội loài người với định hướng sáng suốt, rõ ràng hơn.
Hơn 15 năm để nhân loại nhận biết số lượng vật chất hàng hóa không ngừng tăng lên với số lượng vô cùng lớn nhưng có một sự thật là giá trị vật chất dường như không tăng nhiều.
Có chăng chỉ là sự bóp méo, làm biến dạng vật chất nhằm tạo ra giá trị thặng dư ảo, không thật?
Tại sao tri thức nhân loại lại tạo ra sai lầm với một lỗ hổng quản lý vật chất lớn đến vậy?
Từ sai lầm đó nhân loại đã xây dựng xã hội con người về kinh tế - chính trị - khoa học - dịch vụ - giáo dục,… trên một tảng băng trôi dưới sức nóng thiêu đốt của lòng tham con người.
Cuối cùng thì tôi cũng nhận ra nguyên gốc đã tạo ra sai lầm. Do bởi con người cứ mãi trói tâm vào trong cái vỏ bọc an toàn ảo tưởng của chủ nghĩa thực dụng có nơi tính phân biệt hẹp hòi, ích kỷ, không sáng rõ dẫn đến việc tạo ra góc nhìn phiến diện, chủ quan, sai lạc. Khi con người được chuyên biệt cho từng vị trí kinh tế - chính trị - khoa học - dịch vụ - giáo dục,… thì việc làm của họ cũng trói vào quyền lợi, lợi ích, lòng tự hào,… cho vị trí, tổ chức mà họ tham gia và trên cả là phục vụ cho lối sống thụ hưởng cá nhân. Tóm lại, con người đã trói sự hiểu biết vào cái tôi, cái của tôi nên góc nhìn và việc làm dần đánh mất sự khách quan, tổng thể, đúng mực.
Xét lại sự tồn tại và phát triển của nhân loại từ ngàn xưa đến nay. Con người đã sống và tồn tại là dựa vào cái gì?
Dựa vào lòng tham, vào việc cướp bóc, xâm lược, gây thù hận, tạo chiến tranh, đau khổ trong lòng nhân loại chăng?...
Không đúng. Con người đã tồn tại và dân số ngày càng tăng là vì con người có đủ thức ăn để sống. Chính thức ăn là nguồn sống của nhân loại. Lẽ ra nhân loại phải thông suốt, thừa nhận và đặt vấn đề xây dựng phát triển nhân loại trên nền tảng thức ăn của con người.
Nói một cách khác, lẽ ra giá trị thặng dư của xã hội phải gắn kết chặt chẽ và dựa trên giá trị vật chất mà ngành nông nghiệp tạo ra.
Tất cả các ngành nghề khác như kinh tế - chính trị - khoa học - dịch vụ - giáo dục - công nghiệp,… chỉ là những ngành phụ trợ phục vụ cho cuộc sống con người. Ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nông sản - thực phẩm,… cũng chỉ là ngành làm biến dạng vật chất hàng hóa thức ăn chứ không là ngành trực tiếp sản xuất ra thức ăn.
Khi thừa nhận giá trị hàng hóa của nông nghiệp là tiêu chuẩn đánh giá sự phát triển an sinh xã hội, là giá trị thặng dư chuẩn mực thì nhân loại sẽ định mức được giá thành sản phẩm nông nghiệp.
Đặt giả định độ chênh lệch giá thành sản phẩm từ khâu sản xuất đến bộ phận tiêu dùng là 20 - 25%. Đây là khoản chênh lệch đảm bảo cuộc sống cho người lao động ở các thành phần sản xuất, quản lý, vận chuyển, dịch vụ,… là khoản chênh lệch cần có.
Thế nên giả sử tổng giá trị chi phí vật chất tạo ra sản phẩm nông nghiệp là 100.000 (Một trăm ngàn đơn vị tiền) thì giá bán của sản phẩm hàng hóa nông nghiệp đến người tiêu dùng là 120.000 - 125.000 (Đơn vị tiền).
Tương tự như vậy, dựa trên tiêu chí tổng chí phí tạo ra sản phẩm công nghiệp mà nhân loại cộng vào khoản chênh lệch đảm bảo cuộc sống người lao động cũng như ở các thành phần, tầng lớp xã hội khác nhau.
Giả sử tổng giá trị chi phí vật chất tạo ra sản phẩm công nghiệp là 100.000 (Một trăm nghìn đơn vị tiền) thì giá bán của sản phẩm hàng hóa công nghiệp đến người tiêu dùng là 120.000 - 125.000 (đơn vị tiền).
Giá trị thặng dư của nhân loại hàng năm chính thật là khoản chênh lệch về tổng chi phí giá sản xuất và giá bán sản phẩm nông nghiệp - công nghiệp.
Trong giả định này thì giá trị thặng dư sẽ vào khoảng 40.000 - 50.000 (đơn vị tiền). Lúc bấy giờ nhà quản lý sẽ phân phối phần giá trị thặng dư trên cho các thành phần, tầng lớp xã hội thông qua một thông số hợp lý, hài hòa đảm bảo cho con người trong các thành phần xã hội có cuộc sống ổn định, phát triển.
Còn số tiền gốc biểu trưng cho tổng giá trị chi phí vật chất của cả công nghiệp và nông nghiệp sẽ lại tái đầu tư cho việc sản xuất ra sản phẩm hàng hóa phục vụ nhu cầu xã hội.
Kết hợp với một phần giá trị thặng dư được phân phối hài hòa, phù hợp cho người lao động thì số lượng hàng hóa sẽ có sự tăng trưởng hàng năm hợp lý tùy thuộc vào nhu cầu xã hội mà nhất là yếu tố dân số thế giới tăng trưởng hàng năm.
Ở thời điểm hiện tại dân số thế giới tăng vào khoảng trên dưới 1% (Tương đương với khoảng 70.000.000 người/năm). Thế nên, lượng vật chất cũng như giá trị thặng dư nhân loại hàng năm tăng thêm vào khoảng trên dưới 1%. Nếu nhân loại quản lý giá trị thặng dư cũng như sản phẩm vật chất theo phương cách này thì hẳn là xã hội con người sẽ phát triển hài hòa, cân đối và ổn định.
Lượng vật chất, hàng hóa của ngành nông nghiệp - công nghiệp là nền tảng của giá trị thặng dư nhân loại. Những sản phẩm mới của khoa học đều có nguồn gốc từ nông nghiệp - công nghiệp. Vì thế những sản phẩm vật chất đó cũng không thể tạo ra những đột biến về giá trị thặng dư gây ra biến động xã hội do quá trình nhào nặn của ngành dịch vụ - kinh tế - quản lý.
Khi nhân loại sống trong tư duy, nhận thức chuẩn mực, có hiểu biết, có sự đồng cảm, sẻ chia, yêu thương đồng loại chân thành thì khoảng cách giàu nghèo sẽ được thu hẹp. Chiến tranh, áp bức, bóc lột giữa người với người sẽ bị đẩy lùi, con người sẽ không phải ngụp lặn trong nỗi lo cơm áo gạo tiền, không còn sống trong hận thù, ganh ghét,...
Khi nhân loại sống theo định hướng phát triển chuẩn mực thì sẽ không tạo ra sự hoang phí vật chất. Việc làm đúng mực này sẽ không vắt kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, nước ngọt có trong lòng trái đất,...
Hiện tại, nhân loại đang xây dựng, phát triển xã hội loài người theo định hướng nào?
Không có một sự gắn kết đúng mực giữa các quốc gia trên thế giới, tính phân biệt, tự hào dân tộc,… đã tạo ra khoảng cách giữa người với người. Dường như nhân loại đang tồn tại dựa trên cơ sở con người dùng sự hiểu biết nhằm tận dụng, bóc lột sức lao động của những người kém hiểu biết hơn, những người lao động nghèo.
Giá trị thặng dư của nhân loại lại chịu sự chi phối, điều tiết dựa trên nền tảng phí dịch vụ, phí quản lý,… mà không dựa vào giá trị vật chất thực của sản phẩm hàng hóa nông nghiệp - công nghiệp. Việc phân phối giá trị thặng dư là không thật đúng mực, không hài hòa, cân đối với nhu cầu của người tiêu dùng, người lao động.
Giả sử tổng chi phí tạo ra sản phẩm vật chất nông nghiệp là 100.000 (đơn vị tiền). Giá bán của sản phẩm nông nghiệp ít khi được người lao động làm chủ. Đôi khi giá bán sản phẩm chỉ bằng hoặc thấp hơn cả chi phí sản xuất. Nguyên do là xã hội đã không đưa ra được một thông số về khoản chênh lệch hợp lý cần thiết giữa tổng chi phí sản xuất và giá bán.
Đặt trường hợp sản phẩm nông nghiệp được thu mua với giá 120.000 (đơn vị tiền) tương đương với độ chênh lệch giá vào khoảng 20%.
Khi đơn vị thu mua bán lại cho các nhà phân phối thì giá thành sản phẩm sẽ tăng thêm 20 - 30%, giá thành sản phẩm lúc bấy giờ là 144.000 - 156.000 (đơn vị tiền). Cho đến khi sản phẩm hàng hóa đến tay người tiêu dùng thì sẽ được tăng thêm 20 - 30% và giá bán của sản phẩm trên thị trường là 187.200 - 202.800 (đơn vị tiền).
Thực tế đây chỉ là vòng chu chuyển sản phẩm hàng hóa đơn giản và lũy tiến giá trị thặng dư là tương đối thấp so với tình hình thực tế hiện nay. Dù vậy độ chênh lệch chi phí sản xuất và giá bán sản phẩm hàng hóa đã lên đến 100%. Đây là giá trị thặng dư ảo, không thật và không có sự phân chia đồng đều, không dựa vào sức lao động mà người lao động đã bỏ ra.
Người tiêu dùng lại phải gánh chịu 100% giá trị thặng dư ảo cộng với 100% giá trị thặng dư thật có trong sản phẩm hàng hóa là điều không thật hợp lý.
Với định hướng phát triển xã hội hiện tại thì hàng năm phí dịch vụ, quản lý,… không ngừng tăng sẽ tạo ra sức ép vô cùng lớn đến người lao động, người tiêu dùng.
Không chỉ vậy. Do có sự gia tăng không ngừng và vô cùng lớn ở giá trị thặng dư ảo, không thật sẽ dẫn đến sự lạm phát kinh tế, gây ra những biến động, phân hóa xã hội sâu sắc. Bởi do giá trị hàng hóa vật chất nông nghiệp - công nghiệp về cơ bản chỉ tăng trên dưới 1% trong khi giá trị thặng dư hàng hóa ảo lại tăng đến 100%. Thế nên sẽ có một số lượng giá trị thặng dư quy đổi tương đương (đơn vị tiền) được in ấn nhằm đảm bảo chu trình vật chất hàng hóa luân chuyển. Việc làm này kéo dài gây ra hiện tượng mất giá đồng tiền và trải qua một khoảng thời gian lâu xa thì nền kinh tế - xã hội - chính trị sẽ rơi vào tình trạng suy thoái, lạm phát, hỗn loạn,...
Việc phân chia khoản chênh lệch giá trị thặng dư không đúng mực sẽ dẫn đến sự phân tầng giàu nghèo rõ rệt giữa các thành phần, tầng lớp trong xã hội. Sự chênh lệch càng lớn làm cho xã hội con người thêm rối ren, bạo loạn, trộm cướp, tệ nạn xã hội,… sẽ hình thành và phát triển gây ra sự bất ổn, việc bấn loạn nội tâm trong lòng nhân loại.
Hẳn là sẽ có nhận định cho rằng dù cho giá bán sản phẩm đến tay người tiêu dùng không đúng với giá trị thật của sản phẩm thì vẫn đảm bảo sự ổn định, tính công bằng trong xã hội. Vì lẽ người tiêu dùng là toàn nhân loại thế nên khoản chênh lệch giá trị thặng dư của phí dịch vụ, quản lý ở mức cao là điều chấp nhận được.
Nhận định trên có sự chuẩn mực, khách quan không?
Xét vấn đề giá trị thặng dư ảo, không thật nơi giá trị sản phẩm hàng hóa ở bản chất của nhân loại. Xã hội hiện tại có sự phân chia giàu nghèo vào khoảng 70 - 80% người lao động nghèo và 20 - 30% là thành phần người giàu có. Trong khi khoản vay 50.000.000 (Năm mươi triệu đồng) trở thành gánh nặng kinh tế cho cuộc sống gia đình của người lao động nghèo và khoản nợ đó kéo dài qua nhiều năm, nhiều thế hệ. Điều này đồng nghĩa với việc toàn bộ công sức của người lao động sau khi quy đổi thành giá trị thặng dư vào khoảng 3.000.000 (Ba triệu đồng/tháng) sẽ gánh lấy toàn bộ chi phí dịch vụ, quản lý,… không ngừng tăng thêm của xã hội một khi họ tham gia vào đời sống, làm người tiêu dùng.
Ngược lại, một người giàu có 2 tỷ đồng gửi vào ngân hàng với mức lãi suất 1% thì hàng tháng họ có 20 triệu đồng để chi tiêu. Thế nên khi khoản chênh lệch giá trị thặng dư có ở phí dịch vụ, quản lý thì người giàu càng nhận được nhiều lợi ích. Vì lẽ với nguồn tài chính dồi dào 20 - 30% thành phần người giàu sẽ đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - chính trị - khoa học - xã hội - tài chính - chứng khoán - địa ốc,… nhằm gom góp phần giá trị thặng dư của nhân loại.
Định hướng xây dựng xã hội của nhân loại ở thời điểm hiện tại là có sự ưu đãi cho người giàu và đẩy cuộc sống người lao động, người tiêu dùng nghèo rơi xuống mức sống đói nghèo, khốn cùng.
Tại sao tri thức nhân loại lại có thể tồn tại dựa trên sự bất hợp lý về việc phân phối giá trị thặng dư và sự chênh lệch sâu rộng về mức sống giữa người với người?
Có lẽ rất cần một sự thay đổi định hướng xây dựng xã hội kịp thời, đúng mực nếu nhân loại không muốn chứng kiến sự đổ vỡ các hình thái xã hội hiện nay. Hiển nhiên khi trong lòng nhân loại có những sự đổ vỡ, biến động thì máu, nước mắt, hận thù, đau khổ,… sẽ não hại con người.
Cá sấu hoa cà, trăn gấm, kỳ đà,… đã có lúc nằm trong sách đỏ với mức báo động đỏ về khả năng tuyệt diệt, cấm săn bắt với mọi hình thức. Dù vậy đã có một số người “vượt rào”, lén nuôi. Sau khi nhân giống thành công và hợp thức hóa việc nuôi với quy mô công nghiệp, đại trà thì những chủng loài gần như tuyệt diệt đã phát triển đông đúc về số lượng.
Bên cạnh đó, tê giác, voi rừng, hổ, báo,… được đưa vào diện bảo vệ nghiêm ngặt thì ngày càng giảm sút về số lượng. Dường như con tê giác cuối cùng của rừng tự nhiên Việt Nam đã chết.
Mở rộng vấn đề, dường như những chủng loài mà con người được phép tiếp cận, nuôi giữ, ăn thịt thì ngày càng gia tăng về số lượng. Còn những chủng loài mà có sự can thiệp, bảo vệ nghiêm ngặt, tách biệt với con người thì ngày càng trở nên hiếm và đối mặt với nguy cơ diệt vong chủng loài.
Dù vậy do góc nhìn hạn hẹp, chủ quan các nhà quản lý động vật hoang dã thế giới đã có những sự điều tiết không hợp lý, gây khó khăn cho công tác nuôi giữ, cho sinh sản những loài sinh vật hoang dã quý hiếm. Những quy định ràng buộc không đúng mực đã tạo ra một bộ phận nhà quản lý không có sự hiểu biết sáng rõ, tham lam, tha hóa nhân cách có điều kiện nhũng nhiễu, gây rối loạn lòng người.
Nhiều năm trước, số lượng cá thể hổ sống nơi rừng tự nhiên ở khu vực Đông Nam Á chỉ còn với số lượng rất ít. Những tổ chức nghiên cứu nuôi dưỡng, chăm sóc của các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành lại không thể sinh sản thành công ở mức ổn định giống loài hoang dã, quý hiếm này. Trong khi đó, chỉ sau một vài năm tiếp cận, nuôi dưỡng thì đã có những nhà doanh nghiệp tư nhân cho sinh sản thành công hổ.
Tuy nhiên, các nhà quản lý đã có sự can thiệp đến việc nuôi giữ, chăm sóc loài động vật hoang dã quý hiếm mà tư nhân nuôi giữ cho sinh sản thành công.
Sự can thiệp của các nhà quản lý có đúng mực nhằm đảm bảo cho loài thú quý hiếm sinh tồn và phát triển hay không?
Nếu việc làm của những người có tấm lòng yêu thương những loài thú hoang dã quý hiếm chịu sự tác động, chi phối không đúng mực nơi những nhà quản lý thì việc tuyệt diệt những loài sinh vật quý hiếm phải chăng sẽ do các nhà quản lý chịu hoàn toàn trách nhiệm?
Liệu những nhà quản lý can thiệp không đúng mực sẽ chịu trách nhiệm ra sao khi mà họ không có đủ trình độ kỹ thuật nuôi giữ, cho sinh sản và trên cả là họ thiếu đi một tình yêu thương những loài vật nuôi?
Họ bỏ mặc những chủng loài sinh vật hoang dã cố sống sót trong môi trường tự nhiên khắc nghiệt, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp do nơi con người khai thác không đúng mực, tàn phá tự nhiên.
Mặc tình cho những loài sinh vật hoang dã sống chết trong điều kiện bất lợi, lẽ nào cách hành xử như vậy là có trách nhiệm?
Trong khi các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học,… chưa tìm ra được phương pháp sinh sản các giống loài mới như nhím, kỳ đà, rắn, dế, rết, rắn mối, nhông cát,… hoặc là chưa thể đưa quy trình sản xuất các giống loài trên ở quy mô lớn thì những người lao động cần mẫn đã làm tốt quy trình sản xuất, nuôi sinh sản các loài vật nuôi có nguồn gốc hoang dã.
Lúc bấy giờ, các nhà quản lý lại “để mắt”, tác động đến việc làm của người lao động là nhằm vào mục đích gì?
Quản lý các đối tượng nuôi hay lợi dụng “kẽ hở” luật pháp để nhũng nhiễu, kiếm lợi phi pháp thông qua khoản phí dịch vụ, quản lý,… không có giá trị thực tiễn. Việc làm sai trái, kém hiểu biết ở một bộ phận nhỏ thành phần quản lý sẽ gây mất niềm tin của người dân đối với khả năng quản lý của thành phần lãnh đạo đất nước.
Lẽ ra, việc các nhà quản lý cần làm là hỗ trợ, giúp đỡ, hướng dẫn những người lao động chân chính về kỹ thuật nuôi, kỹ năng quản lý, việc thiết kế chuồng trại, tạo đầu ra cho sản phẩm, cân đối, điều tiết, quy hoạch số lượng, mật độ cho từng đối tượng nuôi,… Đó mới thật sự là việc mà người quản lý cần làm, là những việc làm có sự đúng mực, phù hợp với lòng người lao động, giúp đất nước ngày càng giàu mạnh.
Việc can thiệp không đúng mực đối với vấn đề nuôi trồng sản xuất những chủng loài mới có nguồn gốc hoang dã sẽ chặn đứng tính sáng tạo, ý tưởng phát minh ở người lao động. Đối tượng nuôi trồng, sản xuất lương thực, thực phẩm ở con người sẽ bị hạn chế, nghèo nàn.
Có lý nào các nhà quản lý vội quên những loài vật nuôi, cây trồng hiện nay đều có nguồn gốc từ thiên nhiên hoang dã và chúng đã được con người thuần hóa từ ngàn xưa?
Nếu người xưa không thuần hóa các loài cây trồng, vật nuôi thì phải chăng con người ngày nay phải sống cuộc đời săn bắt và hái lượm?
Việc nhà quản lý ngăn cấm, cản trở việc sản xuất các sản phẩm hàng hóa tiêu dùng không đúng mực, việc tác động không tạo ra việc làm ổn định, bền vững cho người lao động là việc làm không thật hợp lý. Bởi lẽ đời sống của người lao động các nhà quản lý không thể bảo bọc, đảm bảo thì sao có thể ngăn cấm người lao động tham gia sản xuất.
Khi không tạo ra giá trị thặng dư người lao động lấy gì đảm bảo đời sống cá nhân, gia đình, việc học của con cháu,…?
Nếu cuộc sống người lao động rơi vào nghèo đói mà không có lối thoát, không việc làm thì phải chăng người lao động sẽ tham gia vào tệ nạn xã hội bia rượu, thuốc lá, mại dâm, trộm cướp, lừa đảo,…?
Lẽ ra, đứng ở cương vị quản lý, các nhà quản lý,… sẽ có tầm nhìn rộng mở, sáng suốt,… nhận biết số lượng vật chất hàng hóa từng loại sản phẩm mà xã hội cần đến mà có sự điều tiết sản xuất hợp lý, tránh tình trạng người lao động sản xuất dư thừa mặt hàng này dẫn đến “rớt giá” sản phẩm do cung vượt cầu.
Bên cạnh đó, lại thiếu hụt sản phẩm kia dẫn đến biến động giá tăng, gây khó khăn cho công tác quản lý và ảnh hưởng đến đời sống người dân, rối loạn xã hội. Nhà quản lý cần làm tốt công tác điều tiết sản phẩm hàng hóa hơn là tham gia tác động vào sản xuất một cách không hợp lý nhằm mục đích thu gom giá trị thặng dư bằng việc tạo sức ép quản lý lên người lao động sản xuất.
Việc điều tiết sản xuất chuẩn mực cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế giới dựa trên cơ sở bình đẳng, sẻ chia giá trị thặng dư thật của nhân loại. Việc điều tiết của các nhà quản lý tránh vấp phải sai lầm tạo phong trào sản xuất ồ ạt, không định hướng do sự tác động không đúng của giới báo chí.
Những năm gần đây, báo chí đã góp phần tạo ra những biến động cho việc sản xuất ở người lao động. Nguyên nhân là do một số người làm báo đã không khách quan, không đứng ở góc nhìn tổng thể để trình bày vấn đề, việc trình bày nội dung bài viết không thực tế, không đúng với tình hình sản xuất chung. Đã có rất nhiều loại cây, con giống được “thổi phồng” giá trị thật khiến người lao động đổ xô sản xuất theo phong trào.
Kết quả là phần nhiều những người tham gia phong trào bị thất bại, chỉ có một số rất ít người lao động “sống được” nhờ vào đối tượng mà họ sản xuất thành công.
Tại sao?
Tại vì không nắm rõ quy trình sản xuất, hoặc do cung vượt cầu dẫn đến trắng tay, hoặc do không yêu nghề, hoặc do khi tham gia vào phong trào người lao động phải mua giá trị ảo, giá thành không đúng với giá trị thật của sản phẩm hàng hóa,…

