Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

THÀNH THẬT LUẬN quyển 15 - 16

THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 15)
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Thành Thật Luận Trang 512 Tuệ Quang Foundation
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 187 : Chỉ Quán
Hỏi : Nhiều chỗ trong kinh Phật thường bảo các Tì-kheo
hoặc ở nơi A-lan-nhã, hoặc ở dưới cây, hoặc ở trong nhà trống
vắng, nên nghĩ nhớ 2 pháp là Chỉ và Quán.
Nếu tất cả các pháp thiền định đều nên nghĩ nhớ, vì sao chỉ
nói Chỉ và Quán ?
Đáp : Chỉ là định, Quán là tuệ. Tất cả pháp thiện nào do tu
mới sinh thì đều nhiếp thuộc trong 2 pháp đó. Và còn ở tản tâm
mà có các tuệ nghe nghĩ cũng nhiếp trong pháp nầy, vì 2 pháp nầy
có thể thành xong đạo pháp.
Bởi vì sao ? Vì Chỉ có thể ngăn kết, Quán có thể dứt diệt.
Chỉ như nắm cỏ, Quán như liềm cắt. Chỉ như quét đất, Quán như
trừ phân. Chỉ như dọn bẩn, Quán như rửa nước. Chỉ như nước làm
thấm, Quán như lửa làm chín. Chỉ như ung nhọt, Quán như dao
khoét. Chỉ như khởi mạch, Quán như chích máu. Chỉ là ngăn tâm
động, Quán như vực dậy tâm chìm. Chỉ như vẩy nước vàng, Quán
như đem lửa nướng. Chỉ như dây buộc dắt, Quán như dùng dao
nạo. Chỉ như lấy nhiếp nhổ gai, Quán như kéo dao cắt tóc. Chỉ
như áo giáp, Quán như binh trượng. Chỉ như đứng thẳng, Quán
như bắn tên. Chỉ như uống dầu, Quán như uống thuốc. Chỉ như
nhồi đất, Quán như in ấn. Chỉ như gia công vàng, Quán như làm
đồ vật.
Lại chúng sinh trong thế gian đều sa vào 2 bên hoặc khổ
hoặc vui. Chỉ có thể xả bỏ vui, Quán có thể lìa khổ.
Lại trong 7 tịnh, giới tịnh, tâm tịnh là Chỉ, còn 5 pháp kia là
Quán.
Trong 8 pháp giác ngộ của bậc Đại nhân, 6 giác là Chỉ, 2
giác là Quán.
Thành Thật Luận Trang 513 Tuệ Quang Foundation
Trong 4 ức xứ, 3 ức xứ là Chỉ, ức xứ thứ tư là Quán, 4 như ý
túc là Chỉ, 4 chính cần là Quán.
Trong 5 căn, 4 căn là Chỉ; tuệ căn là Quán, 5 lực cũng vậy.
Trong 7 giác phần, 3 giác phần là Chỉ, 3 giác phần là Quán,
còn niệm giác phần chung cả hai.
Trong 8 chính đạo phần, 3 phần là giới, 2 phần là Chỉ, 3 phần
là Quán. Giới cũng thuộc Chỉ.
Lại Chỉ có thể dứt tham, Quán trừ vô minh. Như trong kinh
nói : Tu Chỉ là tu tâm, tu tâm là dứt tham thụ. Tu Quán là tu tuệ,
tu tuệ thì vô minh dứt.
Lại vì lìa tham nên tâm được giải thoát, vì lìa vô minh tuệ
được giải thoát. Giải thoát được 2 thứ đó lại không còn việc gì
nữa nên chỉ nói 2 pháp đó.
Hỏi : Nếu Chỉ Quán có thể tu tâm tu tuệ vì tu tâm tuệ nên dứt
tham và vô minh. Vậy sao định nói Chỉ có thể tu tâm, có thể dứt
tham ái, Quán có thể tu tuệ có thể dứt vô minh ?
Đáp : Tản tâm là các tâm nối nhau đi trong sắc v.v.... Tâm
nối nhau nầy được pháp Chỉ thì dứt, cho nên nói Chỉ có thể tu
tâm. Do dứt tâm sinh trí nên cho nói Quán có thể tu tuệ. Vì sinh
Quán rồi sau mới có tu, nên đều gọi tu tuệ. Sơ tuệ gọi là Quán, sau
mới gọi là tuệ. Như trong kinh nói : Tu Chỉ có thể dứt tham là nói
ngăn dứt.
Làm sao biết được ? Vì với sắc v.v... ngoại dục sinh tham,
nếu được thuốc Chỉ thì không thể sinh lại. Như trong kinh nói :
Hành giả khi được tịnh hỷ, là xả bỏ bất tịnh hỷ. Nếu nói vô minh
dứt là dứt rốt ráo. Vì sao biết được ? Vì vô minh dứt nên tham
v.v... phiền não dứt hẳn không còn. Trong kinh cũng nói lìa tham
nên tâm được giải thoát gọi là ngăn dứt. Lìa vô minh nên tuệ được
giải thoát, gọi là rốt ráo dứt.
Thành Thật Luận Trang 514 Tuệ Quang Foundation
Có 2 thứ giải thoát : thời gian giải thoát và bất hoại giải
thoát. Thời gian giải thoát là ngăn dứt; bất hoại giải thoát là rốt
ráo dứt.
Hỏi : Thời gian giải thoát là 5 loại A-la-hán vô lậu