Tôi gượng nói cho ý từ lệch lạc
Buông đằng đông
Buông đằng tây
Cho mây lặng, nước ngừng trôi…

Tôi đã trình bày khá nhiều vấn đề khác nhau. Việc trình bày không nhằm vào việc chứng tỏ sự hiểu biết cá nhân, cũng không vì việc chỉ trích những sai lầm ở nhân loại, chỉ là nêu ra những vấn đề sai lệch những mong tri thức nhân loại nhìn nhận lại việc định hướng xây dựng, phát triển xã hội con người.
Việc trình bày cũng không hoàn toàn nhằm vào quốc gia, tổ chức, thành phần, tầng lớp nào của xã hội mà chỉ nhằm vào những vấn đề chung tồn tại trong lòng nhân loại. Việc làm của tôi chỉ nhằm mục đích góp phần làm cho xã hội phát triển hài hòa, ổn định, lòng người yên bình và có đời sống tốt hơn.
Phần lớn nội dung vấn đề tôi trình bày là mặt trái của cuộc sống và nhất là tôi đã trình bày lại bản chất của sự sống, con người.
Việc tôi trình bày giống như là việc mô tả phần chìm và bản chất của tảng băng.
Phần nổi của tảng băng đã có rất nhiều người mô tả. Nhưng phần lớn những người mô tả đã trói việc nhận biết tảng băng ở góc nhìn ngay dưới chân và không dựa trên nhận thức, tư duy, hiểu biết tổng thể, khách quan,...
Nguyên nhân dẫn đến góc nhìn hạn hẹp, thiếu khách quan trên là do con người đã trói sự hiểu biết vào việc học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề ở sự chuyên biệt cho từng bộ phận, từng ngành nghề riêng lẻ. Từ góc đánh giá thiên lệch, không dựa trên tổng thể dẫn đến việc xây dựng phát triển xã hội dựa trên hàng loạt những sai lầm.
Ngay nơi sự hiểu biết sai lạc nhân loại thì tri thức nhân loại chỉ cần chút ít thời gian dừng lặng sẽ dễ dàng nhận ra phần nổi tảng băng thường sớm tan chảy trước sức nóng thiêu đốt của mặt trời cùng với lòng tham dục con người.
Sự luân hồi của chúng sinh ở 3 cõi 6 đường về bản chất cũng như là sự tan rã và kết tụ nơi tảng băng.
Nếu con người không dùng sự hiểu biết đúng mực thì gốc ngọn sẽ luân chuyển tuần hoàn. Phần nổi của tảng băng sẽ tan chảy hòa vào dòng nước, cho đến khi đủ các yếu tố nhân duyên lại tạo thành phần chìm của tảng băng và ngược lại, quá trình luân chuyển của luân hồi cứ thế tương tục.
Chỉ khi con người có hiểu biết sáng rõ thì con người dừng lặng lại rời khỏi cuộc chơi luân hồi với vô số khổ đau, nghiệt ngã, khốn cùng.
Hơn 2500 trước Thái tử Tất đạt đa trở thành người giác ngộ giải thoát hoàn toàn mà không phải thông qua cơ sở trung cấp, cao đẳng, đại học Phật học. Người thành Phật mà không có lấy một tấm bằng đại học, cao học hay tiến sĩ Phật học. Bởi do không trói vào bất cứ một chủ thuyết, một kiến chấp sai lầm nào nên Người thành Phật.
Nếu tâm ý Người còn trói vào trong bất kỳ nhận thức, tư duy, sự hiểu biết cố định thì nhân loại sẽ không có một bậc giác ngộ, giải thoát hoàn toàn ra đời.
  • Trái Tim.
Thuở xa xưa, khi trái đất còn hoang vắng con người lúc bấy giờ tập hợp thành nhóm nhỏ sống quanh những vùng đất có nhiều cây trái, nơi có những loài thú nhỏ và sông hồ. Do số lượng con người thời ít mà trái cây và muôn thú nhiều nên trong cuộc sống loài người ít khi phải va chạm, tranh giành dẫn đến giết hại đồng loại. Đến khi dân số loài người tăng lên, việc tranh giành lãnh thổ dẫn đến máu và mạng sống con người trở nên mong manh, nhỏ bé. Một nhóm người rời bỏ nơi cư trú, tìm đến vùng đất mới. Nhóm người này đến một khu vực có một hồ nước lớn có nhiều cá tôm và đất đai màu mỡ. Họ tiến hành canh tác, trồng trọt trên vùng đất mới. Do họ là một cộng đồng có cùng huyết thống nên họ sống hòa thuận và không lập ra ranh giới, cùng sống, lao động, xây dựng cộng đồng người. Một thời gian sau, lại có thêm một cộng đồng người khác tìm đến. Ban đầu, hai cộng đồng người này cũng sống hài hòa, nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau nhưng cũng có những ranh giới, giới hạn được phân định mơ hồ. Hai cộng đồng người ngày càng đông đúc và vấn đề tư hữu đã dẫn đến phát sinh tranh chấp về lãnh thổ, quyền lợi,… Cái hồ nước ngọt chứa đầy tôm cá trở thành là nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa hai cộng đồng người. Sau nhiều cuộc thương lượng không thành, hai cộng đồng người mới nhờ đến sự phân xử của những cộng đồng người khác từ một nơi xa xôi đến phân xử.
Việc làm này có thật sự ổn và đúng đắn không?
Hiển nhiên là khi đứng ra phân xử thì những cộng đồng người mới đến sẽ được gì?
Chủ nghĩa thực dụng, lối sống hưởng thụ, coi thường luân lý sống,… đã tạo ra lòng tham ở một số ít người và cuốn nhân loại vào những cuộc giết chóc đẫm máu, gieo rắc hận thù, đau khổ vào lòng nhân loại. Nếu con người vẫn biết sống yêu thương đúng mực thì hẳn là sẽ không có việc tranh giành, lấn đất, giết người, hại mạng đồng loại.
Vai trò của cộng đồng người đứng ra phân xử thật sự có góp phần phân định ranh giới rõ ràng, chuẩn mực không?
Khi việc tranh chấp lãnh thổ leo thang trở thành chiến tranh thì liệu cộng đồng tham gia hòa giải có sự can thiệp hợp lý nhằm an định chiến tranh, bạo loạn hay họ sẽ rời đi vì đó là “Chuyện của thiên hạ”.
Nếu họ không được gì khi góp phần hòa giải tranh chấp giữa hai cộng đồng người thì họ sẽ không nhất thiết phải thể hiện lập trường, bày tỏ quan điểm về việc tranh chấp?
Có thể không họ sẽ tạo điều kiện nhằm bán được nhiều vũ khí và gia tăng sức ảnh hưởng về vai trò, quyền lợi, địa vị,… trên trường quốc tế?

Có phải những cuộc chiến tranh, xâm lấn, cướp bóc,… xảy ra trong nhân loại đều xuất phát từ sự hiểu biết không đúng mực, tham lam, sân hận, si mê, hoài nghi, kiêu mạn và việc tự lừa mình, dối người?
Quả thật là tôi không đành lòng khi nhìn thấy một số người vì quyền lợi, địa vị, vai trò,… cá nhân mà khơi gợi sự tự hào ảo tưởng trong lòng người dân, những lời hứa hẹn về quyền lợi, vật chất mà mãi mãi những người dân nghèo không thể có được,… rồi đẩy người dân vào những cuộc giết chóc, hận thù, máu và nước mắt. Tôi sẵn sàng từ bỏ mạng sống của tự thân chứ sẽ không bao giờ từ bỏ việc ngăn chặn những việc làm xấu xa, gian trá,… của một số ít người với tham vọng bá chủ mà đẩy nhân loại vào những cuộc chiến sống còn phi nghĩa.
Tôi thấy gì nơi những kho vũ khí giết người, bom hạt nhân, tên lửa, chiến hạm,…?
Đó là tiền của, máu, xác thịt người, thành tựu khoa học, giá trị thặng dư của toàn nhân loại. Lẽ ra giá trị thặng dư của nhân loại tạo ra nhằm xây dựng một thế giới hòa bình, văn minh, tiến bộ. Nhưng giá trị thặng dư đó lại bị một số ít người chất chứa tham vọng bá chủ toàn cầu sử dụng sai mục đích nhằm giết người, xâm lược, tạo chiến tranh, gây thù hận.
Tham vọng độc chiếm biển đông của Trung Quốc. Mục đích tranh giành lãnh hải trên biển Đông nhằm vào trữ lượng dầu mỏ, khoáng sản dồi dào,… có trong lòng biển và thềm lục địa phải chăng chỉ là một phần của kế sách bá quyền của thành phần lãnh đạo Trung Quốc?
Nguyên nhân sâu kín ẩn trong việc thể hiện ý đồ độc chiếm biển Đông là do lòng người dân lao động, người nghèo của đất nước Trung Quốc đang rối loạn, việc phân tầng giàu nghèo ngày càng lớn, việc tham nhũng, hối lộ,… của không ít nhân vật có danh tiếng, địa vị, tầm ảnh hưởng lớn trên chính trường đã khiến người dân không còn tin vào khả năng quản lý của tầng lớp lãnh đạo, câu hỏi “Giai cấp thống trị đang sống cho người dân hay vì quyền lợi, vai trò, vị trí gia đình, dòng tộc và các thành phần ăn trên, ngồi trước?” được người dân đặt ra. Những lực lượng đối lập đã xây dựng những tổ chức chống đối nhà cầm quyền, đòi quyền tự trị, ly khai,…
Giới lãnh đạo vì chưa tìm ra được giải pháp thỏa đáng, hữu hiệu giải quyết vấn đề nội tại trong nước đã đưa ra kế hoạch “độc chiếm biển Đông” nhằm chuyển hướng chú tâm của người dân vào việc tranh giành lãnh hải với các nước quanh khu vực biển Đông.
Việc tạo ra xung đột, tranh chấp,… nhằm mục đích làm cho người dân nghèo quên đi nỗi lo nơi cuộc sống đói nghèo, vất vả, khắc khổ. Khi việc tranh chấp vượt mức tạo ra chiến loạn thì chính người dân với niềm tự hào dân tộc sẽ ra chiến trường và chết, giới lãnh đạo chẳng mất gì.
Nếu may mắn thì giới lãnh đạo giành giật, mở rộng được lãnh thổ, hải phận và dân số của Trung Quốc có thể sẽ được giảm thiểu, góp phần hóa giải áp lực dân số đang đè nặng lên công tác quản lý ở thành phần lãnh đạo.
Phải chăng giới lãnh đạo Trung Quốc đang dùng “Chuyển dịch di tâm đại pháp” nhằm che mắt người dân và khi cần thiết sẽ đánh một nước cờ “Cờ bí thí tốt”?
Xuyên suốt lịch sử Trung Hoa, số phận của người dân thường luôn là con cờ trên tay giới lãnh đạo bất nhân, bất nghĩa chăng?
Có lẽ nào nhân loại sẽ lại viết trang sử đẫm máu người Trung Hoa và người dân các nước trong khu vực biển Đông?
Còn gì nữa?
Hãy xét lại tình hình tranh chấp biển Đông của giới lãnh đạo Trung Quốc hiện nay với bối cảnh xã hội thời Tần Thủy Hoàng gồm thâu 6 nước.

Vào cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Hàn - Ngụy - Sở - Tần - Tề - Triệu - Yên là 7 nước lớn. Về sau, Tần Thủy Hoàng lộ rõ dã tâm thôn tính các nước chư hầu. Vì thế chính sách của các nước là tạo ra những liên kết nhằm chống lại mối đe dọa từ nước Tần. Đây là chính sách Hợp tung do Tô Tần, một chính trị gia, người đã đề xuất giải pháp chống lại sự bành trướng bạo ngược của Tần Thủy Hoàng. Ban đầu, chính sách Hợp tung tỏ ra rất hiệu quả. Nhưng về sau, Trương Nghi, một mưu sĩ nước Tần đã đề xuất chính sách Liên hoành nhằm phá vỡ liên minh của 6 nước lớn đương thời. Chính sách Hợp tung được vua Tần vận dụng thành công, sau cùng đã phá vỡ những gắn kết ô hợp, mong manh dựa trên cơ sở quyền lợi của mỗi nước. Dựa vào “Lợi mê lòng người” các chính trị gia của nước Tần đã phá vỡ tổ hợp liên minh 6 nước bằng vào chính sách chiêu dụ các nước nhỏ quay sang liên kết với Tần nhằm có được sự bảo hộ, quyền lợi, uy thế “Cáo mượn oai hùm”,… Nhà Tần đã linh động, uyển chuyển dùng chính sách Liên hoành mà từng bước thôn tính, đánh bại các nước còn lại.
Sang thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên (TCN), vua Tần dùng chiến thuật “Viễn giao cận công” - giao hảo với nước xa, tấn công nước gần, lấn đất các nước tiếp giáp như Hàn, Ngụy, Triệu, Sở nhưng ôn hòa với Tề. Các nước chư hầu có đôi lúc liên minh theo thuyết "Hợp tung" để chống Tần nhưng ràng buộc lỏng lẻo, Thêm nữa, nhiều vị vua chư hầu không thấy được lợi ích thiết thực của liên minh chống Tần mà bị nhà Tần lung lạc. Bởi “mờ mắt” trước lợi ích nhỏ cho nên mắc mưu vua Tần, dần dần trở thành nạn nhân trong quá trình xâm lấn của nước Tần. Nước Tề là nước thụ động nhất và ít tham gia vào liên minh chống Tần.
Kết quả là sau khi diệt nhà Chu năm 249 TCN, Tần tiếp tục thôn tính các nước khác. Đất đai, lãnh thổ các nước liền kề bị chiếm. Cuối cùng, Tần dùng sức mạnh quân sự lần lượt diệt hết 6 nước phía đông.
Năm 230 TCN, Tần chiếm Hàn.
Năm 225 TCN, Tần chiếm Ngụy.
Năm 223 TCN, Tần chiếm Sở.
Năm 222 TCN, Tần chiếm Yên và Triệu.
Năm 221 TCN, Tần chiếm Tề.

Khi đánh giá vấn đề tranh chấp biển Đông trên góc nhìn toàn cảnh, tổng thể, khách quan,… nhân loại sẽ nhận ra không có nhiều khác biệt lớn so với việc thôn tính các nước chư hầu của Tần Thủy Hoàng ở thời Chiến Quốc.
Có chăng là sự khác biệt về quy mô, mức độ, sự ngang ngược, ngạo mạn đến tráo trở của giới lãnh đạo Trung Hoa?
Sự manh động và cuồng ngạo của giới lãnh đạo Trung Hoa thể hiện rõ ở hành động xem thường công luận của nhân loại, xung đột trực diện cả với Nga, Nhật, Hàn Quốc, Philipin, Inđônêxia, Việt Nam,…
Để phá vỡ liên minh các nước, giới lãnh đạo Trung Hoa “ném” cho Campuchia một số “mối lợi” nhằm chia rẽ khối đoàn kết trong nội bộ các nước Asian.
Giới lãnh đạo Trung Hoa lại gia tăng sức ép kinh tế, hợp tác,… nhằm chèn ép, ngăn chặn, hạn chế các nước trong cộng đồng quốc tế, Liên Hiệp Quốc can thiệp vào vấn đề biển Đông. Việc làm trên nhằm tạo điều kiện cho giới lãnh đạo Trung Hoa chủ động thao túng, xâm chiếm, thôn tính đất đai, lãnh hải các nước trong khu vực biển Đông.
Tiếp đến, có không tham vọng bá quyền trên phạm vi thế giới của giới lãnh đạo Trung Hoa?
Hiển nhiên là việc làm ngông cuồng, sai trái của giới lãnh đạo Trung Hoa sẽ chạm đến rất nhiều sự phản đối của các nước trong khu vực và thế giới.
Có không khả năng leo thang chiến tranh khu vực biển Đông và trở thành Thế chiến thứ 3?
Phải chăng máu, nước mắt, hận thù, đau khổ,… ở con người lại được gieo rắc do nơi lòng tham và sự ngạo mạn, ngông cuồng và việc bế tắc trong việc quản lý đất nước, con người của giới lãnh đạo Trung Hoa?
Có không ý đồ “Điều chỉnh dân số Trung Hoa” trên diện rộng và “danh chánh, ngôn thuận”, một việc làm vô đạo, trái đức, bất nhân, bất nghĩa?
Phải chăng giới lãnh đạo Trung Hoa đang muốn “hợp thức hóa” việc leo thang chiến tranh, xung đột nhằm thôn tính, mở rộng lãnh thổ, vùng biển bằng vào việc khuyến khích ngư dân Trung Hoa xâm phạm vào hải phận của các nước tranh chấp?
Giới lãnh đạo Trung Quốc đã “thâm độc” lôi kéo người dân vào vấn đề tranh chấp biển Đông, những con cờ thí cho ván cờ đua tranh quyền lực. Đây là việc làm vụng về đến người mù cũng dễ dàng nhận biết khi họ dừng lặng, lắng nghe, nhìn nhận lại việc làm “Xua ngư dân Trung Hoa xâm phạm vào hải phận nước khác đánh bắt hải sản, tôm cá,…”.
Việc làm sai trái này được giới lãnh đạo Trung Quốc cổ động, khuyến khích qua hành động cho hải quân yểm trợ ngư dân đánh bắt hải sản “lấn biển”.
Ngư dân đi đánh bắt hải sản phải chăng mang lại nguồn lợi khổng lồ đến mức cả hải quân cùng tham gia?
Mục đích sâu xa của việc làm trái với công ước quốc tế về lãnh hải của giới lãnh đạo Trung Quốc đang nhằm vào điều gì?
Giới lãnh đạo Trung Quốc đang gây dựng lòng tham và kích thích thái độ sống ngang ngược, ngông cuồng,… trong ngư dân. Việc tham lam, ngạo mạn,… sẽ khiến ngư dân ngày càng “lấn biển”.
Giới lãnh đạo Trung Quốc cứ lặng lẽ chờ đợi sự phản kháng từ các nước tranh chấp. Những cuộc xung đột, va chạm giữa các ngư dân trên biển Đông sẽ khiến một số ngư dân Trung Quốc thiệt mạng. Đây là điều mà giới lãnh đạo Trung Quốc chờ đợi, là cái cớ để giới lãnh đạo Trung Quốc hợp pháp việc thôn tính “lấn biển”.
Nếu chờ đợi mãi mà không thấy sự phản kháng quyết liệt từ các quốc gia tranh chấp, liệu giới lãnh đạo bất nhân, bất nghĩa, vô đạo, trái đức có thực hiện “Tội ác thâm độc” giết không ít ngư dân Trung Hoa rồi đưa vào hải phận các nước tranh chấp với ý đồ “Di thi giá họa” - đem xác chết đặt vào nhà người rồi cáo buộc “giết người, đền mạng”, nhằm gây rối, khuấy động chiến tranh?
Quả thật, với những việc làm mà giới lãnh đạo Trung Quốc từng bước triển khai trên biển Đông, tôi thật không có lập luận, cách lý giải nào khác hơn để tin rằng giới lãnh đạo Trung Quốc đang vì dân, vì nước mà thực thi việc xâm lấn, thôn tính các nước lân cận, chạm đến công luận nhân loại và cả việc xua người dân vào chỗ chết.
Rất hy vọng bộ sách tôi trình bày sẽ được dịch thuật sang nhiều thứ tiếng để mọi người cùng góp ý, sửa sai, giúp tôi cùng nhân loại nhận ra mục đích thật sự của việc tranh chấp biển Đông của giới lãnh đạo Trung Hoa.
Tôi không hy vọng những giả định tôi đặt ra về vấn đề biển Đông có tính chuẩn xác, là lẽ thật. Bởi lẽ… Thật rất thâm độc, tàn khốc! Đáng sợ thay lòng tham con người!
Tôi cũng mong mỏi người dân Trung Hoa hãy nên tỉnh táo, sáng suốt đánh giá lại vấn đề tranh chấp biển Đông. Đừng mù quáng ở nơi lòng tham và rơi vào quỷ kế “hại người, hại mình” của giới lãnh đạo Trung Quốc để rồi trở thành “con chốt thí” cũng như việc biến dân tộc, nền văn hóa truyền thống, lâu đời của đất nước Trung Hoa thành một “vết nhơ khó thể gột rửa” trong lòng nhân loại. Những mong người Trung Hoa đừng tạo công phẫn trong nhân loại vì bạn sẽ mất tất cả khi thực hiện việc làm bất nhân, bất nghĩa, vô đạo, trái đức, đánh mất giá trị con người.
Rất mong người Trung Hoa hãy “xét lại” nền văn hiến hơn 4000 năm truyền thống mà có thái độ và cách hành xử của một đấng trượng phu có sự hiểu biết sáng rõ, khách quan và chuẩn mực. Cám ơn!
Trước âm kế “Nhất tiễn hạ song điêu” của giới lãnh đạo Trung Quốc, tôi sẽ dùng “Chánh tông tâm pháp” của Phật môn nhằm ngăn chặn hành động bất nhân, bất nghĩa, vô đạo, trái đức, coi thường công luận của thế giới.
Có lẽ giải pháp “Tương kế, tựu kế” cần được giới lãnh đạo Trung Quốc cân nhắc. Xuống thang tranh chấp trên biển Đông, quay lại an định lòng dân bằng sự hiểu biết, đồng cảm, chia sẻ, từng bước rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các thành phần, tầng lớp trong xã hội, kêu gọi con người biết sống yêu thương chân thành vì “Chúng ta là đồng loại”.
Có lẽ khi bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” đến tay giới lãnh đạo Trung Quốc thì tôi sẽ là một con người rất ngông cuồng, là một cái gai cần phải nhổ bỏ. Nếu điều đó xảy ra thì tôi không lấy làm ngạc nhiên, lo sợ. Bởi lẽ ngay khi quyết định hoàn thành quyển sách đầu tay “Hãy là đường xưa mây trắng bay…” thì tôi đã đặt bản thân vào tình trạng “Là người không tồn tại”. Tôi đã nói rất nhiều điều mà lẽ ra không nên nói, nói về những mặt trái của xã hội mà con người không muốn phơi bày, chạm đến rất nhiều thành phần cực đoan, bảo thủ, giới chính trị, các thành phần tôn giáo,… Thế nên, việc cho đi trái tim, đôi mắt, lá gan,… chỉ nhằm làm cho sự việc nhẹ nhàng hơn. Việc bán sức lao động 300 triệu đồng cũng chỉ là việc làm tạo điều kiện cho những người oán thù dễ dàng “danh chánh, ngôn thuận” đòi lại “chút ít” công bằng. Vì thế, nếu nhận biết có người đến mua sức lao động của tôi nhằm mục đích “xả thịt” tôi cũng không từ chối việc bán mua.
Có gì đâu?
Trước sau gì cũng chỉ là một mạng sống nhỏ nhoi, hèn hạ.
Do vậy, nếu bạn muốn tôi trả giá thì thật rất dễ dàng. Mạng sống của tôi đã giao hẳn cho bạn định đoạt. Sẽ không bao giờ tôi hối tiếc vì tôi đã sống với tình yêu con người. Nơi đó có gia đình, người thân, dân tộc Việt Nam, Trung Hoa, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Pháp, Italia, Đức, Anh, LyBia, SyRia, Nam Phi, Somali,… Tri thức mà tôi có được cũng hun đúc từ nguồn tri thức cổ quý giá của dân tộc Trung Hoa, Ấn Độ và nhân loại. Tôi cảm ơn và trân quý họ cũng như sự sống con người.
Tuy nhiên, nếu bạn muốn tôi chết trong đớn đau, thảm khốc,… với một đôi mắt mù lòa, tay chân gãy nát, lồng ngực vỡ toan,… thì bạn hãy làm điều đó ở nơi chỉ có trời biết, đất biết, tôi biết và bạn biết. Đừng vụng về tạo ra niềm công phẫn trong nhân loại. Dù rằng tôi không yêu cầu họ xót thương và quên bỏ những điều không hay xảy ra cho tôi nhưng khi bạn tạo ra niềm căm phẫn thì tôi e rằng “Cái giá phải trả ở nơi bạn cũng không kém phần tàn khốc”.
Thiết nghĩ, nhân loại muốn tiến đến sự văn minh, tiến bộ, hòa bình và thế giới không còn xảy ra chiến tranh, bạo loạn, hận thù, đau khổ thì nhân loại cần phải có sự hiểu biết sáng rõ về bản chất sự sống, giá trị con người.
Tham vọng bá chủ hoàn cầu, tranh chấp quyền lực, lãnh thổ,… giữa các quốc gia, dân tộc,… cần được nhân loại xóa bỏ một cách triệt để và hoàn toàn.
Nhân loại cần phải ra sức chặn đứng việc sản xuất và xóa sổ kho vũ khí hạt nhân, vũ khí giết người. Việc cùng chung tay khắc phục biến đổi khí hậu, cứu lấy sự sống ở trái đất,… sẽ do mỗi người có hiểu biết đồng thời lên tiếng và hành động. Công luận của toàn nhân loại sẽ xây dựng lại xã hội con người hài hòa, bình đẳng, yêu thương.
Thế nên, có lẽ chút tri thức có trong bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” sẽ đóng góp ít nhiều cho việc tạo ra phép màu xây dựng kỷ nguyên mới ở nhân loại. Nếu có thể bạn hãy sống với sự hiểu biết khách quan của tự thân và vững tin trao truyền sách. Cảm ơn bạn!
Chúng ta hãy cùng chung tay tạo nên điều kỳ diệu cho cuộc sống nhân loại.
Những tưởng sau khi hoàn thành bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” gồm 8 quyển thì sẽ là khoảng thời gian ngắn mà tôi tận dụng cho việc ngơi nghỉ, dừng lặng, chuẩn bị hành trang cho hành trình bước qua sinh tử. Nào hay giới lãnh đạo Trung Quốc lại ngày càng ngang ngược khiến biển Đông dậy sóng, dẫn đến leo thang tranh chấp lãnh hải giữa các nước như Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc,...
Không chỉ vậy! Việc làm ngông cuồng của giới lãnh đạo Trung Quốc đã khiến giới thống trị Đài Loan càng thêm manh động “lấn đất, lấn biển”.
Phải chăng đây là cách hành xử “Cáo mượn oai hùm” hay lòng tham của loài người đã lộ rõ, dấu vết mập mờ của thế chiến thứ 3?
Tôi rất hy vọng “Đây chỉ là lòng tham của một số ít thành phần người ngang ngược, kém hiểu biết”.
Đảo Đài Loan với “đất chật, người đông”, việc ra sức giành giật, xâm lấn các vùng miền lân cận là điều không khó lý giải.
Nhưng việc hành xử của giới lãnh đạo Đài Loan như vậy là có thật sự chuẩn mực không?
Với diện tích gần 36.000 km2 và dân số hơn 23 triệu người, giới lãnh đạo Đài Loan lại xua người dân vào việc tạo chiến loạn, thực thi tội ác chống lại loài người.
Thực ra, mối quan hệ giữa Đài Loan và Trung Quốc là gì?
Mẹ con hay anh em?
Có lý nào việc ngông nghênh của giới lãnh đạo Đài Loan là do giới lãnh đạo Trung Quốc giật dây?
Cứ hãy “lấn biển” rồi một lúc nào đó giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ “thôn tính” và kết quả là sẽ được chút ít “quyền lợi tự trị” hay lại rơi vào tình trạng “Mất cả chì lẫn chày”?
Xem ra với “Lòng tham không đáy” của “người anh cả”, thật không khó để nhận biết “Điều gì sẽ xảy ra?”. Giới lãnh đạo Đài Loan hãy nên “Xét lại - Danh đã chính chưa?” mà vội thực hiện những hành vi cuồng bạo, ngang ngược, sai trái.
Với tư cách cá nhân tôi sẽ “xét lại” sự tồn tại của đảo Đài Loan, khi tôi “xét lại” thì cộng đồng quốc tế cũng sẽ “để mắt” đến cách hành xử của giới thống trị Đài Loan nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi gây biển Đông dậy sóng, ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh thế giới.
Khi khởi lên ý tưởng viết quyển sách “Trung Hoa, Còn Mãi Một Tình Yêu” nhằm chấm dứt tham vọng tranh chấp biển Đông giữa các nước thì tôi lại phải “xét lại” mọi vấn đề của nhân loại ở góc nhìn tổng thể, khách quan thêm lần nữa. Hành tinh xanh vẫn hãy còn vài vướng mắc, ta nên chăng “tận lực”?
Nhưng bạn có cần đến những điều tôi đã, đang và sẽ trình bày không?
Hay tôi lại lạc bước, chơ vơ giữa dòng đời?
Ngày 30 tháng 12 năm 2012 đã gần kề. Hơn nữa, cách hay nhất để “Dừng lại” cuộc chơi là tôi phải rời khỏi cuộc chơi. Dù vậy, tôi sẽ “bán lại” ý tưởng bộ sách với mức phí 0 đồng, hy vọng bạn sẽ đứng ở góc nhìn tổng thể, khách quan mà hoàn thành nội dung một bộ sách, giúp bộ sách có giá trị thực tiễn và khả dụng. Cám ơn bạn!
Bộ sách gồm 4 quyển với chủ đề có phần thời sự và thực tế.
- Chấm Dứt Khủng Hoảng Nợ Công Châu Âu. Nội dung quyển sách nhằm đưa ra giải pháp khả thi chấm dứt ngay lập tức khủng hoảng nợ công ở các nước Châu Âu cũng như ngăn ngừa hiểm họa khủng hoảng nợ công lan rộng trên phạm vi thế giới. Giải pháp giải quyết cần phải sáng rõ về thời gian “18 năm hay chỉ cần 6 tháng”. Tất nhiên, để thực hiện thành công “Giải pháp khả thi” thì bạn phải lấy đại cuộc làm trọng. Thế nên, dù không muốn “mạnh tay” nhưng bạn phải chấp nhận việc “Ta không giết ngàn người, ngàn người vì ta mà chết” và do tạo ra “chút” tư thù, bạn hãy nên chuẩn bị tinh thần “Làm người không tồn tại”.
- Giới Tính Thứ 3, Tình Yêu Nương Gá Lời Nguyền. Nội dung bộ sách đề cập đến thế giới những người đồng tính ở góc nhìn cảm thông, sẻ chia và đưa ra giải pháp giúp họ thoát ra khỏi những cảnh đời tăm tối, góp phần ngăn chặn những hệ lụy có nguy cơ xảy ra,… làm rối ren xã hội. Một vài góp ý cho bạn. Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) và những chuyên gia nhận định “Đồng tính không phải là bệnh”, “Việc nên thừa nhận giới tính thứ 3 nhằm giúp họ hòa nhập tốt vào xã hội”,… Ở một mức độ nghiêm trọng, các chuyên gia quốc tế đã làm sai. Việc hỗ trợ, giúp người đồng tính, giới tính thứ 3 hòa vào cuộc sống là việc làm chuẩn mực, cần thiết.
Nhưng bằng vào cách thức nào?
Đây là điều rất quan trọng. Không thể nói “Đồng tính không phải là bệnh” để khỏa lấp, che giấu sự thật. Nếu người đồng tính ngộ nhận “Tự thân không bị bệnh” thì họ sẽ không cần liệu pháp điều trị. Điều này thật sự rất nguy hại. Thế nên, việc bạn cần trình bày trong sách là phải chứng minh “Đồng tính thật sự là bệnh”. Bạn cần có những lập luận đúng mực, xác đáng nhằm chống lại những nhận định của các chuyên gia. Việc này có lẽ sẽ không khó nhưng lại là việc cần làm. Việc thừa nhận hay không thừa nhận giới tính thứ 3 ở thời điểm hiện tại đã là việc làm không cần thiết. Vì ngày nay có mấy ai không biết đến giới tính thứ 3. Thế nên, việc thừa nhận người đồng tính ở mức độ nào mới thật quan trọng. Việc thừa nhận cần phải có giới hạn, sự khách quan và không tổn hại đến người đồng tính, thể hiện rõ sự đồng điệu, sẻ chia chân thành. Nhưng không vì thế mà khiến nhân loại ngộ nhận “Chuyện đồng tính là thường, là hiển nhiên”. Vì lẽ, khi đó số lượng người đồng tính sẽ tăng rất nhanh ở xã hội. Đôi khi, số lượng người đồng tính, lưỡng tính sẽ vượt mức trở thành thường, còn người bình thường ít hơn sẽ trở thành người bệnh. Thêm nữa, bạn hãy đưa ra liệu pháp giúp họ cân bằng lại nội tâm bằng sự hiểu biết về tự thân. Giúp họ làm chủ yêu thương và dục vọng. Khi trình bày nội dung quyển sách này bạn hãy cân nhắc, thận trọng, tránh tạo ra những tổn thương không cần thiết.
- Sống Một Mình. Nội dung quyển sách đưa ra những gợi ý nhằm giúp cho mỗi người chọn lựa cho tự thân một lối đi hài hòa cho đến cuối đời. Việc lập gia đình hay không lập gia đình cần phải có sự định hướng rõ ràng. Với mỗi phép lựa chọn, người tham gia cần phải có thời gian lâu dài cùng sự chuẩn bị trạng thái tinh thần, tâm lý thật chu đáo. Bởi lẽ ở mỗi phép lựa chọn, người tham gia cần có những hành trang kiến thức, trạng thái tâm lý riêng biệt, rất khác nhau. Sở dĩ, tôi đề xuất ý tưởng này là vì trước áp lực cuộc sống hiện nay thì sẽ có rất nhiều người từ bỏ ý định lập gia đình, những vụ ly hôn không ngừng gia tăng, sẽ có không ít người chán ngán hôn nhân,… Bạn hãy đưa ra những “bất ổn” có thể gặp phải khi chọn lựa “Sống một mình”, giúp họ biết khó mà quay về vun đắp gia đình. Nếu họ vẫn kiên định thì hãy đưa cho họ “Cẩm nang sống một mình”.
- Số 1 Hoang Đường. Ngày nay, những người làm cha mẹ thường đặt lên vai con mình niềm kỳ vọng “Con là thiên tài”, “Con là số 1”,… Vì lẽ đó, đã có những tuổi thơ bị đánh cắp, những thiên tài “Sớm nở, chóng tàn”,…
Bởi vì đâu?
Vì những đấng sinh thành cũng lại là số 1.
Vậy đâu là số 1 thật sự?
Bạn hãy trình bày nội dung quyển sách này nhằm trả lại tuổi thơ cho những thiên thần nhỏ bé.
Chúng là ai?
Chúng là con cháu bạn. Thêm nữa, bạn hãy lấy đi nỗi âu lo, muộn phiền,… trong lòng cha mẹ, người thân và cả chính bạn. Để thực hiện tốt nội dung quyển sách này, bạn hãy là số 1 hoang đường!
Nước mắt đã cạn rồi, nhiệt huyết cũng vơi, tôi muốn dừng lại. Thế nên, có lẽ tôi sẽ không thể hoàn thành tốt nội dung những quyển sách trên. Bạn hãy giúp hoàn thiện những quyển sách đó. Cảm ơn bạn rất nhiều!
Như đã trình bày, ngày 30 tháng 12 năm 2012 sẽ là thời điểm tôi dừng lại. Thế nên, tôi cần một câu trả lời chân thật từ giới lãnh đạo Trung Hoa. Tôi vẫn tin rằng “Người Trung Hoa luôn coi trọng sự thành tín”. Vì thế, cho đến trước ngày 30 tháng 12 năm 2012 tôi mong rằng “Nhân loại và tôi sẽ nhận được những thông điệp cụ thể, sáng rõ từ giới lãnh đạo Trung Quốc đối với vấn đề tranh chấp trên biển Đông”:
- Một là giới lãnh đạo Trung Quốc thể hiện việc xuống thang tranh chấp, tỏ rõ thiện chí sửa sai những sai lầm đã vấp phải đối với vấn đề biển Đông, thể hiện rõ cách hành xử tuân thủ Công ước Luật Biển năm 1982.
- Hai là giới lãnh đạo Trung Quốc đưa ra những lập luận, những lý giải thật sự chuẩn mực cho những vấn đề, những câu hỏi liên quan đến vấn đề biển Đông mà tôi đã vụng về đặt ra.
- Ba là giới lãnh đạo Trung Quốc hãy đến và lấy đi mạng sống của Vô Ưu để ngăn chặn việc tôi trình bày những vấn đề không có lợi cho tham vọng độc chiếm biển Đông mà giới lãnh đạo Trung Quốc đang bám víu.
Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn còn có những chọn lựa của riêng mình nhưng tôi không hy vọng “Giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ có những thái độ và cách hành xử thiếu cân nhắc, chạm đến sự công phẫn của nhân loại và người dân Trung Hoa”.
Nếu trước ngày 30 tháng 12 năm 2012 mà tôi không nhận biết được những thông điệp cụ thể tỏ rõ thiện chí xuống thang tranh chấp, dừng lại tham vọng độc chiếm biển Đông, việc thực hiện âm kế “Nhất tiễn hạ song điêu”, việc điều chỉnh dân số Trung Hoa trên diện rộng và “danh chánh, ngôn thuận”,… thì với tư cách cá nhân, tôi sẽ thông qua quyển sách “Trung Hoa, Còn Mãi Một Tình Yêu” thể hiện rõ lập trường “Vô Ưu Sẽ Độc Chiến Giới Lãnh Đạo Trung Hoa”. Tôi không hy vọng sẽ viết quyển sách này. Vì lẽ, khi đó tôi sẽ chính thức xóa bỏ giới lãnh đạo vô đạo, trái đức, bất nhân và bất nghĩa.
Tôi sẽ cho giới lãnh đạo Trung Hoa thời gian, cơ hội để sửa sai hoặc là xóa bỏ Vô Ưu.
Quả thật, việc xóa bỏ Vô Ưu trước ngày 30 tháng 11 năm 2012 là điều rất dễ dàng vì ở trong khoảng thời điểm đó thì tôi chỉ là một con người nhỏ bé, tầm thường. Có chăng tôi chỉ là một con người yêu chuộng hòa bình với mong muốn giữ lấy sự bình yên trong lòng nhân loại.
Tuy nhiên, từ ngày 30 tháng 11 năm 2012 đến ngày 30 tháng 12 năm 2012 nếu tôi không nhận rõ thiện chí xuống thang tranh chấp của giới lãnh đạo Trung Quốc cũng như việc tuân thủ Công ước Luật Biển năm 1982 thì tôi sẽ khoác lên vai chiếc áo thiên hạ. Tôi sẽ chính thức đối đầu và lật đổ giới thống trị Trung Quốc đương thời khỏi vai trò lãnh đạo dân tộc Trung Hoa trong khoảng thời gian 6 tháng thông qua quyển sách “Trung Hoa, Còn Mãi Một Tình Yêu”.
Trên thực tế là tôi không cần khoảng thời gian dài lâu đến vậy. Thật ra, đó là khoảng thời gian để giới lãnh đạo Trung Quốc có dịp “xét lại” những việc làm không đúng mực, nhận ra rõ những sai phạm. Sau cùng giới lãnh đạo Trung Quốc có khoảng thời gian chuẩn bị tinh thần, trạng thái tâm lý tốt nhất cho việc mở lời xin lỗi cùng lời hứa sửa sai gửi đến nhân loại, người dân Trung Hoa và các nước trong khu vực biển Đông.
Nếu sau 6 tháng mà giới lãnh đạo vẫn ngang nhiên coi thường người dân Trung Hoa và công luận thế giới thì tôi “buộc phải” lật đổ thể chế chính trị bất nhân, bất nghĩa, vô đạo và trái đức.
Bởi lẽ, khi đó giới lãnh đạo Trung Quốc đã mặc nhiên thừa nhận với người dân Trung Hoa và nhân loại về sự bất nhân, bất nghĩa, vô đạo, trái đức của hệ thống chính trị và cả việc ngông cuồng không che dấu tham vọng bá quyền ở phạm vi thế giới. Hiển nhiên là nhân loại sẽ không thể đồng thuận bất kỳ cá nhân, tổ chức, quốc gia nào làm phương hại đến nền hòa bình, an ninh, ổn định của thế giới. Nhất là đối với những hạng người bất nhân, bất nghĩa, vô đạo, trái đức.
Có lẽ, đến khi quyển sách “Trung Hoa, Còn Mãi Một Tình Yêu” được ra đời thì việc giới lãnh đạo Trung Quốc đến xóa sổ Vô Ưu đã rất muộn màng.
Việc điều binh có câu “Binh bất yếm trá tất bại”, hay “Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng”,… Điều này giúp cho tôi rõ biết việc trí trá của việc dùng binh. Không chỉ thế, tôi còn có thể vận dụng mưu kế nhu nhuyễn, tinh xảo đến vi diệu. Bởi do tôi đã ít nhiều lĩnh hội pháp môn không hai của chánh pháp Như Lai. Thế nên, tôi cũng không che dấu sự thật. Trong việc đối đấu với giới lãnh đạo Trung Quốc, tôi sẽ vận dụng uyển chuyển hàng loạt kế sách cương nhu, “Trong minh có ám, trong ám có minh”.
Tóm lại, đối sách với giới lãnh đạo Trung Quốc tôi sẽ thực hiện chuỗi liên hoàn kế gồm gậy ông đập lưng ông, mạn thiên quá hải, di thi giá họa chân ngụy, đả thảo kinh xà, dẫn xà xuất động, cầm tặc cầm vương, vô trung sinh hữu, phản khách vi chủ,… kết hợp với kỳ chiêu bất chiến tự nhiên thành.
Đồng thời, do sự manh động vượt mức của giới lãnh đạo Đài Loan, tôi sẽ dùng kế “Thuận thủ khiên dương” nhằm giúp giới lãnh đạo Đài Loan nhận ra giới hạn của tự thân mà dừng ngay lại những việc làm sai trái.
Nếu đến trước ngày 30 tháng 11 năm 2012 giới thống trị đảo Đài Loan không sửa sai những sai phạm đang mắc phải trên biển Đông mà không có sự can thiệp của giới lãnh đạo Trung Hoa hoặc cộng đồng quốc tế thì quyển sách “Trung Hoa, Còn Mãi Một Tình Yêu” sẽ ra đời. Như tôi đã nói từ trước “Ta không giết ngàn người, ngàn người vì ta mà chết”, thế nên sẽ có một vài tổ chức quốc tế không có giá trị thực tiễn không còn nữa. Giới lãnh đạo Trung Quốc đương thời cũng sẽ được “Đổi mới” cho hợp lòng người hơn.
Người lương thiện thời không dễ bị đấng trượng phu hại mạng nhưng thường bị giết bởi kẻ tiểu nhân. Tôi vẫn biết vậy nhưng vẫn cao ngạo, bình thản và dửng dưng.
Tại sao?
Tại vì khi bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” ra đời và rộng truyền thì sẽ không chỉ có một Vô Ưu mà Vô Ưu đã là lòng người trong nhân loại. Một Vô Ưu bị giết đi nhưng lại có vô số Vô Ưu khác sẵn sàng từ bỏ mạng sống của tự thân nhằm mang về sự hòa bình, an ninh, ổn định và bền vững trong lòng nhân loại.
Hơn nữa, tôi không hẳn là người thiện. Người xưa có câu “Người thiện không đến, người đến không thiện”. Và tôi đã đến thể hiện rõ lập trường đối đầu với bạn nếu bạn thật sự muốn đối đầu. Nếu bạn thể hiện lập trường không đối đầu thì ta sẽ lại là bạn.
Khi tôi không còn nữa mà bạn lại muốn thực hiện giấc mộng bá chủ quyền lực thì trong số hàng hà sa Vô Ưu sẽ có không ít Vô Ưu là người dân tộc của bạn. Đối đầu với một Vô Ưu rõ thật không thể là việc dễ dàng. Thế nên, đối đầu với nhiều hơn một Vô Ưu rõ biết về những sai trái mà chính bạn đang rối trí giải quyết thì khó sẽ càng thêm khó.
Tuy nhiên, bạn hãy an tâm Vô Ưu chỉ đến nhằm giúp bạn khắc phục những sai lầm chứ không có chủ ý “Đến để lấy đi những gì bạn trân trọng, gìn giữ”.
Thế nào là kế Di thi giá họa chân ngụy?
Có thể đến trước ngày 30 tháng 12 năm 2012 tôi đột ngột biến mất mà không để lại chút dấu vết gì. Khi đó, nhân loại sẽ nhìn về giới lãnh đạo Trung Quốc với ánh mắt dò xét, hoài nghi.
Phải chăng giới lãnh đạo Trung Quốc đã thực hiện việc xóa sổ Vô Ưu?
Điều này đồng nghĩa với việc giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ từng bước chiếm trọn biển Đông, sẵn sàng tạo ra chiến loạn nhằm giành lấy vai trò độc tôn bá quyền hoặc là việc điều chỉnh dân số Trung Hoa trên diện rộng và danh chánh ngôn thuận,... Lúc bấy giờ, cộng đồng quốc tế và nhân loại sẽ nghiêm túc hơn “xét lại” cách hành xử của dân tộc Trung Hoa. Việc này sẽ chặn đứng tham vọng độc chiếm biển Đông. Thế nên, nếu cần thiết tôi sẽ tự biến mất. Đây là một biến của kế Di thi giá họa chân ngụy.
Không chỉ vậy, có thể sẽ có các thế lực đối nghịch âm thầm muốn lật đổ giới lãnh đạo Trung Quốc đương thời bằng vào việc Di thi giá họa kết hợp cùng âm kế “Tá đao sát nhân”. Hoặc là giới lãnh đạo Trung Quốc “Tương kế, tựu kế” dùng Di thi giá họa  kèm với việc “Ném đá, dấu tay”.
Tuy nhiên, tôi vẫn luôn tỏ vẻ cao thượng giả tạo. Vì thế không thể loại trừ trường hợp, tôi gặp “rủi ro” do tạo ra không ít “oán thừa” trong lòng người, đâu chỉ có giới lãnh đạo Trung Hoa “mong mỏi” tôi chưa từng tồn tại,…
Dường như, tôi đã cố ý hướng bạn và nhân loại sang góc nhìn khác nhằm làm sáng rõ vấn đề. Thực ra, việc tôi còn sống hay đã chết ở mức độ nào đó sẽ không ảnh hưởng nhiều đến bạn. Nhân loại sẽ “để mắt” đến cách hành xử của bạn hơn là những điều tôi đã trình bày. Tôi muốn nói với bạn rõ một điều “Bạn đang đối đầu với lòng người dân Trung Hoa và công luận thế giới”.
Việc giới lãnh đạo Trung Hoa cầm trên tay quyển sách “Tùy bút luận xưa nay - Tập 3” và “Hãy là đường xưa mây trắng bay…” chính thật là việc bạn nhận được lá thư tối hậu của Vô Ưu yêu cầu bạn ngay lập tức xuống thang tranh chấp biển Đông, tuân thủ Công ước luật Biển năm 1982. Đổi lại tôi sẽ giúp bạn nhận biết rõ hơn những sai lầm và chỉ rõ cách thức sửa sai bằng việc an định lòng người bằng sự hiểu biết, từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,… Đây cũng là Phiếu Trưng Cầu Dân Ý gửi đến người dân Trung Hoa. Đồng thời, đây cũng chính là Phiếu Thăm Dò Công Luận nơi nhân loại.
Việc làm này nhằm giúp tôi cùng giới lãnh đạo Trung Hoa xác định lại sức mạnh của Vô Ưu. Nếu bạn nhận biết hơn 50% dân số thế giới thờ ơ, chẳng quan tâm vấn đề tranh chấp biển Đông vì đó là “Chuyện của thiên hạ” thì bạn có thể tiếp tục theo đuổi tham vọng cuồng ngông trên biển. Nếu chỉ có 30% người Trung Hoa chấp nhận “lấn biển” thì tôi hy vọng bạn hành xử đúng mực của một đấng trượng phu có hiểu biết. Tôi không muốn sự đổ vỡ, khổ đau cho bạn và người dân Trung Hoa. Tôi đã thể hiện rõ lập trường, sự tự tin và hiển lộ phần nào tiềm năng, sức mạnh vô đối của Vô Ưu.
Tôi thật không muốn viết quyển sách “Trung Hoa, Còn Mãi Một Tình Yêu” khi không nhận thông điệp “yêu cầu” từ bạn. Vì lẽ khi quyển sách “Trung Hoa, Còn Mãi Một Tình Yêu” đến tay bạn. Nếu bạn còn lòng tự trọng thì ngay lập tức bạn sẽ phải xin lỗi người dân Trung Hoa và rời khỏi vũ đài chính trị. Nếu bạn vẫn còn tại vị thì lịch sử của hơn 2500 năm sẽ tái hiện “Sẽ có một Châu Văn Vương ra đời thay thế Trụ Vương”.
Lời nhắn gửi đến bạn: “Khi Vô Ưu ra đời và tồn tại thì sẽ mãi mãi không có bất kỳ cá nhân, tổ chức, quốc gia nào có thể làm ảnh hưởng, tổn hại đến nền hòa bình, an ninh và ổn định của nhân loại.
Hãy sống hiểu biết, cảm thông, tha thứ và yêu thương chân thành. Người đời có thể vô tâm nhưng Vô Ưu không thể tuyệt tình. Vô Ưu sẽ không “đuổi cùng, giết tận”, không “Giậu đổ bìm leo”, “Cho người một cơ hội chính thật là cho mình một cơ hội”,…
Vô Ưu là ai?
Vô Ưu chính thật là bạn. Tôi rõ biết “Bạn không muốn tạo ra những đổ vỡ, đau khổ, hận thù,… không cần thiết cho nhân loại, người Trung Hoa,… và cho cả chính tự thân”. Vậy nên bạn hãy truyền trao bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” đến những nơi cần đến, giúp bộ sách đến tay lãnh đạo các bộ ngành liên quan, đến giới lãnh đạo các nước. Nhất là giới lãnh đạo Trung Hoa và nhân loại.
Tôi thật không muốn viết quyển sách “Trung Hoa, Còn Mãi Một Tình Yêu”. Bởi lẽ tôi rõ biết và không muốn phải buông lời: “Ta không giết ngàn người, ngàn người vì ta mà chết”.
Hãy “xét lại” ngôn từ Vô Ưu trình bày trong bộ sách dường như rất gần gũi, mộc mạc, chân thật nhưng cũng rất sắc bén, cao ngạo. Ý tứ thâm trầm, dụng tâm sâu kín. Dù rằng việc trình bày nội dung bộ sách là khá sáng rõ, minh bạch nhưng quả thật là không dễ gì “Một sớm, một chiều” bạn có thể lĩnh hội được trọn vẹn. Bạn chỉ có thể lĩnh hội hoàn toàn khi sống được với sự hiểu biết sáng rõ, khách quan. Nhất là khi bạn hiểu rõ chính tự thân.
Đừng cố tìm hiểu, lạm bàn về Vô Ưu. Những thông tin viết về Vô Ưu về sau sẽ mãi chỉ là việc làm “Vẽ rắn thêm chân”, hay hành động “Bôi tro, trét trấu” lên một “món đồ” cáu bẩn, không sạch sẽ,… thật sự đó chỉ là những việc làm không cần thiết.
  1. Hơi Thở.
Quy luật cuộc sống của một đời người là phần lớn con người sau khi được sinh ra, lớn lên và đến một lúc nào đó họ sẽ đi tìm nửa còn lại, nương tựa nhau, cùng xây dựng một mái gia đình.
Tôi cũng đã từng nghĩ đến một mái ấm gia đình. Tôi cũng từng cho người một cơ hội cũng là cho tôi một cơ hội. Nhưng người đã không nắm bắt, tôi thì lại bình thản, dửng dưng. Tôi vẫn miệt mài với việc truyền trao, làm sống lại chánh pháp của Phật Thích Ca.
Muốn đến được với nhau phải chăng con người cần phải hiểu và cảm thông cho nhau?
Tôi đã tạo điều kiện cho người hiểu tôi qua những trang sách. Nếu người có nghĩ đến tôi thì chỉ cần xem những trang sách là có thể rõ biết về tôi. Khi đó, họ có thể giữ tôi lại vì những gì tôi trình bày ở những quyển sách “Nơi trói đã có mở, nơi mở đã có trói”. Khi nhận biết điều đó, họ sẽ có cách để giữ tôi lại. Nhưng họ đã không làm điều đó, có lẽ họ đang bận rộn nơi cuộc sống và mệt nhoài với những lo toan.
Tại sao tôi lại để người lựa chọn mà không tự chọn cho mình cơ hội?
Tại sao tôi chờ đợi người tìm hiểu mình mà không chịu hiểu người?
Với tôi, hiểu một người thật không khó, giúp người thoát ra khỏi muộn phiền mới thật khó khăn. Lấy được trái tim của người rồi thì sẽ ra sao nếu hai trái tim không cùng nhịp đập, cảm thông, yêu thương. Sẽ lại là cảnh “Đồng sàng dị mộng”, sống với người mà không cùng yêu thương vun đắp thì thật tẻ nhạt. Thế nên, tôi đã cho người chọn lựa vì lẽ khi người hiểu tôi thì tôi sẽ thật hiểu và cám ơn người.
Có lẽ nhân duyên của tôi đã tận?
Tôi không hờn trách người và người cũng đừng vì việc này mà buồn nhớ vu vơ, nuối tiếc. Hẳn ta không là nửa của nhau, mỗi người hãy tự chọn con đường rồi bước đi, sẽ có ngày còn gặp lại. Tạm biệt!
Rồi cho đến khi tôi chọn lựa làm con én nhỏ thì việc xây dựng mái ấm gia đình của tôi đã đoạn lìa. Thật vậy, khi bộ sách được trao truyền thì tôi đã không còn là tôi nữa. Trái tim, đôi mắt, lá gan, quả thận,… và cuộc sống của tôi đã thuộc về người khác. Những người thân của tôi khi không rõ biết những việc làm, lúc tôi mất đi họ sẽ đau khổ nhiều. Nếu tôi vẫn sống thì những người quanh tôi sẽ chịu nhiều áp lực.
Khi tôi tồn tại, không hành trì bước qua lằn ranh sinh tử thì những điều tôi trình bày chỉ là những lời nói suông không bằng, không chứng, dễ có mấy ai tin nhận mà sống với sự sáng rõ của chánh pháp. Tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn,… lại đẩy nhân loại vào những cuộc tàn sát tang thương, khổ đau, thù hận, máu và nước mắt,… Tôi vẫn còn đây mà nhìn con người sống vùi trong khổ đau, chiến tranh. Nếu cứ dửng dưng, bình thản thì tôi có khác gì một xác chết không hồn, một xác người đui mù, câm điếc. Nếu chỉ nhìn để mà xót thương, cảm thông thì tôi đã không thật sống cùng bi nguyện của Như Lai.
Và… rồi tôi chọn lựa, tôi sẽ hành trì xả bỏ xác thân, bước qua lằn ranh sinh tử đã trói buộc nhân loại hằng hà sa số kiếp. Chỉ khi đó nhân loại mới có sự xác nhận rõ ràng và tin vào sự tồn tại của 3 cõi 6 đường, luân hồi, sự giải thoát. Chỉ khi tôi làm được điều đó thì chánh pháp sẽ sống lại trong lòng nhân loại. Vậy tôi tiếc gì một giấc ngủ ngon!
Đã chọn lựa như thế thì việc xây dựng mái ấm gia đình, tôi sẽ khép lại. Bởi lẽ người vợ trẻ sẽ ra sao nếu có người đến nhận lại trái tim, đôi mắt,… và khi tôi hành trì bước vào cõi vô hình đi mãi, không về. Nếu có một đứa bé ra đời thì đứa bé lại luôn miệng hỏi “Cha đâu?”.
Không chỉ vậy, đứa bé sẽ lớn lên với một áp lực nặng nề nơi cuộc sống bởi lẽ đã lâu rồi con người tin rằng “Con hơn cha là nhà có phúc”. Với những áp lực trên rõ thật “Khi không rõ biết việc tôi làm thì ít người có thể đảm đương”. Thôi thì “Dứt tình riêng thành sự việc chung”.
Xét lại những việc đã, đang, sẽ làm tôi nhận biết dường như chính những người thân quanh tôi lại chịu nhiều áp lực và thiệt thòi hơn cả. Vì lẽ do biết tôi mà họ chấp chặt định kiến “Tôi bình thường đến mức tầm thường”, những điều tôi trình bày họ sẽ không tìm hiểu, tin nhận. Dù cho tôi có chỉ bày tường tận, họ cũng không chú tâm lắng nghe và chóng quên. Không tin nhận, không thường sống với những điều tôi trình bày thì khi tôi không còn nữa thì họ sẽ nuối tiếc, đau khổ và phải chịu áp lực không nhỏ từ bên ngoài.
Rồi tôi cũng rõ biết “Tại sao khi Phật thành đạo người không về ngay Ca Tỳ La Vệ, vương quốc Thích Ca?”. Vì dù có về thì những người trong gia đình, hoàng tộc có mấy ai tin nhận. Phật đã bình thản truyền trao giáo lý về chánh pháp ở những nơi đang cần thoát khổ, giải thoát sinh tử. Đến khi Phật trở thành người đứng đầu một giáo đoàn lớn mạnh. Danh tiếng của Người đã được những người thân biết đến và vua Tịnh Phạn liền cho người mời Phật trở về.
Dù biết rằng Phật đã thành đạo nhưng những người thân, cụ thể là vua cha Tịnh Phạn đã không thật tin nhận những lời Phật nói, họ không hoàn toàn sống được với chánh pháp của Phật Thích Ca. Nhất là với Đề Bà Đạt Đa, là người trong hoàng tộc, theo học pháp Phật mà lại tìm mọi cách để hãm hại Phật Thích Ca đẩy Người vào chỗ chết. Không chỉ vậy, chính vua Tịnh Phạn cũng không thật tin rằng “Có một con đường rõ ràng, thoát qua sinh tử, vạn pháp vô thường,…”. Chỉ đến lúc cận kề với cái chết thì vua Tịnh Phạn mới thật tin nhận những điều mà Phật đã tỏ bày là chân thật, xác đáng.
Tại sao ngay cả lời Phật nói mà vua Tịnh Phạn không thể tin nhận?
Vì lẽ vua cha Tịnh Phạn vướng vào định kiến lâu đời “Trứng không thể khôn hơn vịt”, dù rằng vua Tịnh Phạn vẫn nhận biết tri thức nhân loại không ngừng được nâng lên. Học thuyết, tà kiến, định kiến, chấp trước, phân biệt, dính mắc ,… quả thật đã trói tư duy, nhận thức loài người từ rất lâu xa, muôn ngàn kiếp.
Có lẽ chỉ đến khi tôi hành trì đạt được việc bước qua sinh tử, mọi người rõ biết, thừa nhận 3 cõi 6 đường thì những người thân của tôi mới ít nhiều tin nhận, tìm hiểu, lĩnh hội và thật sống với những gì tôi đã trình bày. Âu cũng là một chữ duyên. Đời người như giấc mộng.
Lại kể một câu chuyện liên quan đến những ngày tôi ngộ nhận “Ép thân, đạt đạo”. Khi đó, có những nỗi buồn vờn quanh tôi đã quyết định không ăn cơm sống qua ngày. Sau nhiều lần như thế thành ra thói quen, cứ thi thoảng tôi lại không ăn cơm. Trong quá trình viết sách, tôi lại sống nương nhờ ở nhà người bạn, vẫn giữ thói quen đó đôi khi tôi lại không dùng cơm. Dù vậy thấy những người trong gia đình người bạn tỏ ra lo lắng khi thấy tôi không ăn nhiều ngày, tôi đã quay lại sống phù hợp với lối sống của mọi người. Có thể nói thời điểm đó tôi dùng cơm chỉ nhằm vui lòng người khác. Có lẽ bạn sẽ nhận thấy “Tôi là người rất vô ơn” nhưng đó không phải là điều tôi đang muốn tỏ bày cùng bạn. Tôi chỉ muốn nói với bạn rằng “Trong cuộc sống không phải lúc nào làm việc theo ý mình cũng là tốt, là chuẩn mực. Dù rằng việc làm đó không sai nhưng nếu ta có thể vì làm vui lòng người mà làm việc tùy thuận thì sẽ tốt hơn”.
Tôi đã đi nhiều nơi để nhận biết “Không ít người làm mọi việc chỉ theo ý riêng, dù rằng những việc làm đó không hại gì ai nhưng lại tạo ra sự xa cách, khiến những người thân đau xót, không vui trong lòng”.
Phải chăng con người đã từ lâu có thói quen vun vén tạo ra cái vỏ ốc cho riêng mình?
Trong cái vỏ ốc đó con người lại cảm thấy vui mừng, an toàn vì không làm ảnh hưởng đến người khác. Vô hình chung tạo ra khoảng cách, cô lập bản thân với thế giới bên ngoài.
Đến nay, tôi cũng đã tạo cho mình cái vỏ ốc an toàn. Với cái vỏ ốc này, tôi muốn mang xác thân vật chất thì mang, còn bằng không muốn thì tôi vào cõi vô hình ngơi nghỉ.
Phải chăng tôi chỉ làm theo ý mình mà không nghĩ đến cảm nhận của những người xung quanh?
Thật ra cho đến bây giờ thì tôi đã không còn nhiều lựa chọn. Dẫu sao đó cũng là việc đáng làm và tôi cũng nhận ra rằng “Sự đau khổ trong lòng của những người thân sẽ qua mau khi rõ biết những điều tôi đã trình bày là chân thật”. Với một niềm biết ơn sâu sắc tôi cảm ơn những người thân yêu và bạn.
  1. Lại Vén Áng Mây Chiều.
Phật pháp u huyền, vi diệu, linh thông không bờ mé, không dễ nghĩ bàn. Từ khi pháp Phật lan truyền vào nhân loại đã cứu giúp hằng hà sa chúng sinh nơi 3 cõi thoát ra mọi khổ đau, kiếp nạn. Lại cũng có vô số hà sa chúng sinh ở 6 đường nhờ lĩnh hội sống nơi chánh pháp mà giải thoát hoàn toàn, liễu thoát sinh tử. Thời gian lâu xa, chánh pháp ngày càng bị mai một, không sáng rõ như trước. Bởi do, người học Phật đời sau không thật chứng ngộ, lĩnh hội hoàn toàn sự huyền diệu của giáo lý, kinh điển nhà Phật. Cả người truyền pháp lẫn người học Phật đều không nhận ra tâm yếu chánh pháp là phá tan ngã trở về vô ngã, đạt được vô ngã thì lại không chấp trước vào ngã và vô ngã.
Do không thực chứng mà người học Phật đem kinh điển ra lạm bàn, hý luận, bàn huyền, nói diệu,… mà nơi tâm ý lại mê mờ, không nhận rõ lẽ ngụy chân. Người học Phật đạt được ít tỏ ngộ thì nuôi lớn đại ngã, rơi vào lợi dưỡng, lợi danh, lui sụt chí bồ đề. Người học Phật đạt ít tỏ ngộ khác thì rơi vào tà kiến “Phật pháp tùy duyên” nên không thường sống với bi nguyện của chư Phật cùng bồ tát. Bởi lẽ người học Phật này đã nhận biết “Tự thân đã có vỏ bọc an toàn”. Âu cũng là người học Phật hàng thanh văn, mong cầu thánh quả,…
Tất cả những lầm lạc trên đã khiến Phật pháp ngày càng xa rời nhân gian, là “của riêng” người học Phật nhưng lại chẳng mang lại cứu cánh Niết bàn. Phật pháp trở nên cao siêu, huyễn hoặc, không còn sáng rõ, gần gũi với đời sống con người. Chánh pháp vì thế trở nên xa lạ, lạc lỏng trong lòng nhân loại. Phật Thích Ca trở nên là một đấng thần linh huyền bí, nhiều thần thông, biến hóa. Mỗi khi có kiếp nạn, khổ đau thì con người lại gọi Như Lai ra để nguyện cầu và mong mỏi việc làm đó sẽ giúp mọi việc lại bình yên, an toàn. Thật là nông nổi, huyễn hoặc!
Phật pháp đã đi quá xa đến mức làm lạc lối cả chánh pháp nơi lòng người. Phật pháp đã đi xa giờ đến lúc trở về. Nếu cứ mãi đi xa mà không về là trái đạo, trái đạo tất sẽ diệt vong, chánh lại hóa thành tà.
Tôi vì lời Phật thuyết “Chánh pháp còn bỏ huống hồ là phi pháp” mà tỏ bày chánh pháp chân thật.
Sau một thời gian tìm hiểu kinh sách Phật, tôi được biết “Lúc Phật nhập diệt, Người nằm nghiêng về một bên, đầu hướng về phương bắc”. Không chỉ vậy, tôi từng viếng thăm một vài cảnh chùa, tôi đã gặp tượng Phật nằm nghiêng một bên với dáng vẻ khoan thai, an tịnh. Khi Phật nằm nghiêng con người đã dùng ngôn từ giả lập tạo ra thế nằm sư tử tọa.
Tôi thấy gì nơi dáng nằm sư tử tọa?
Một sự trằn trọc, băn khoăn, một niềm trăn trở. Xem ra 49 năm hoằng pháp của Như Lai không chỉ toàn màu hồng mà là đầy dẫy những cam go, thử thách, gian truân. Phật Thích Ca vẫn thường sống trong sự tự tại, bình thản, an lạc nhưng điều đó không hẳn là Người không có những suy tư, lo nghĩ.
Lại quay về hơn 2500, tôi đến nơi Người nhập diệt. Tôi lặng lẽ chiêm bái Người, Người vẫn điềm nhiên nhìn ngắm cảnh hoàng hôn buông xuống nơi cánh rừng Sala thơm mát.
Lúc bấy giờ, có vị du sĩ Subhadda nghe tin Phật sắp nhập diệt liền tìm đến tham bái. Gặp được Phật, ông liền quỳ xuống lạy tạ và nói:
- Thế Tôn, con nghe nói tới các vị lãnh đạo các giáo phái như Purana Kassapa, Makhali Gosala, Ajita Kesakambali, Pakudha Kaccayana, Sanjaya Belatthiputta và Nigantha Nathaputta,… Con muốn hỏi Thế Tôn xem trong những vị đó có ai thật sự đạt đạo hay không?
Phật nói:
- Subhadda, họ có đạt đạo hay không đạt đạo việc đó không nên bàn tới bây giờ vì điều đó không cần thiết. Subhadda, Như Lai sẽ chỉ cho con đường tu học để tự ông có thể đạt sự giác ngộ giải thoát. Rồi Phật dạy cho Subhadda về giáo lý Bát chánh đạo.
Sau khi trình bày cặn kẽ đạo lý Bát chánh đạo, Phật nói:
- Subhadda, ở đâu trong đoàn thể nào mà có sự thực hành Bát chánh đạo là ở đó có thể có người đạt đạo. Subhadda, ông hãy thực hiện theo phương pháp Bát chánh đạo rồi chính ông sẽ trở nên người đạt đạo. Khi đó, ông không cần phải đặt câu hỏi người này hay người kia có thật là người đạt đạo hay không?
Được Phật chỉ bày, du sĩ Subhadda thấy tâm hồn rộng mở, ông mừng rỡ và xin Phật được xuất gia, làm đệ tử Người. Phật chấp thuận và Subhadda chính là vị đệ tử cuối cùng được Phật nhận vào giáo đoàn khất sĩ.
Trời đã tối tự lâu rồi. Sau khi Phật dặn dò mọi việc và khuyên dạy đại chúng, Người đã nằm ngay ngắn trở lại, hơi thở khoan thai, bình thản. Sau cùng, Người nói:
- Vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt, các vị hãy tinh tiến lên để đạt đến giải thoát.
Nói xong, Phật nhắm mắt. Đó cũng là lời nói cuối cùng của Người.
Nhận biết Phật đã nhập diệt trong sự bình thản, tự tại và nằm ngay ngắn, khoan thai như những người hiền lành, sống tốt trong hiện đời. Tôi càng rõ biết “Phật rất gần gũi, mộc mạc, chân chất, hòa đồng với mọi người”.
Tôi như nghe lời nhắn nhủ của chư Phật mười phương “Đừng biến Như Lai thành người xa lạ, là một Đấng quyền năng huyễn hoặc, đáng kính, chỉ nhằm việc tôn thờ, cúng bái, nguyện cầu. Mỗi chúng sinh nơi 3 cõi đều có đức tánh Như Lai, hãy hiển lộ, sống với đức tánh Như Lai thì mọi chúng sinh đều là Phật cả”.
Nơi dáng nằm sư tử tọa, tôi đã nhận ra được “Phật Thích Ca suy tư, trăn trở là vì điều gì?”.
Giáo lý về con đường tỉnh thức, giải thoát khỏi luân hồi thậm thâm, vi diệu, làm sao có thể chỉ bày cho chúng sinh nơi 3 cõi với căn tánh muôn ngàn sai biệt, với đầy dẫy những kiến chấp, định kiến, tà kiến,… tin nhận và thật sống với sự sáng rõ nơi chánh pháp?
Với sự hiểu biết cùng tận về vạn pháp, Phật đã tìm ra lời giải bằng việc bày ra muôn vàn phương tiện khéo, vi diệu tùy thuận theo từng căn tánh, hoàn cảnh của mỗi chúng sinh trong 6 đường.
Những suy tư, trăn trở có ở nơi Phật chỉ thoáng qua vì Phật thường sống với chánh định, sự an lạc, tự tại, giải thoát, không dính mắc.
Với cõi giới hữu hình, Phật dùng phương tiện “Nói mà không nói”.
Với cõi giới vô hình, Phật lại dùng phương tiện “Không nói mà nói”.
Pháp Phật quả thật thậm thâm, vi diệu, không thể nghĩ bàn nhưng cũng lại rất gần gũi, sáng rõ nơi con người tìm về chánh pháp.
Cả đời Phật chỉ có hai lần nhập vào đại định và hằng sống nơi chánh định. Lần nhập đại định đầu tiên là khi Phật chứng ngộ pháp vô sanh dưới cội bồ đề, nơi Người thành đạo. Lần nhập đại định sau cùng là khi Người thể nhập Niết bàn bên cánh rừng Sala.
Tôi cũng đã từng có những trăn trở, băn khoăn “Nên chăng tỏ bày sự chân thật nơi chánh pháp bằng việc phá bỏ những pháp phương tiện mà Phật Thích Ca đã giả lập ra?”. Đến nay, nhân loại đã mê mờ, ngộ nhận nơi chánh pháp bởi do người học Phật lầm lạc, không sáng rõ “Sự chân ngụy nơi pháp Phật”. Nhân loại lại đang rơi vào sự bấn loạn nội tâm, xã hội loài người đang rối ren với tâm phân biệt, dính mắc vào tấm lưới vô minh nhị nguyên. Chiến tranh, giết chóc, hận thù, đau khổ, máu và nước mắt,… Xã hội loài người chỉ được yên bình, ấm no khi nội tâm con người được an định, rời xa điên đảo,… Chỉ có chánh pháp của Phật Thích Ca được làm sáng rõ, rộng truyền mới có thể là cứu cánh cho sự tồn vong của nhân loại và sự sống nơi trái đất.
Cảm nhận được sự ủy thác và bi nguyện của Như Lai, tôi không vào địa ngục thì ai sẽ vào địa ngục. Chánh pháp còn bỏ huống hồ là phi pháp, tôi sẽ đoạn diệt các pháp bằng vào pháp môn không hai của Như Lai “Đoạn mà không đoạn, diệt mà không diệt”.
Những người tu theo Tịnh độ tông hành trì miên mật, khi mất được vãng sinh Cực Lạc, Phật A Di Đà tiếp dẫn, họ sẽ về đâu?
Đã có những “dấu lạ” về việc vãng sinh Tây Phương, như người niệm Phật biết trước giờ “nhắm mắt”, cơ thể người chết mềm mại, tươi nhuận, mây ngũ sắc, luồng ánh sáng lạ,… Những “dấu lạ” này vẫn được tìm thấy ở những người theo tôn giáo khác và cả người không theo đạo giáo. Vì thế cũng không phải là những hiện tượng kỳ đặc, chỉ riêng có nơi pháp tu Tịnh độ.

Đạo trời thân với gì? Chỉ thân với Đức mà thôi. Quỷ thần linh nhờ đâu? Nhờ người mà linh. Cỏ thi là thứ cỏ khô, mai rùa là thứ xương khô đều là vật vô tri. Sao lại không nghĩ đến ngày trước?

Không chỉ vậy! Người học Phật dù là nguyện vãng sinh Tây phương cực lạc lại bày biện thờ cúng ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát, vị bồ tát lập đại nguyện cứu độ chúng sinh nẻo địa ngục ngay nơi người sắp chết. Việc trì tụng kinh cho người mất lại không rõ ràng, những bộ kinh thường được tụng niệm khi người chết là kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Vu Lan Báo Hiếu, kinh Địa Tạng, kinh Sám hối,…
Những việc làm cho thấy con người ngày nay đã rơi vào lễ nghi, hủ tục rườm rà.
Khi sống không làm theo chánh pháp, lúc chết tìm về nương tựa Phật, sám hối có còn kịp không?
Những năm chiến tranh loạn lạc, người chết như rạ, một manh chiếu che kín thân còn không có.
Lẽ nào khi chết họ không có lối để về?
Giả như sự linh ứng là có, vậy khi Phật A Di Đà và Bồ tát Địa Tạng cùng đến người học Phật sẽ theo ai?
Về cơ bản thật khó nhận biết ai là Bồ tát Địa Tạng?
Ai là Phật A Di Đà?
Vì cho đến chết con người mới có cơ may được gặp, việc này không phải khiến cho thần thức người chết rối trí, điên đảo lắm sao?
Thật ra người học Phật theo phép tu Tịnh độ, sống và hành trì có sự chuẩn mực, lúc chết họ sẽ về đâu?
Nếu có sự hiểu biết về sáng rõ về chánh pháp và phá bỏ được bản ngã thì họ sẽ thể nhập vào cõi Phật, là Niết bàn. Còn nếu chỉ đạt được “Niệm Phật nhất tâm bất loạn” mà thiếu đi sự hiểu biết sáng rõ và việc buông bỏ bản ngã thì người niệm Phật cũng chỉ về nơi cõi trời, là cõi tương ưng với cõi thiên đàng ở các tôn giáo khác. Bởi do chưa phá bỏ được bản ngã thì chỉ sau một thời gian nhất định, họ sẽ tham nhớ thân và tùy theo nghiệp duyên mà rơi vào nơi 3 cõi, trở lại luân hồi.
Có một vấn đề khác, người học Phật cần rõ biết là con người muốn thoát khỏi luân hồi sinh tử thì tự thân phải có sự hiểu biết sáng rõ, hành trì phá bỏ cái tôi mà tự thân chấp giữ mới mong thể nhập vào cõi Phật.
Việc nương cầu tha lực nhằm sinh về cõi Phật là điều không thể.
Nếu như có thể hành trì giúp người khác giải thoát hoàn toàn, liễu thoát sinh tử thì Phật Thích Ca đâu cần phải cho người con La Hầu La, hoàng hậu Kiều Đàm Di, công nương Da du đà la,… xuất gia, hành trì tìm sự giải thoát hoàn toàn cho tự thân.
Không chỉ vậy! Phật Thích Ca cũng đâu từng nói sẽ tiếp dẫn vua cha Tịnh Phạn về Niết Bàn. Phật Thích Ca tạo ra Phật A Di Đà thì không thể nói Người có năng lực và tâm từ bi thua kém Phật A Di Đà. Thế nên, quả thật bằng vào việc chỉ nương cầu tha lực con người sẽ không thể tìm về đến cõi Phật tịch diệt, an lạc. Người học Phật không nên hiểu lầm tâm Phật, bị kinh chuyển đến mê mờ bản tâm.
Cõi Tây Phương cực lạc chỉ là một trong số những phương tiện khéo Phật Thích Ca giả lập nhằm níu giữ thân mạng con người khi con người rơi xuống tận cùng sự khổ đau, tuyệt vọng,…
Thánh Ala, Thượng Đế, Đức Chúa Trời, Phật A Di Đà, Phật Dược Sư,… ai đã từng thật nhìn thấy?
Họ thật sự tồn tại hay chỉ là những bóng hình huyễn hoặc, không thật?
Con người có thấy chăng cũng chỉ là nhà tiên tri Mohamet, Chúa Jesu, Phật Thích Ca?
Những Đấng quyền năng tối cao tồn tại cũng do nơi lòng mong mỏi của con người. Nhà tiên tri Mohamet, chúa Jesu, Phật Thích Ca đã dùng làm phương tiện thiện xảo mà giả lập ra.
Cùng là phương tiện giả lập nhưng lại có sự khác biệt, việc tạo dựng Thánh Ala, Đức Chúa Trời nơi nhà tiên tri Mohamet, Chúa Jesu chỉ dừng lại ở việc trói buộc niềm tin con người vào quyền năng của những Đấng Tối Cao, khiến con người hoàn toàn lệ thuộc, phụ thuộc họ.
Nếu những Đấng quyền năng đó thật tồn tại cùng với khả năng chi phối trực tiếp vào đời sống con người thì khi tín đồ dòng Sunni giết hại người Shiite và ngược lại, họ sẽ xuất hiện hóa giải cũng như việc ngăn chặn hận thù bùng phát giữa những tín đồ Công giáo và Tin Lành vì những tín đồ đó đều tôn thờ, tin nhận, cầu nguyện, mong mỏi ở nơi họ.
Sự khác biệt nơi phương tiện cõi giới A Di Đà với các tôn giáo khác là Phật Thích Ca đã xây dựng ra giáo lý chỉ dẫn, giúp người học Phật tự tin, tin hoàn toàn vào chính bản thân, tự mỗi người đều có thể trở thành Phật chứ không lệ thuộc, nhờ vả sự nâng đỡ của bất kỳ một vị Phật, bồ tát nào cả. Chỉ bằng vào việc học hỏi, nhận biết sáng rõ pháp Phật, sống tùy thuận theo chánh pháp, buông bỏ cái tôi thường tại thì người học Phật đã là Phật, bồ tát ngay nơi hiện đời và khi mất đi sẽ thể nhập Niết bàn tịch diệt.
Chỉ tự mỗi người mới có thể giúp chính mình thoát ra mọi khổ đau, vượt qua sinh tử. Với những người học Phật lập hạnh bồ tát “Nếu vì cứu khổ chúng sinh nơi 3 cõi thì người học Phật cứ giữ vững chánh định, bước trên sóng sinh tử mà đi, thể nhập nơi bể khổ luân hồi nhưng không đắm chìm đau khổ, tự tại, an lạc,…”.
Tóm lại, cõi Phật A Di Đà là một “tạo hình” mà Phật Thích Ca đã vì lòng mong mỏi, nguyện cầu của hoàng hậu Vi Đề Hi mà thành toàn. Bởi do bà Vi Đề Hi muốn tìm về một cõi giới cực lạc, sáng rỡ, không có mọi đau khổ của trần gian và Phật do nơi tuyệt vọng của người học Phật mà tạo lập.
Những cõi Phật và các vị Phật khác cũng đều như thế, cũng do nhân duyên nơi lòng mong mỏi của chúng sinh 6 đường. Nhất là dựa vào tâm ý nơi con người thời Phật tại thế.
Những hình tượng các vị Phật được lập ra dựa vào nơi pháp thế gian, tâm nguyện của người học Phật. Với những người học Phật lập hạnh bồ tát nơi nẻo Người, Phật rất trân quý và tôn trọng.
Đáng kể đến là vị trưởng giả Cấp Cô Độc Tu Đạt Đa (Sudatta), y sĩ Kỳ Bà (Jivaka), Phú Lâu Na, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ma ha Ca Chiên Diên,… họ chính thật là những vị Phật, bồ tát,...
Bởi lẽ Phật, Bồ tát khi nói đến tận cùng cũng chỉ là những người tự giải thoát bằng sự hiểu biết sáng rõ chánh pháp và cứu người, giúp người thoát khổ, tìm về sự giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Phật, Bồ tát thật sự rất gần gũi, luôn kề cận, giúp đỡ con người và chúng sinh nơi 3 cõi.
Phật đã thể hiện sự trân quý, tôn trọng những người lập hạnh bồ tát, sống có ích lợi lớn cho đời bằng việc tạo ra những hóa thân Phật, Bồ tát nơi pháp xuất thế gian.
Cũng do cơ duyên nơi lòng mong mỏi của người học Phật lúc bấy giờ Phật đã tạo lập ra Phật Dược Sư Lưu Ly Quang chính là hóa thân Phật của y sĩ Kỳ Bà (Jivaka), Địa Tạng Vương Bồ Tát là hóa thân bồ tát của ngài Phú Lâu Na,…
Trong giáo lý, kinh điển nhà Phật thường có xuất hiện hai hóa thân bồ tát là Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền luôn kề cận bên Phật mà nơi pháp thế gian người học Phật không thể nhìn thấy. Đó chính thật là hóa thân ngài Xá Lợi Phất ở nơi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi biểu trưng về Trí và hóa thân ngài Mục Kiền Liên ở nơi Bồ tát Phổ Hiền biểu trưng cho Dũng.
Về sau, Phật Thích Ca nhận biết người tìm đến học Phật ngày càng nhiều và phần lớn chỉ lo giải thoát cá nhân, lánh đời vào đạo vì ngộ nhận cứu cánh của đạo giải thoát là “cắt ái, ly gia”. Phật đã phương tiện truyền trao pháp môn đại thừa, khuyên người học Phật lập hạnh bồ tát, nhập thế giúp đời. Bộ Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh ra đời trong bối cảnh đó và ngài Duy Ma Cật, vị cư sĩ tại gia, vị đại bồ tát chính là hóa thân của vị Trưởng giả Cấp Cô Độc Tu Đạt Đa (Sudatta).
Không dừng lại đó, cái thấy sáng rõ của người đạt đạo, chứng trí Như Lai còn nhận biết về sau con người muốn thoát ra mọi khổ đau, hận thù, chiến tranh, tạo dựng một xã hội hòa bình, văn minh, tiến bộ thì phải sống với “Từ bi hỷ xả”. Phật Di Lặc đã xuất thế với thiên bá ức hóa thân.
Với cái thấy cùng tột, sáng rõ của Phật Thích Ca ở 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai ở cả 6 nẻo luân hồi thử hỏi làm sao tôi có thể không đáng kính sợ và nể phục cho được?
Tâm từ bi của Người thật lớn lao, vĩ đại. Thế nên tôi dù có phải “tan xương, nát thịt” muôn kiếp cũng xin nguyện giữ gìn chánh pháp của Như Lai.
Có lẽ sẽ có rất nhiều người học Phật vì sự tỏ bày sự chân thật nơi pháp Phật của tôi mà trái tim tan nát, đánh mất niềm tin về pháp Phật. Sẽ có người cạn nghĩ, vội trách “Phật Thích Ca nói lời hư vọng. Thật đáng khinh!”.
Tôi sẽ lại trình bày “Ngôn ngữ chỉ là phương tiện giả lập, vậy nên các pháp cũng chỉ là phương tiện giả lập mà Phật Thích Ca phải tùy thuận, lập ra giúp con người thoát khổ, giải thoát hoàn toàn”.
Vì lẽ đó, Phật đã bao lần nhắc nhở “Bốn mươi chín năm ta chưa từng nói một lời nào”. Chỉ do nơi người học Phật không chuyển được kinh lại bị kinh chuyển, “Lấy giả làm chân, lộng chân thành giả” nên mê mờ chánh pháp.
Người học Phật và nhân loại đừng vội quên “Các pháp phương tiện là giả lập còn 3 cõi 6 đường, luân hồi, nhân duyên nghiệp quả là chẳng thật có, chẳng thật không”. Muốn thoát khỏi đau khổ, luân hồi thì con người phải thường sống nơi chánh pháp.
Phật đã 49 năm không nói một lời, tôi một phen trộm pháp Phật, giả lập nơi ngôn từ, tùy thuận trình bày vì thế tôi cũng chưa từng nói một lời.
Con đường của nhân loại về sau mỗi người tự chọn lấy lối đi. Sống trong đau khổ, hận thù, giết chóc triền miên, thay hình đổi dạng,… hay sống trong một xã hội hòa bình, hài hòa, văn minh và tiến bộ là tùy duyên vậy.
  1. Pháp Phật Không Thể Nghĩ Bàn.
Thật vậy, Pháp Phật không thể nghĩ bàn là vì người học Phật không thể dùng tâm ý phân biệt, dính mắc, vọng tưởng điên đảo, loạn động,… mà có thể lĩnh hội, thâm nhập rốt ráo nghĩa lý của tự tâm, tự tánh, vạn pháp. Khi đã không “minh tâm, kiến tánh” thì người học Phật không thể hằng sống trong chánh pháp, dứt trừ đau khổ, giải thoát sinh tử luân hồi. Vì thế sau khi học hỏi, tìm hiểu giáo lý kinh điển người học Phật cần phải dừng lặng, quán chiếu vạn pháp,… xoay cái thấy trực nhận từ bên ngoài, ở sự hiểu biết do việc tham học kinh sách và cuộc sống mà chuyển vào nơi tự tâm, dứt trừ cái thấy nghe hay biết dựa trên tri giác, cảm giác, tư duy, nhận thức phân biệt, bặt đường ngôn ngữ, lời nói.
Sau một thời gian, người học Phật sẽ thông suốt, thường sống trong sự chân thật của chánh pháp, tin nhận “Như Lai không nói lời hư vọng”, giải thoát hoàn toàn ngay nơi hiện đời. Khi tỏ ngộ, người học Phật sẽ rõ biết “Niết bàn không ở quá khứ, hiện tại, vị lai, đời trước, đời nay, đời sau mà Niết bàn luôn thường tại”.
Chỉ vì tâm tánh chúng sinh nơi 6 đường có sự sai biệt mà đã dựng lập ra các cõi giới khác nhau. Thiên đàng, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, atula, người, các cõi Phật và Niết bàn,… chỉ có một nơi, vốn chẳng thật có, lại cũng chẳng thật không, chỉ do tâm ý phân biệt, dính mắc, chấp trước của con người mà thành sự sai khác. Tâm ý của mỗi chúng sinh sẽ tạo ra cảnh giới cho riêng mình, tạo sự luân hồi nơi 3 cõi.
Tham, sân, si, mạn, nghi,… và những thói quen xấu bỏn xẻn, ti tiện, ích kỷ,… tạo ra lối mòn dẫn vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, kiếp người kém phước, tật nguyền, túng quẩn,…
Bố thí, trì giới, nhẫn nhịn, tinh tấn, thiền định, trí huệ và những việc làm tốt, thánh thiện, giúp đỡ mọi người,… việc huân tập những hành vi, thói quen tốt,… mở rộng cánh cửa cõi Người, cõi Trời, Atula cho con người. Con người muốn giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi hãy nên sống tốt ở hiện tại, cùng với sự hiểu biết sáng rõ về chánh pháp, từng bước buông bỏ dính mắc, tà kiến,… thì Niết bàn chính là bản tâm vậy. Đây là pháp môn không hai, không thể nghĩ bàn của chư Như Lai.
Nếu không hằng sống nơi chánh pháp, hành hạnh “Từ, bi, hỷ, xả”, buông bỏ,… thì mọi việc xấu tốt đều được con người huân tập, ghi nhận lại nơi tâm thức trải qua nhiều đời sẽ tạo thành nghiệp quả cho mọi hành vi.
Nhất là với những thói quen xấu được tích lũy lâu xa thì sẽ tạo ra những con người tâm tính loạn động, nông nổi, già lẩn là bước chuyển tiếp sang những nẻo đường tối tăm, mờ mịt. Đó là cội nguồn của pháp môn không hai mà Phật đã thuyết, là vô ngôn thuyết.
Kinh viết “Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai”. Rõ thật là bặt đường ngôn ngữ.
Kinh lại viết “Chớ bảo Phật vô ngôn, kinh Phật từ miệng thuyết”.
Là lời hư vọng, điên đảo chăng?
Phật lại nói “Bốn mươi chín năm ta chưa từng nói một lời”.
Lời Như Lai sao lại trước sau sai biệt?
Bởi lẽ vạn pháp vốn tự như như, chỉ vì chúng sinh 3 cõi mê lầm, không sáng rõ Như Lai từ bi vì đoái thương mà giúp cho chúng sinh 6 đường dứt trừ nạn khổ, thoát vòng tử sinh mê đắm, nhận rõ chân tánh vạn pháp. Một phen mượn ngôn từ giả tạm lập ra muôn ngàn phương tiện khéo, vi diệu tùy theo căn tánh sai khác của chúng sinh mà hiển bày chánh pháp chân thật.
Như Lai lại rõ biết “Chúng sinh 6 đường vọng chấp thành tánh, u mê trong lưới vô minh khá hay chấp trước” nên lập ra phương tiện “đoạn lìa” ngôn ngữ, tâm tưởng của chúng sinh “Chánh pháp còn bỏ huống hồ là phi pháp”.
Pháp vốn chẳng có tà chánh chỉ vì tâm phân biệt, dính mắc mà nên chánh tà riêng biệt. Đó chính thật là pháp môn không hai của chư Phật và bồ tát.
Đến thời các vị Tổ sư Thiền lại một phen dùng pháp vô ngôn nhưng lại dụng tâm sâu kín, không chỉ bày rõ nơi người học Phật khiến cho người học Phật đời sau không tránh khỏi mê mờ, lầm lạc. Vô hình chung khiến người học Phật vọng chấp “Bặt đường ngôn thuyết, lời nói là cứu cánh của pháp Phật”, tạo ra sai lầm lớn. Trước, nhốt thân vào đạo, vào pháp. Sau, lại nhốt pháp vào pháp khiến cho pháp Phật ngày càng rời xa thực tế cuộc sống, mất đi tính thực tiễn, khả dụng của chánh pháp.
Nay tôi lại vì bi nguyện của Như Lai mười phương, ngay nơi “Bặt lời nói, ngôn thuyết” một phen dùng lời vụng đoạn trừ vô ngôn thuyết. Bởi lẽ pháp môn bất tư nghị giải thoát của Phật nương nơi ngôn thuyết mà lập, nói cho đến cùng tận các pháp. Về sau, người học Phật mới khá hay dừng lặng chuyển hóa cái thấy nghe hay biết thu nhận từ bên ngoài vào nơi tự tâm không phân biệt dính mắc, buông bỏ.
Ngày nay, người học Phật khi tham học kinh điển, giáo lý nơi sư thầy cùng đồng môn thường vấp phải chướng ngại “Pháp Phật không thể nghĩ bàn”, “Hãy tự tu, tự chứng sau một thời gian sẽ như người uống nước, nóng lạnh tự biết”,…
Xét lại vấn đề này, ý từ của những câu nói trên hàm ý rõ việc “Bặt đường ngôn ngữ, lời nói”.
Vậy người học Phật sẽ biết bắt đầu tu và hành từ nơi đâu?
Đối với việc truyền trao pháp Phật, người học Phật khá nên tùy theo căn tánh của người cầu pháp mà tường tận chỉ bày.
Một lời vô ngôn đoạn lìa pháp Phật, chánh pháp về sau lấy ai truyền giữ?
Nhớ lại hơn 2500 năm trước, mỗi khi có người đến cầu pháp Như Lai dùng mọi phương tiện thiện xảo để chỉ bày nhằm giúp người học Phật mau chóng liễu ngộ sinh tử. Đối với những câu hỏi siêu hình vượt không gian, thời gian không có ích lợi với việc thoát khỏi luân hồi Phật Thích Ca dùng phương tiện kể ra những câu chuyện giúp người học Phật tự nhận biết “Những câu hỏi đó không là cứu cánh của đạo giải thoát”, rồi người đó sẽ tự trở về mục đích “Liễu thoát sinh tử”.
Với những những người tìm đến vấn nạn, tranh biện không phải lẽ Phật bình thản vô ngôn. Sau một hồi vấn nạn, mắng nhiếc mệt nhoài, hả hê,… người vấn nạn lại hỏi Như Lai:
- Như Lai đui mù, câm điếc hay sao mà không nghe lời tôi mắng nhiếc, miệt thị?
Phật lại bình thản kể một câu chuyện:
- Ví như có một người tổ chức một buổi tiệc lớn mời mọi người đến dự. Đến khi mọi người ra về, người chủ chuẩn bị quà bánh gửi cho từng người.
Dừng lại, Phật hỏi người kia:
- Lúc bấy giờ, có người không nhận lấy phần quà thì phần quà đó sẽ về ai?
Người đến tranh biện sẽ bừng tỉnh “Thì ra mình đang tự làm xấu mặt với những tham sân si mạn nghi còn Như Lai thì vẫn điềm tĩnh, an lạc, tự tại” và “Trong khi ta đang cố thể hiện cái tôi thì mọi người sẽ tự nhìn nhận, đánh giá”. Thế là người vấn nạn tự biết sửa sai, quay về chánh đạo.
Phật quả thật chưa từng vô ngôn.
Lại nói các vị thiền sư dùng phương tiện vô ngôn để khiến người học Phật một phen tỏ ngộ rõ biết gương mặt tự thân lúc chưa được sinh ra. Về sau, tạo ra vô số công án thiền, người tu thiền lại lập ra phương tiện giải công án, lập kiến giải nhằm trình cái sở đắc khiến pháp Phật trở nên u huyền, huyễn hoặc, xa rời nhân gian. Người học Phật từ đó mê mờ sự chân ngụy nơi pháp Phật.
Lại nói nơi bặt ngôn ngữ, lời nói người học Phật sao có thể liễu giải công án thiền?
Điểm qua một vài công án thiền, tôi lại giả lập phương tiện giải trình nơi ngôn thuyết nhằm hiển bày thật tướng pháp phương tiện nơi các vị Tổ.

Buông

Ngày trước, có một vị cư sĩ vốn là một viên tướng trong quân đội. Việc quân chộn rộn làm cho viên tướng bộn bề những lo nghĩ, nặng nề. Lại được biết việc thiền định giúp người hành thiền dứt tâm xao động, nội tâm bình lặng, viên tướng đã tìm đến một thiền sư danh tiếng. Sau một thời gian tham bái, viên tướng mới khẩn khoản mong vị thiền sư vạch rõ yếu chỉ thiền.
Vị thiền sư chỉ đáp gọn:
- Buông.
Vị cư sĩ lĩnh ý, quay về tham cứu chữ “Buông” trải qua một thời gian lại tìm đến thiền sư. Gặp được vị thiền sư đáng kính, vị cư sĩ vui mừng nói:
- Bạch hòa thượng, con đã buông rồi.
Vị thiền sư bình thản nói:
- Buông được là rất tốt. Bấy lâu, tôi vẫn nghe mọi người bàn tán, dị nghị về việc “Những khi cư sĩ vắng nhà đi tham thiền, duyệt binh,… thì bà nhà hay tằng tịu, đàng đúm với người đàn ông khác”. Chẳng hay việc đó có thật không?
Viên tướng thoạt nghe, gương mặt biến sắc, lửa giận bừng bừng, hai tay chồm đến chộp vào người vị thiền sư, gằn giọng quát:
- Đại sư ăn nói hàm hồ, cớ sao lại nhục mạ người khác?
Tuy nhiên, vị thiền sư đã tránh khỏi và nói với vị cư sĩ:
- Nào phải đã buông.
Viên tướng giật mình, tỏ ngộ quỳ xuống tạ tội cùng thiền sư.

Lại Buông

Ở một ngôi chùa nọ, có một vị thiền sư danh tiếng được những người học Phật đến tham bái, học hỏi. Một hôm, có một thiền sinh đến tham bái, cầu pháp. Thiền sư cũng vì người cầu pháp mà nói:
- Buông.
Vị thiền sinh đáp:
- Bạch, đã buông.
Vị thiền sư bảo:
- Cầm lên.
Vị thiền sinh ngẩn ngơ chưa biết đối đáp ra sao cho phải thì đã nghe thiền sư quát:
- Đã bảo cầm lên.
Vị thiền sinh vụng về đáp:
- Sao trước người lại bảo buông?
Thật chẳng hội lý thiền.

Lời Bàn:
Con người xưa nay vốn nhiều dính mắc, không dễ một sớm một chiều mà có thể buông bỏ, xả ly. Thế nên, các vị thiền sư lập ra phương tiện “Buông”. Tuy nhiên, người học Phật lại nhiều vướng mắc, cạn nghĩ “Việc buông bỏ chỉ dừng nơi hình tướng, các pháp,…” và trói thân tâm vào việc buông bỏ. Thật ra khi sống trong chánh pháp chẳng có một pháp có thể bỏ, cũng không có người buông bỏ. Cho nên người học Phật khi không thật sống với chánh pháp thì chẳng thật sống với việc buông bỏ, dứt tham sân si mạn nghi, tất cả chỉ dừng ở lời nói, “đầu môi, chót lưỡi”.
Xét lại hành động của hai người học Phật trên qua cách hành xử quả thật có khác biệt lớn. Viên tướng nói “buông” là buông nơi tâm ý, dứt tham sân si mạn nghi nhưng chỉ với một câu nói vị thiền sư đã kéo viên tướng rơi về thực tại, tâm sân si vẫn chưa đoạn được thì nói gì đến thoát khổ, vượt luân hồi. Thật chưa thường sống nơi chánh pháp.
Ở trường hợp thứ hai, vị thiền sinh là người được tôi rèn nơi thiền tự nên khi nói “đã buông” là tự nhận đã buông bỏ các pháp, tâm dính mắc. Nào hay vị thiền sư chuyển sang kiểm chứng nơi tỏ ngộ của người học Phật lại bảo cầm lên. Vị thiền sinh bất ngờ với câu chuyển pháp nên tỏ ra bối rối, lúng túng thể hiện nơi cử chỉ, gương mặt và tìm đối sách ứng phó. Vị thiền sư đã quát lớn khiến vị thiền sinh chưa ngộ lý thiền, vụng về để lộ hành tung.
Thật ra vị thiền sinh chỉ là người học Phật tu hành trên giáo lý, văn tự và dính mắc vào việc đắc pháp. Lại cũng là một người học Phật không hằng sống nơi chánh pháp, tự “dối lừa” đắc pháp.

Vì Chánh Pháp Chặt Lìa Ngón Tay Đệ Tử

Thiền sư Câu Chi mỗi khi giảng giải thiền, hoặc khi có người đến tham hỏi pháp Phật thường hay giơ một ngón tay lên chỉ bày. Sư có một vị đệ tử vẫn thường kề cận, học hỏi pháp. Vị đệ tử này nhận thấy “Mỗi khi có người hỏi pháp yếu thì sư phụ thường hay đưa một ngón tay ra”.
Vì thế những khi sư Câu Chi đi vắng mà có người đến hỏi pháp Phật vị đệ tử này cũng ra một ngón tay.
Thiền sư Câu Chi biết chuyện liền hỏi vị đệ tử một đề mục về pháp Phật. Vị đệ tử đã thành lệ liền giơ ngón tay lên. Sư Câu Chi liền nắm lấy ngón tay của vị đệ tử chặt lìa. Vị đệ tử đau đớn, thét lên một tiếng và vùng tháo chạy. Sư liền cất tiếng gọi, vị đệ tử quay đầu vừa lúc nhận thấy ngón tay của thầy Câu Chi đưa lên. Vị đệ tử cũng đưa tay lên đáp trả ngay đó “hoát nhiên đại ngộ”, vị thiền sinh liền quỳ xuống lễ tạ thầy.

Lời Bàn:
Quả thật đến với công án này mà người học Phật bặt lời nói, không tìm hiểu, học hỏi kinh sách, ít hiểu biết về pháp Phật,… khó mong giải trình được công án. Công án này tạo ra huyền nghi “máu nhuộm thiền môn” và người học Phật không có tâm từ. Công án này thật rất đơn sơ, ngắn gọn, bặt đường ngôn ngữ nhưng không phải là không có lời nói. Chỉ vì phương tiện giả lập mà thành ra vắn tắt, tôi lại mượn lời nói mà giải trình công án.
Ở đây, ta chỉ biết mỗi khi có người hỏi pháp, thiền sư Câu Chi thường đưa một ngón tay biện giải mà ta lại không rõ biết người đến tham bái hỏi về vấn đề gì? Vị thiền sinh vì thấy sư phụ dùng ngón tay hiển bày pháp yếu, cứ ngỡ đó là cứu cánh của đạo giải thoát nên trộm học mà chẳng rõ tự tánh.
Muốn sáng rõ công án này ta phải biết vì cớ gì mà thiền sư đưa một ngón tay khi có người cầu pháp?
Tôi sẽ giả lập đặt ra các câu hỏi của những người đến tham bái, cụ thể:
Người cầu pháp hỏi:
- Thế nào là “tức Tâm tức Phật”?
Sư đưa một ngón tay ám thị “Tâm và Phật vốn không hai, chớ nương ngoài mà tìm cầu”.
Người cầu pháp khác hỏi:
- Tâm yếu của Phật pháp được truyền từ Ấn Độ sang là gì?
Sư đưa một ngón tay ám thị “Duy một chữ tâm”.
Người khác đến tham bái hỏi:
- Phật trước thuyết tam thừa, lại thuyết tối thượng thừa là lẽ gì?
Sư lại đưa một ngón hội ý “Chỉ một Phật thừa”. Bởi do thấy nghe tụng niệm là tiểu thừa, ngộ pháp hiểu nghĩa là trung thừa, y pháp hành trì là đại thừa. Đến khi vạn pháp thông đạt, tự đầy đủ, tất cả chẳng nhiễm, lìa các chấp tướng, trọn vô sở đắc, gọi là Phật thừa.
Cứ vậy, tùy theo chỗ vướng mắc của người học Phật mà sư Câu Chi chỉ bày phương tiện, vị thiền sinh trẻ chẳng hội ý thiền, lại khinh suất, kiêu mạn,… dựa nương pháp của sư phụ, dối truyền tâm pháp, lâu ngày thành tánh.
Sư Câu Chi biết được một phen chỉ thẳng pháp yếu. Một dịp, Sư gọi vị thiền sinh lại rồi hỏi:
- Tự tánh vạn pháp là gì?
Vị thiền sinh trẻ vội đưa ngón tay trình pháp, nào hay bị sư Câu Chi chặt lìa ngón tay, vị thiền sinh kinh hoảng vùng chạy thoát, lại nghe tiếng sư phụ gọi không thể không xoay đầu, lại thấy ngón tay sư Câu Chi nhìn xuống nơi ngón tay đã mất, chợt đại ngộ “Vạn pháp đồng tánh không”. Vị thiền sinh trẻ tỉnh mộng, vội quỳ xuống lễ tạ.
Việc giải trình công án, mỗi người mỗi có cách kiến giải riêng biệt, tùy cái thấy nơi tự tâm.
Từ lâu, tôi không cho rằng “Đây là cứu cánh của đạo giải thoát” nên chẳng từng biện giải. Tuy nhiên, tôi vẫn biết đây là pháp phương tiện, vì thuận duyên giải trình công án, đoạn dứt những huyền nghi. Vì tôi vốn chẳng là thiền sinh nên không câu nệ ngôn từ, lời nói,… chỉ mong thuận theo chánh pháp mà biện giải, góp phần làm cho công án thiền trở nên gần gũi, dễ tiếp nhận.

Giải Công Án Đắc Pháp Của Thiền Sư Đức Sơn

Chỉ với một thao tác thổi tắt đèn của Thiền Sư Long Đàm khiến sư Đức Sơn “hoát nhiên đại ngộ”. Sư Đức Sơn đã ngộ ra điều gì mà buông bỏ mọi kiến chấp, sự hiểu biết của tự thân mà quỳ xuống lạy tạ sư Long Đàm?
Được biết sư Đức Sơn làu thông kinh Tạng, Luật, Luận. Vì thế trong lòng sư có phần kiêu mạn với mớ kiến giải, biện luận sâu rộng,… về Tam tạng kinh. Sư muốn xuống phương nam để nhiếp phục sư Long Đàm nhằm đáp đền ơn Phật vì cho rằng sư Long Đàm là tà ma, ngoại đạo dối truyền pháp Phật. Vậy mà vừa đến phương nam lại không thể trả lời xong một câu hỏi của bà lão bán xôi thì hào khí mười phần đã giảm hết nửa. Lại gặp sư Long Đàm hỏi một câu khiến thần trí mê mờ, nhuệ khí tiêu tan. Sư đành xin ở lại để tham học. Nhưng với sự hiểu biết, những kiến giải,… thì sư chẳng thể quên mất. Sư vẫn thường cùng sư Long Đàm hỏi đáp pháp yếu, kinh điển, giáo lý,… Nói về các pháp, sư thông suốt cả nên dù sư Long Đàm có muốn truyền dạy cũng chẳng còn chỗ để truyền. Vì tâm của sư Đức Sơn như cái ly nước đầy chẳng thể rót nước vào thêm.
Cho đến lúc có nhân duyên, sư Long Đàm liền hỏi:
- Tam tạng kinh, người đã sáng rõ cả. Đêm đã khuya sao lại chẳng về?
Rõ thật là sư Long Đàm đã mở lời tiễn khách, sư Đức Sơn đành cúi chào, bước ra nhưng bên ngoài trời tối đen, không nhìn thấy lối đi. Sư đành trở vào trình:
- Bên ngoài trời tối đen.
Sư Long Đàm thắp đèn đưa Sư. Sư toan tiếp lấy, sư Long Đàm liền thổi tắt.
Ngay lúc đó, sư Đức Sơn tỏ ngộ. Câu tiễn khách của sư Long Đàm hàm ý “Phải chăng tự tâm sư đã sáng rõ pháp Phật?”, sư Đức Sơn chưa kịp trả lời thì đã bị “đuổi đi”. Sư bước ra, thấy “Trời tối”, liền vào xin ánh sáng.
Sư Long Đàm đã thắp đèn cho sư nhìn thấy ánh sáng và đưa sang. Nhân lúc sư Đức Sơn toan tiếp lấy đèn thì sư Long Đàm đã thổi tắt ánh sáng. Việc làm này khiến sư Đức Sơn bừng tỉnh “Thì ra cái sáng rõ nơi Phật pháp mà bấy lâu ông chấp giữ chỉ là cái thấy bên ngoài, do giáo lý, kinh điển và tâm phân biệt, dính mắc mà có chứ chẳng phải cái thấy sáng rõ chánh pháp nơi tự tâm”. Vì thế nên trước câu hỏi đốn chứng của bà lão bán xôi và sư Long Đàm ông không thể trả lời đặng vì thật sự là chưa “Minh tâm, kiến tánh”. Việc hội được ý thiền, buông bỏ những kiến chấp, lý giải,… khiến sư Đức Sơn trút bỏ được gánh nặng trong lòng,… hỏi sư Đức Sơn làm sao không biết ơn sư Long Đàm truyền tâm pháp? Ngay sau khi buông bỏ mọi kiến giải, chấp trước thì sư Đức Sơn đã chuyển vị, trở thành Tổ.
Việc đắc pháp của sư Đức Sơn nơi sư Long Đàm có chỗ tương đồng với việc đắc pháp của sư Huệ Khả nơi Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Sư Huệ khả cũng am tường kinh điển, giáo lý thậm chí có thể làu thông Tam tạng kinh hơn cả Sơ Tổ Đạt Ma. Dù vậy ngay khi ngài Đạt Ma bình thản, tự tại thì trong lòng sư Huệ Khả lại bấn loạn, không an. Bởi do Sơ Tổ Bồ Đề hằng sống nơi chánh pháp còn sư Huệ Khả chỉ là hiểu biết pháp mà không thật sống nơi chánh pháp.
Người học Phật mà chỉ dừng ở nơi rõ biết và không sống được nơi chánh pháp thì ngày càng bị trói vào pháp với những dính mắc tà kiến, chấp trước. Thật chẳng thể tự tại, an lạc ngay nơi hiện đời thì nói gì đến việc liễu thoát sinh tử.
Tôi trình bày việc giải công án cũng là phương tiện giả lập nhằm chỉ rõ nơi các vị Tổ đắc pháp vô sanh. Việc đắc pháp là do người học Phật đã buông bỏ tâm phân biệt, dính mắc,... Người học Phật khi tìm về chánh pháp nếu có đủ duyên thì hãy nên học hỏi tận cùng sự hiểu biết sáng rõ của chánh pháp.
Sau đó, người học Phật dừng lặng thiền định, quán chiếu nhằm rõ biết sự chân ngụy nơi chánh pháp. Chỉ khi người học Phật hoàn toàn tin nhận và thường sống nơi chánh pháp là sẽ tự dứt trừ đau khổ, ưu phiền, ra ngoài sinh tử.
Vấn đề người học Phật cần làm không phải là chỉ dừng lại ở sự hiểu biết sáng rõ chánh pháp mà là sống thật với chánh pháp nếu muốn vượt thoát khỏi luân hồi nơi 3 cõi 6 đường.

 CHƯƠNG III
XUA ĐI HUYỀN THOẠI

  1. Đời Thừa.
Gần hai năm rồi, tôi đã rong ruổi ngược xuôi, sống nhờ vào tình thương của bè bạn, người thân và gia đình. Việc viết sách khiến tôi không có nhiều thời gian làm việc, lao động. Quả thật, tôi đã ở bên đời như một kẻ thừa thải, sống ăn bám xã hội. Xem ra việc có hay không có sự hiện diện của tôi trên cõi đời này đâu có nhiều khác biệt. Người xưa nói không sai.

Có ngày trước tất phải có ngày nay. Cho nên bây giờ đây là tường xiêu, gạch nát thì biết đâu ngày trước nơi này là cao lâu, tửu quán. Bây giờ là bụi hoang, cành gãy thì ngày trước biết đâu là hoa quỳnh, cây ngọc. Bây giờ đây là ma trơi, đom đóm thì ngày trước biết đâu đây là đèn vàng, nến bạc. Bây giờ đây là rau đắng, rau má thì ngày trước biết đâu đây là cao lương, mỹ vị. Bây giờ đây là lá phong hồng, bông địch trắng thì ngày trước biết đâu đây chẳng là gấm xứ Thục, lụa xứ Tề. Trước kia không có mà nay có, đâu phải dư. Trước kia có mà nay không, đâu phải thiếu.

Trước kia không có mà nay có, đâu phải dư. Trước kia có mà nay không, đâu phải thiếu. Vậy nên việc tôi không tồn tại có khác gì một chiếc lá rơi, một cành cây khô gãy, một con sâu bị giẫm nát dưới dấu chân người,…
Nhìn lại những bước đường đã qua, những gì tôi trình bày,…
Dường như tôi chỉ mải mê bắt lấy lỗi người, có phải tôi là người không có lỗi lầm chăng?
Tôi đã từng nói “Con người có bao nhiêu lỗi thì tôi có bấy nhiêu việc làm sai trái”. Thật vậy, với gia đình tôi là một người con bất hiếu, không từng phụng dưỡng mẹ cha. Với đất nước tôi cũng không là kẻ tận trung và là người thừa, kẻ vô dụng của xã hội.
Cuộc sống của tôi đã từng trải qua không ít những thăng trầm. Thành công có và cũng không ít thất bại. Chính ở nơi thất bại mà tôi dừng lặng và nhận định, đánh giá lại cuộc đời. Tôi đã tìm về đạo Phật với những hiểu biết chông chênh, mơ hồ, huyễn hoặc, không sáng rõ nơi giáo lý, kinh điển. Trải qua một quá trình thiền định, quán chiếu, tôi có chút tỏ ngộ về con đường Phật đi, việc tiếp xúc cõi vô hình giúp tôi nhận biết 3 cõi, 6 đường, nhân quả luân hồi, giải thoát sinh tử, khổ đau là thật có. Tôi đã trình bày sáng rõ lại chánh pháp chân thật cho nhân loại nhưng tôi vẫn biết tri thức nhân loại không thể không có những hoài nghi. Rồi tôi quyết định hành trì bước qua sinh tử nhằm củng cố, chứng thực lại niềm tin, sự hiểu biết của nhân loại.
Có lẽ việc trình bày sự hiểu biết của tự thân qua những trang sách và gửi đến nhân loại là việc làm có ý nghĩa nhất của đời tôi. Đã đến lúc tôi cần được nghỉ ngơi thật sự. Đời ai sớm muộn gì cũng một lần…
Nếu vì sự tự tại, an lạc,… cho riêng cá nhân thì tôi đã không viết sách. Khi đó, tôi sẽ xây dựng một mái gia đình đầm ấm, hài hòa và hạnh phúc.
Nhưng xã hội loài người lại đang ngụp lặn trong những rối ren, bấn loạn nội tâm, trái đất đang bị vắt kiệt tài nguyên, ngày tận thế, chiến tranh, thù hận, biến đổi khí hậu,… Không có một giải pháp mang tính tổng thể, khả thi do tri thức nhân loại đang trói trong tấm màng lưới vô minh nhị nguyên, tâm phân biệt dính mắc khiến con người không còn nhận biết sáng rõ về sự sống, cội nguồn con người và vạn vật.
Nếu phải sống để nhìn con người tự hủy hoại sự sống và con người thì tôi có khác gì một xác người đui mù, câm điếc. Tôi rõ biết “Tôi thật tầm thường, nhỏ bé,… nên những điều tôi trình bày liệu có mấy ai tin nhận, tùy thuận theo”. Thôi thì tôi sẽ ngủ một giấc ngủ ngon nhằm tạo nên điều kỳ tích. Khi tôi tự tại bước qua sinh tử thì bạn phải ít nhiều hoài nghi về “Nhân quả luân hồi và sẽ chọn lựa nẻo tốt cho riêng mình”. Khi con người sống tùy thuận theo chánh pháp thì trái đất sẽ lại phủ xanh màu cỏ cây, dòng sông sẽ sạch trong, đồng lúa lại thơm mát, nhân loại sống lại trong yên bình, yêu thương,...
Nếu có thể chọn lựa lại đường đời, gia đình và bè bạn thì tôi sẽ vẫn chọn lựa lại con đường mà tôi đã đếm bước đến ngày hôm nay.
Cảm ơn cha mẹ, người thân và bạn! Tôi yêu thương, quý trọng tất cả mọi người. Tạm biệt!
Với những người bạn cho rằng “Tôi là người điên loạn, hoang tưởng,…”. Hãy cảm thông cho tôi vì dẫu sao tôi cũng chỉ là một gã điên chưa đánh mất hết lương tri, nhân tính của một con người. Tôi vẫn sống với trái tim biết yêu người. Tôi sẵn sàng từ bỏ cõi đời nhưng không từ bỏ việc đi tìm tình người trong nhân loại. Nơi sâu thẳm tâm hồn tôi luôn hằng mong bạn luôn an vui, hạnh phúc và không còn khổ đau, phiền muộn. Tôi sẽ ra đi và gieo vào lòng nhân loại một giấc mơ có thật. Giấc mơ cuộc sống không còn oán thù, chiến tranh, đau khổ,… Con người đến với nhau không còn phân biệt màu da, chủng tộc,… sống thương yêu, hài hòa, đồng điệu, sẻ chia,…
Nếu mai này việc tranh chấp biển Đông leo thang thành chiến tranh giữa các nước tôi chỉ xin nhân loại và giới lãnh đạo Trung Quốc hãy cho tôi được chết trước khi chiến loạn xảy ra. Hãy xem tôi như là một “con vật” tế thần của những bộ tộc sơ khai, những chủng người được nhân loại cho rằng man rợ, đầy thú tính mỗi khi bộ tộc tàn ác đó tổ chức cướp bóc, xâm lấn các bộ tộc hiền hòa. Hoặc là nhân loại hãy xem tôi như là một tội đồ xấu xa sau phiên xử của Tòa án xử dị giáo của loài người mà nhân loại đã từng thừa nhận,...
Một cái chết thảm khốc, không một giọt nước mắt tiếc thương, không một niềm đồng cảm, sẻ chia. Chỉ có sự lạnh lùng, tàn nhẫn, vô cảm ngự trị trong lòng mỗi con người,…
Có lẽ trước khi nhắm mắt tôi vẫn mang theo một niềm hy vọng cái chết vụng về của tôi sẽ được nhân loại “vùi chôn” cùng với sự hận thù, chiến tranh, đau khổ và tội ác loài người.
Trải qua vô số kiếp luân hồi nơi 3 cõi, 6 đường có lẽ đây là lần đầu tiên và cũng là lần sau cùng tôi xin nhân loại “Hãy cho tôi một lần được chết”. Tôi sẽ dùng cái chết để tạ tội cho những lỗi lầm đã, đang, sẽ làm và không từng làm trải qua hằng hà sa số kiếp lâu xa. Tôi xin được chết nhằm xóa bỏ hoài nghi, ganh ghét, si mê, đố kỵ,… trong nhận thức, tư duy nơi tri thức nhân loại.
Bạn hãy quên đi việc “Đây là việc làm cao cả, lớn lao, vĩ đại”. Bởi lẽ việc tôi mong mỏi rời bỏ xác thân là thể hiện sự ích kỷ của tự thân. Tôi đã mệt nhoài với những khổ đau trói buộc kiếp người, tôi trốn chạy xác thân vật chất để tìm về sự giải thoát hoàn toàn, nơi bình yên của nội tâm, sự tĩnh tại như như của hư không thường trụ. Chỉ có chút yêu thương được gieo vào lòng nhân loại “Con người hãy nên sống với sự đồng điệu sẻ chia, hãy nên sống tùy thuận theo chánh pháp nhằm có được cuộc sống an vui, ấm êm, gia đình hạnh phúc, xã hội thuận hòa, bình đẳng, bác ái”.
  1. Xóa Dấu Chim Bay.
Nhằm chứng thực những điều trình bày trong bộ sách có ẩn chứa sự thật về con đường giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi, việc dứt trừ khổ đau, 3 cõi 6 đường, luân hồi nhân quả,… tôi sẽ chủ động hành trì rời bỏ xác thân, bước qua sinh tử. Tôi sẽ chọn ngày 30 tháng 12 năm 2012 làm thời điểm đánh dấu cho việc hành trì bước qua lằn ranh sinh tử. Có lẽ tôi sẽ sớm có câu trả lời về ngày tôi không còn nữa.
Tuy nhiên, nếu một ai đó cần trái tim để sống thì cứ hãy đến nhận lấy, tôi sẽ đưa trái tim cho bạn. Cho dù ra đi với hình thức nào thì tôi vẫn bình thản bước vào giấc ngủ ngon.
Nếu bạn đến nhận lấy những gì thuộc về bạn thì tôi sẽ không phải miên mật dụng công, hành trì rời bỏ xác thân. Một việc làm với tôi xem chừng không cần thiết và khi đó trái tim tôi có lẽ sẽ có ích cho cuộc sống của bạn. Bạn hãy lựa chọn con đường bước qua sinh tử cho tôi.
Mai này, khi tôi hành trì bước qua lằn ranh sinh tử, chấm dứt cái vòng lẩn quẩn đã trói buộc một chúng sinh trôi lăn hằng hà sa số kiếp. Tôi sẽ quay về nơi tôi chưa từng được sinh ra.
Sẽ lại có người nghĩ rằng “Tôi đang cố chứng minh sự thực chứng của tự thân”.
Chứng minh thì được gì?
Chứng minh để được mất mạng chăng?
Có gì đáng ngợi khen, tự hào khi từ bỏ cuộc đời đi tìm cái chết?
Chánh pháp của Phật Thích Ca không từng khuyên con người hành trì hủy hoại sự sống. Nhưng tôi lại vô dụng không thể trình bày chánh pháp chân thật giúp nhân loại tin nhận. Thế nên tôi phải dùng việc làm để bảo chứng cho những lời đã nói. Nếu tôi không bước qua sinh tử bằng kết quả hành trì thì tri thức nhân loại vẫn mãi hoài nghi về chánh pháp, về luân hồi, giải thoát hoàn toàn.
Việc tôi sẽ hành trì sau ngày 30 tháng 12 năm 2012 là nhập vào diệt tận định, là một “pháp nghèo” trong chánh pháp của Phật Thích Ca.
Về diệt tận định có hai dạng:
- Diệt tận định của hàng tiểu thừa, thanh văn là sự diệt đồng nghĩa với việc thần thức người học Phật sẽ rời bỏ thân xác.
Tuy nhiên, do chưa phá bỏ cái tôi nơi người học Phật nên tàng thức của người học Phật sẽ giữ gìn xác thân. Kết quả là râu tóc, móng tay người học Phật sẽ vẫn phát triển dài thêm.
- Diệt tận định ở đại thừa là lý diệt nên khi rời bỏ thân xác thì xác thân sẽ khô dần và tan hoại. Có lẽ việc ra đi của tôi là hơi vội thế nên sẽ diễn ra cả hai quá trình. Ban đầu, móng tay, râu tóc,… sẽ tiếp tục phát triển và sau một thời gian ngắn dần hư hoại. Khi đó, chỉ mong mọi người thành toàn di nguyện của tôi nhằm xóa đi những ngộ nhận, mê lầm,… cho tri thức nhân loại về sau.
Quả thật là việc rời bỏ xác thân sau ngày 30 tháng 12 năm 2012 khiến tôi phải miên mật hành trì thiền định.
Do không là người lao động tạo ra của cải, vật chất cho xã hội nên tôi sẽ chuyển sang chế độ ngày ăn một buổi.
Tôi cũng sẽ không rời bỏ xác thân theo hình thức ngồi kiết già như các vị Tổ đã từng làm. Tôi chọn cách thức nằm ngơi nghỉ ngay ngắn, khoan thai và tự tại.
Đến giờ phút này, đôi mắt, lá gan, quả thận,… có lẽ bạn hãy nên nhận lấy vì tôi đã không cần chúng nữa.
Quỹ từ thiện Người Bạn và quỹ Từ Bi Sinh Hỷ Lạc vốn chỉ là một. Khoảng thời gian còn lại tôi sẽ đi tìm một người, một tổ chức có đủ tư cách pháp nhân nhằm hợp thức hóa công việc cần làm đó. Một phần giá trị của quỹ là 60% lợi nhuận có từ việc phát hành bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người”.
Nhằm đảm bảo tính khách quan cho quỹ Người Bạn hoạt động hiệu quả tôi sẽ loại trừ những người thân trong gia đình ra khỏi mọi vai trò điều hành hoạt động của quỹ từ thiện.
Có thể sẽ có nhiều người đồng cảm, quý mến, muốn tiếp sức cho tôi ở những ngày cuối đời, tôi cảm ơn và xin không nhận lấy. Nếu thật sự hiểu rõ những gì tôi đã trình bày thì bạn hãy mang số tiền của, tài sản, vật chất,… dôi dư mà bạn có đến với những người cần được giúp đỡ, sẻ chia. Những người nghèo khó, khốn cùng,… cần giá trị thặng dư của cuộc sống hơn tôi.
Tôi thành tâm cảm ơn và gửi lời chúc phúc đến bạn cùng gia đình!
Tại sao tôi nói rằng “Không vì danh lợi, bạc tiền” mà lại tạo lập ra quỹ từ thiện và rêu rao cho mọi người cùng biết?
Thật ra đã có rất nhiều người thực hiện những việc đáng làm, cần làm đó nhưng cũng có không ít tiêu cực xảy ra trong công tác đáng quý, chứa đựng tình người. Vì thế có không ít người hoài nghi về tính trung thực và không thiết tha đến việc làm thánh thiện, đồng cảm thương yêu. Tôi chỉ muốn thắp sáng lại ngọn lửa yêu thương sẻ chia ở trong lòng của mỗi con người. Thêm nữa, tôi lại được học một bài học hay, bổ ích từ vị thầy Khổng Tử.

Thời Khổng Tử sống, chiến tranh, loạn lạc triền miên. Trong số những người học trò ưu tú của Khổng Tử có một người học trò nhà giàu là Tử Cống. Một hôm, Tử Cống đi ngang một thôn ấp nghèo bị mất mùa, rơi vào nạn đói. Thấy dân tình khốn khổ, lầm than,… Tử Cống đã góp tiền giúp đỡ dân nghèo. Lúc bấy giờ, các vị chức sắc đã hỏi danh tánh của Tử Cống nhưng Tử Cống không cho biết và rời đi. Tử Cống đã thể hiện khí phách của một người quân tử, “Thi ân bất cầu báo”, làm việc xuất phát từ sự đồng cảm, giúp người túng quẩn chứ không vì danh lợi mà làm.
Tuy nhiên, đức Khổng Tử biết chuyện đã gọi Tử Cống mà mở lời trách với đại ý:
- Lẽ ra học trò nên ghi lại danh tánh để mọi người cùng biết mà noi theo. Vì lẽ những việc làm đó sẽ góp phần cổ động mọi người cùng quyên góp tiền của giúp những người đói nghèo, cơ cực. Hơn nữa, có một bộ phận không nhỏ những người làm việc thiện chỉ mong được ghi danh, việc không báo danh tánh của học trò sẽ chặn đứng việc tốt mà nhóm người trên muốn thực hiện.

Những bậc hiền nhân, minh triết đã dạy những điều hay, lẽ phải tôi không thể không tùy thuận áp dụng. Tôi đã học hỏi những điều hay, lẽ phải của tiền nhân và sự hiểu biết sáng rõ ở chánh pháp của Phật Thích Ca.
Học để sống tốt, an lạc, hạnh phúc và buông bỏ.
Xin nhớ cho rằng Phật Thích Ca 49 năm không nói một lời vì thế tôi cũng không từng nói một lời và tôi chưa từng tồn tại. Dù vậy, ngay khi bước qua lằn ranh sinh tử tôi sẽ về thắp sáng cõi địa ngục tối tăm.
Không chỉ vậy, dù mai này bạn ở bất cứ nơi đâu trong 3 cõi 6 đường tôi vẫn luôn bên bạn và cùng bạn sống tùy thuận theo chánh pháp, thoát ra khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
Nếu có thể bạn hãy dùng sự hiểu biết sáng rõ, khách quan mà tìm hiểu, rõ biết, tin nhận và thường sống nơi chánh pháp, hợp với lòng người. Khi thoát ra những phiền muộn, khổ đau,… bạn hãy góp phần truyền trao chánh pháp giúp con người thoát khổ, liễu thoát sinh tử.
Nếu bạn nhận ra tri thức có trong bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” có chỗ hữu dụng thì bạn hãy giúp bộ sách lan truyền thật xa, thật rộng. Điều đó sẽ giúp nhân loại có những phút giây dừng lặng, để chiêm nghiệm về cuộc sống, sự sống. Nếu bạn có hoài nghi về kiến thức ẩn trong bộ sách thì bạn hãy tìm lại câu trả lời thật đúng. Điều đó giúp cuộc sống bạn cùng gia đình ấm êm, hạnh phúc, xã hội sẽ văn minh, bình đẳng, cùng tiến bộ.
Không chỉ vậy! Khi bộ sách được rộng truyền trên thế giới thì tham vọng bá quyền, tham vọng độc chiếm biển Đông của giới lãnh đạo bất nhân, bất nghĩa,… sẽ bị chặn đứng.
Bởi lẽ đối với giới lãnh đạo bạo quyền thì hẳn là họ sẽ không e dè sức mạnh quân sự của các nước đang tranh chấp, không quan tâm nhiều đến giới quan chức ở cộng đồng hòa giải quốc tế,... vì nếu cần họ sẽ dùng kế sách “Lợi mê lòng người” nhằm phá tan những liên kết ô hợp đang tồn tại phần nhiều do nơi quyền lợi, danh tiếng và địa vị. Những tổ chức đã từ lâu đánh mất vai trò vì hòa bình, an ninh thế giới mà nhân loại lập ra.
Điều họ đáng ngại chính là tiếng nói nhân loại, công luận của thế giới và trên cả là lòng của người dân không ủng hộ việc làm vô đạo, trái đức, bất nghĩa, bất nhân.
Khi bộ sách rộng truyền, nhân loại sẽ nhìn nhận lại và rõ biết mọi điều ẩn khuất trong âm mưu quyền lực của giới lãnh đạo đầy tham vọng.
Khi đó, nhân loại sẽ đồng lòng lên tiếng và mở ra kỷ nguyên thế giới không có chiến tranh, hòa bình, tiến bộ, thịnh vượng, bình đẳng.
Xin bạn hãy cùng tôi tạo nên phép màu kỳ diệu cho tương lai nhân loại. Cảm ơn!
Phụ Lục
LỜI TÂM SỰ CUỐI
Én vẫn lần tìm hương sắc ngày xuân
Bay đi mãi dẫu mỏi mòn cánh mỏng
Lòng người đa đoan, mông lung, xa lạ
Én rã rời, gục chết cuối tàn đông
Cạnh một nhành mai hé nụ hoa vàng
Có một niềm tin nhen nhóm bên đời
Xuân sẽ về, xuân thắm, xuân tươi
Tạm biệt nhé! Khung trời đông buồn bã.

Cuối cùng, tôi cũng đã hoàn thành bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người”. Một cảm giác thanh thản, thảnh thơi tràn ngập cõi lòng.
Hai quyển sách Đạo Đức Kinh Thậm Giải và Dứt Phàm Thành Thánh đã hoàn tất việc in ấn nhưng việc phát hành hãy còn nhiều vướng mắc. Tôi đã dùng hai quyển sách làm quà tặng cho những người bạn, tôi cũng gửi vài đoạn trích dẫn của 6 quyển sách chưa chính thức phát hành cho một số người tham khảo, góp ý.
Tôi đang đi tìm và chờ đợi điều gì?
Tôi đang lần tìm nhịp đập của những trái tim đồng điệu. Dường như nhịp đập của trái tim sống biết yêu người trong nhân loại rất mong manh, nhẹ tênh, chỉ thoáng qua. Con người dường như rất xa lạ với sự đồng cảm, sẻ chia hay là sự hoài nghi,...
Quả thật là tôi đang lần tìm sự đồng cảm, sẻ chia về vật chất và cả tinh thần. Điều tôi cần hơn cả là sự đồng điệu về tinh thần, tôi đang tìm người hỗ trợ việc phát hành bộ sách và giúp tôi vận hành quỹ Người Bạn. Gần như không có ai cùng tôi đếm bước. Tôi đã trở thành người xa lạ, lạc lõng với con người.
Trái tim yêu thương chân thật dường như đã lịm tắt rồi chăng?
Vì lẽ đó tôi sẽ làm bất cứ điều gì nhằm góp phần làm cho trái tim nhân loại bùng lên những nhịp đập yêu thương chia sẻ. Có lẽ muốn làm tốt việc này tôi sẽ dùng máu của chính trái tim mình để thắp lên ngọn lửa yêu thương trong lòng nhân loại. Khi đó, việc phát hành sách sẽ dễ dàng và tùy thuận. Bán cũng hay mà làm quà tặng cũng tốt. Điều quan trọng nhất là tìm được sự đồng điệu trong lòng những người bạn.
Tại sao tôi không tìm được nhiều người bạn cùng chung bước?
Tôi có thể trách ai đây?
Lại là câu hỏi sai! Tôi đã rời khỏi xã hội con người đủ lâu và giờ dường như tôi đã không còn bạn. Không đúng! Đã có lúc tôi bắt gặp những nhịp đập mong manh, thoáng qua. Có lẽ tôi đã quen sống với những người lao động nghèo. Thế nên dù rằng rất muốn tiếp sức cho tôi nhưng những người bạn chân thành vẫn không thể cùng chung sức. Tôi rất cảm ơn bạn! Vì bạn đã ít nhiều tin nhận tôi sẽ hoàn thành bộ sách rồi gửi đến bạn và cùng bạn thắp lên ngọn lửa yêu thương đồng cảm, sẻ chia.
Chi phí xin xuất bản, in ấn và chi phí khác để cho ra đời một quyển sách Đạo Đức Kinh Thậm Giải là trên 13.000 (Mười ba nghìn đồng) và tôi đã áp giá bán của quyển sách Đạo Đức Kinh Thậm Giải là 35.000 (Ba mươi lăm nghìn đồng). Đây là một việc làm cảm tính nên đã phạm chút sai lầm. Điều này đã gây khó cho việc phát hành 2 bộ sách đầu tiên.
Với việc phát hành dựa vào những nhà sách ở mức chiết khấu 40%:
Chi phí ban đầu                      13.000 đồng
Lãi suất ngân hàng                   1.950 đồng/quyển
Tổng chi phí                           14.950 đồng          42,71%
Chiết khấu cho phát hành      14.000 đồng              40%
Giá bán                                   35.000 đồng              100%

Nhận xét:
Với giá bán 35.000 đồng trừ đi chiết khấu cho việc phát hành và tổng chi phí ban đầu = 35.000 - (14.000 + 14.950) = 6.050 đồng. Trong trường hợp này, tôi đã không tính chi phí sinh hoạt cá nhân.
Vậy nên mỗi quyển sách tôi thu về được 6.050 (Sáu nghìn không trăm năm mươi đồng) tương đương với 17,28%.
Giả định tôi tính chi phí sinh hoạt cá nhân vào khoảng 10.000 đồng/quyển sách. Trong trường hợp tính phí sinh hoạt cá nhân vào mỗi quyển sách thì tôi bị thất thoát hết một khoản tiền đúng bằng 10.000 - 6.050 = 3.950 đồng (Ba nghìn chín trăm năm mươi đồng). Sau khi tôi phát hành 1000 quyển sách tôi sẽ bị mất khoảng 3.950.000 (Ba triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).
Người viết sách sau khi phát hành được một bộ sách lại mất hết một khoản tiền. Xem ra tôi thật là một người ngu ngốc.
Trong trường hợp tôi không tính đến phí sinh hoạt cá nhân, sau khi phát hành 1000 quyển sách với mức chiết khấu phát hành 40% cho nhà sách tôi tạm thu một khoản tiền 6.050.000 (Sáu triệu không trăm năm mươi nghìn đồng). Với khoản thu này quả thật là rất khó đảm bảo cho sự tồn tại của những người sống chỉ dựa vào nghề viết sách bằng tâm huyết và tình yêu trao truyền sự hiểu biết đến với mọi người.
Lại có một vấn đề phát sinh. Tôi là người viết sách không chút tên tuổi. Nội dung bộ sách tôi trình bày lại chưa được bộ phận thẩm định của những nhà sách “xét lại”, lượng sách ký gửi ở các nhà sách là rất nhiều,… Thế nên, phần lớn những nhà sách mà tôi tìm đến không thể nhận phát hành bộ sách của tôi ở mức chiết khấu 40%.
Tôi tìm đến những doanh nghiệp phát hành sách với mức chiết khấu 70 - 75%.
Với mức chiết khấu 70%,
Chi phí ban đầu                      13.000 đồng
Lãi suất ngân hàng                   1.950 đồng/quyển
Tổng chi phí                           15.600 đồng          42,71%
Chiết khấu cho phát hành      24.500 đồng              70%
Giá bán                                   35.000 đồng              100%

Nhận xét:
Với giá bán 35.000 đồng trừ chiết khấu 70% cho nhà phân phối và tổng chi phí ban đầu = 35.000 - (24.500 + 14.950) = - 4.450 đồng. Thế là mỗi quyển sách tôi sẽ bị mất vào khoảng 4.450 đồng (Bốn nghìn bốn trăm năm mươi đồng) tương đương với 12,71%. Kết quả là nếu phát hành 1000 quyển sách dựa theo kênh phân phối chiết khấu 70 - 75% thì tôi sẽ mất một khoản tiền trên 4.450.000 (Bốn triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng). Và nếu cộng dồn chi phí sinh hoạt cá nhân cho 1000 quyển sách với số tiền vào khoảng 10.000.000 (Mười triệu đồng) thì tôi sẽ thất thu vào khoảng 14.450.000 (Mười bốn triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).
Biết trách ai đây?
Điều đáng tiếc đã xảy ra là do nơi tôi làm việc theo cảm tính mà chưa tìm hiểu rõ tỷ lệ % chiết khấu ở các kênh phân phối sản phẩm sách.
Vì lẽ đó tôi không thể phát hành sách dựa vào những doanh nghiệp sách với mức chiết khấu 70 - 75%. Không chỉ vậy! Việc vay mượn tiền nhằm mục đích xuất bản, in ấn,… sẽ chứa nhiều rủi ro vì thời hạn 30 tháng 12 năm 2012 đã gần kề.
Thêm nữa, bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” không phải là bộ sách chỉ dùng để bán. Tôi sẽ dùng phương thức khác để giúp bộ sách ra đời. Hiển nhiên là giá bán của các quyển sách về sau sẽ được điều chỉnh cho có phần chuẩn mực, hợp lý hơn.
Lời hứa trích 60% lợi nhuận thu được từ bộ sách đóng góp vào quỹ Người Bạn sẽ vẫn được áp dụng. Giả sử 60% lợi nhuận thu được từ một bộ sách 8 quyển vào khoảng 25.000 (Hai mươi lăm nghìn đồng). Khi bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” chính thức xuất bản và được nhân loại đón nhận thì số lượng sẽ mau chóng đạt đến 1.000.000 (Một triệu bản).
Nếu bạn có thời gian xem qua nội dung và việc tri thức nhân loại đặt bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” vào đúng vị trí thì 1.000.000 bản là con số mà bộ sách không khó để đạt đến. Việc tái bản, dịch thuật, chuyển ngữ,… sẽ giúp bộ sách lan truyền sâu rộng trên phạm vi thế giới.
Tôi sẽ làm một phép tính. Giả thuyết lợi nhuận thu được từ một bản bộ sách vượt con số 25.000 (Hai mươi lăm nghìn đồng). Giả sử số tiền mà bộ sách góp vào quỹ Người Bạn với 1.000.000 (Một triệu bản) là 25.000.000.000 (Hai mươi lăm tỷ đồng).
Với số tiền này, quỹ Người Bạn sẽ chia làm 2 phần:
- Phần an toàn chiếm 60% tương đương với 15.000.000.000 (Mười lăm tỷ đồng). Số tiền này được gửi vào ngân hàng. Giả sử lãi suất tiền gửi ngân hàng là 0.5%/tháng thì mỗi tháng quỹ Người Bạn rút ra khoảng 75.000.000 (Bảy mươi lăm triệu đồng), số tiền này sẽ gửi đến hỗ trợ những mảnh đời cơ nhỡ, khó khăn, túng quẩn, những người già neo đơn, những trại trẻ mồ côi, nạn nhân của chiến tranh,…
- Phần 40% còn lại tương đương với 10.000.000.000 (Mười tỷ đồng). Số tiền này dùng để hỗ trợ vốn kinh doanh, sản xuất,… cho những người bạn muốn vượt qua khó nghèo, hỗ trợ những người bạn lầm đường muốn quay về xây dựng lại cuộc sống,… Đây là khoản tiền cho vay không hoàn lại. Bởi do tôi đã từng có những thời khắc cần vốn nhằm vào mục đích tổ chức sản xuất, kinh doanh,… nhưng lại không có vốn để thực hiện. Kết quả là cơ hội qua đi, tôi đã từng phải trải qua một thời gian dài sống trong nuối tiếc và phiền muộn.
Tại sao có việc cho vay không hoàn lại?
Vì điều đó là không cần thiết. Quỹ Người Bạn cũng chỉ như là một ngọn đèn đang được thắp sáng. Việc của người vận hành quỹ Người Bạn chính là dùng ngọn đèn trên tay làm mồi lửa để thắp sáng những ngọn đèn bên cạnh. Khi những ngọn đèn mới tỏa rạng tự khắc sẽ là mồi lửa lan tỏa thắp sáng thêm nhiều ngọn đèn khác.
Rồi sẽ có một ngày ngọn lửa của quỹ Người Bạn tắt đi thì vẫn còn đó rất nhiều ngọn đèn sáng tỏ. Sẽ có một ngày ngọn đèn của quỹ Người Bạn tắt ánh sáng vì khi nhân loại đã sống trong sự đồng cảm, sẻ chia chan hòa, con người đều sống với tình yêu thương chân thật. Khi đó, người vận hành quỹ Người Bạn cần được nghỉ ngơi.
Thêm nữa, số bản in của bộ sách sẽ không dừng lại ở con số 1.000.000 bản và 60% lợi nhuận của một bộ sách cũng không chỉ là 25.000 đồng. Thế nên, giá trị vật chất của bộ sách mang lại là không dễ tính đếm, là không hạn lượng. Về mặt tinh thần, gốc của sự sống là tâm. Vì thế khi bộ sách góp phần làm sáng rõ nguồn tâm nơi nhân loại thì giá trị tinh thần của bộ sách là không thể nghĩ bàn, vượt ra ngoài đối đãi, không gian và thời gian.
Việc làm này có thể thành tựu hay không là tùy thuộc vào nơi bạn. Bạn hãy một lần xem qua bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người”  để rồi chọn lựa tương lai cho nhân loại. Đừng mãi ẩn thân vào nơi vỏ ốc an toàn. Khi xã hội rối ren, chiến tranh xảy ra, lòng người bấn loạn,… thì sẽ không có một nơi nào thật sự an ổn cho bạn cùng gia đình. Bạn hãy giữ lấy cuộc sống bình yên, hạnh phúc bằng việc trao truyền bộ sách và tôn trọng sự hiểu biết của tự thân. Nhất là khi bạn nhận ra nội dung bộ sách có chút ít giá trị.
Trong quyển sách “Hãy là đường xưa mây trắng bay…”, tôi đã từng trình bày “Mai này nhà của thiên hạ là nhà của tôi, tiền của thiên hạ là tiền của tôi”. Để rồi khi hoàn thành bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người”, tôi rõ biết “Cái khó của tôi không ở việc làm cách nào để kiếm tiền mà là làm thế nào để không phải nhận lấy tiền của từ thiên hạ”. Quả thật, đây là câu nói thể hiện sự cao ngạo, đáng ghét, khó thể bao dung. Nhưng tôi vẫn thể hiện vì đó là việc làm cần thiết. Ngày khởi ý nghĩ viết sách thì tôi sớm nhận biết đây là việc “Phóng bút gồm thâu thiên hạ”. Nhưng tôi lại nhớ lời khuyên của Lão Tử,

Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kì bất đắc dĩ. Thiên hạ thần khí, bất khả vi dã, bất khả chấp dã. Vi giả bại chi, chấp giả thất chi.
Cố vật hoặc hành hoặc tùy; Hoặc hư hoặc xuy; Hoặc cường hoặc luy; Hoặc tỏa hoặc huy. Thị dĩ thánh nhân khứ thậm, khứ xa, khứ thái.
Công thành, thân thoái.

Muốn nắm lấy thiên hạ mà hữu vi, cố chấp, mưu tính,… thì ta biết là sẽ không thể được. Thiên hạ là một đồ vật huyền diệu, không thể hữu vi, không thể cố chấp chiếm lấy được. Hữu vi, mưu tính thì sẽ chuốc lấy thất bại vì làm cho thiên hạ mất đạo, cố chấp thì mất thiên hạ.
Mọi việc phải tùy thuận có lúc làm, có lúc không làm. Mọi vật có lúc rỗng không, có lúc tràn đầy. Mọi thứ có lúc mạnh, có lúc yếu. Mọi chuyện có lúc an ổn, có lúc hung hiểm. Rõ biết những điều đó nên người học đạo, hiểu đạo, sống thuận theo đạo,… tránh làm những việc quá mức, vượt giới hạn.
Việc làm hoàn thành, đạt kết quả, mục đích rồi thì nên dừng lại, lui về sau.

Việc làm đã xong, tôi muốn dừng lại, thoái lui nhưng tôi đã không còn là người tự do dưới cái nhìn của bạn. Biết là sẽ về đâu nên tôi chọn giải pháp ra đi.
Cùng với sự cao ngạo tôi được gì?
Tôi trở thành một “con vật” cho lò thí nghiệm lớn của nhân loại. Đồng thời, sự cao ngạo vượt mức sẽ góp phần chứng thực cho những điều nghịch lý mà tôi trình bày là lẽ thật. Tôi sẽ nói mà không nói, làm mà không làm, không làm mà không gì không làm. Trân trọng!
Rõ biết, thời gian riêng tôi đang cạn dần, tôi còn phải làm thêm vài việc nhằm trả dứt những đoạn ân tình vay mượn.
Không chỉ vậy! Tôi đang chờ bạn đến tiếp nhận điều hành quỹ Người Bạn. Có lẽ, sau ngày 30 tháng 12 năm 2012 thì quỹ Người Bạn sẽ có được khoản tiền nhất định và chính thức đi vào hoạt động. Bạn hãy giúp tôi làm việc cần làm đó.
Cám ơn bạn! Tôi mong mỏi và chờ đợi bạn đến rất nhiều.
Ngày 30 tháng 12 năm 2012, tôi sẽ bắt đầu bước vào giai đoạn hành trì rời bỏ xác thân. Việc làm này nhằm vào mục đích chứng thực 3 cõi 6 đường, luân hồi, giải thoát, lằn ranh sinh tử,… là thật có. Con người không phải chết là hết mà chết chỉ là kết thúc một chu kỳ sống và mở ra một chu kỳ sống khác tiếp theo. Nếu bạn tin nhận và muốn thoát ra khỏi vòng luân hồi với đầy những khổ đau nghiệt ngã thì hãy sống dừng lặng, buông bỏ cái tôi mà bạn đang chấp giữ. Khi bạn buông bỏ hoàn toàn cái tôi với tâm phân biệt, dính mắc thì bạn sẽ sống với thường lạc ngã tịnh ngay nơi hiện đời, dứt trừ đau khổ, sinh tử.
Lẽ ra, tôi sẽ sống bình thản, an nhiên ở quãng đời còn lại nhưng sống để nhìn nhân loại lặn ngụp trong khổ đau, chiến tranh mà không thể giúp ích cho người thì sống để mà làm gì?
Qua những điều trình bày, tôi không thể khiến người tin nhận thì một giấc ngủ ngon, bình yên tôi sẽ giúp nhân loại dừng lặng, chiêm nghiệm,… về sự sống, nguồn gốc con người. Tôi thật không muốn phải kéo lê quãng đời đến hồi vô dụng qua thêm nhiều tháng năm dài. Tôi sẽ tìm về một giấc ngủ ngon bình yên, không mộng mị. Qua giấc ngủ tôi giúp người tin nhận 3 cõi 6 đường và cũng giúp tôi tìm về nguồn an lạc, về nơi chưa từng được sinh ra.
Có không ít người thương mến đã hỏi tôi “Tại sao phải chọn việc bước qua lằn ranh sinh tử để chứng minh sự tồn tại của luân hồi, nhân quả trong 3 cõi 6 đường, sự giải thoát hoàn toàn khỏi sinh tử?
Lẽ nào tôi có can đảm chết mà không có đủ nghị lực tiếp tục sống?
Lẽ nào tôi chỉ phải dùng việc hành trì bước qua sinh tử mới có thể giúp mọi người tin nhận luân hồi để rồi con người mới tùy thuận sống theo chánh pháp?...”
Thế nào là sống?
Thế nào là chết?
Bạn có thật sự rõ biết đúng mực ý nghĩa của lẽ sống chết?
Thêm nữa, tôi còn có thể làm chủ được mạng sống nhỏ bé của tự thân chăng?
Nếu bạn thật sự xem và rõ biết những điều tôi trình bày trong sách thì hẳn là bạn sẽ nhận ra khi tôi hạ quyết tâm viết bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận thức, giá trị con người” thì tôi đã không còn nhiều chọn lựa cho việc sống chết của cá nhân.
Có lẽ tôi đã đánh mất tự thân khi thể hiện ra những điều mà tôi rõ biết.
Mai này, nếu tôi muốn ẩn thân nơi am tranh, vách lá, phố núi, thưa người,… thì liệu có được không?
Khi tôi tồn tại vì người mà tận tâm trao truyền chánh pháp thì sẽ có không ít người hoài nghi mục đích của việc viết sách nơi tôi.
Danh lợi, bạc tiền, địa vị,…?
Sống và nhìn lòng người đố kỵ, hoài nghi,… bài bác chánh pháp của Phật Thích Ca thì nên chăng tôi dừng lại?
Hơn nữa, có một điều chắc thật rằng “Nói về vấn đề tâm linh, về thế giới cõi vô hình,… thì đã có không ít người thể hiện qua lời nói, kinh sách,… Nhưng phần lớn chỉ dừng lại ở lời nói, những truyện tích lâu xa, khó thể kiểm chứng,…”. Chính vì vậy lòng người vẫn mơ hồ, hoài nghi về lằn ranh sinh tử, luân hồi.
Nhằm phá vỡ mối nghi trong lòng nhân loại, tôi dù vụng về cũng một phen bước qua lằn ranh sinh tử mong manh. Tôi vẫn biết rằng “Việc tôi làm sẽ khiến những người thân sẽ buồn nhớ, tiếc thương,...”.
Nhưng rồi sẽ có lúc họ rõ biết, cảm thông khi nhận ra “Việc làm của tôi rất xác đáng và cần thiết trong bối cảnh sống hiện tại”.
Thế nên, bạn hãy giúp tôi trao truyền cũng như làm sống lại sự hiểu biết về chánh pháp chân thật của Phật Thích Ca, cách sống thuận đạo, dưỡng đức của Lão Tử, các bậc tiền hiền,… Về phần tôi cứ hãy để tôi bình thản, tự tại bước đi như là người chưa từng đến.
Lời chào tạm biệt tôi xin gửi đến cho tất cả.
Chúc bạn chọn lựa cho mình một lối đi tươi sáng, bình yên, hạnh phúc ở tương lai!
Với những gì tôi thể hiện thông qua bộ sách thì rõ thật là lá gan, quả thận, đôi mắt,… tôi sẽ không thể mang theo khi rời bỏ xác thân vật chất giả tạm.
Vì thế nếu bạn hoặc người thân hoặc là bạn biết đến một ai đó cần thì hãy giúp họ liên lạc với tôi để nhận lấy. Số điện thoại: 0982353038.
 Mục Lục
Thay lời tựa
Tắc công án của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
Tắc công án đắc pháp của Thiền Sư Đức Sơn
Tắc công án của Vô Ưu
Chương I: Chuyện Xưa - Tích Cũ - Luận Nay
  1. Chuyện xưa - Tích cũ
Chuyện con ve sầu và nước Ngô
Biết lẽ ngược xuôi
Khổng Tử - Mạnh Tử luận về Thuyết Chính Danh
Đạo của Khổng Tử
Khổng Tử luận Đạo cùng học trò
Đạo của Khổng Tử dùng lòng chân thành làm căn bản
Chữ Hiếu trong Đạo của Khổng Tử
Người con có hiếu
Đạo của Mặc Tử
Đạo của Trang Tử
Tu thân
Cách phục lòng người
Sự quyền biến, cơ mưu có trong sách Hàn Phi Tử
Luận Thuyết của Hàn Phi Tử
Vấn nạn mê tín dị đoan thời xưa
Khuất Nguyên đi coi bói
  1. Luận thiên hạ xưa
  2. Mở lối nhị nguyên
  3. Chiết giải vấn đề nhị nguyên
III. Giải nhân loại nay
  1. Dùng nhị nguyên luận thời đại
  2. Lưới vô minh
  3. Chạm đến cõi vô hình
Chương II: Chẳng Lìa Pháp Thế Gian
Câu chuyện 10 điều nghịch lý trong cuộc sống
  1. Bọt biển
  2. Đôi mắt
  3. Khoa học
  4. Giáo dục
  5. Văn hóa - Nghệ thuật - Thể thao
  6. Sự sống
  7. Xã hội
III. Trái tim
  1. Hơi thở
  2. Lại vén áng mây chiều
  3. Pháp Phật không thể nghĩ bàn
Buông
Lại buông
Vì Chánh pháp chặt lìa ngón tay đệ tử
Giải công án đắc pháp của Thiền Sư Đức Sơn
Chương III: Xua Đi Huyền Thoại
  1. Đời thừa
  2. Xóa dấu chim bay
Phụ lục
Lời tâm sự cuối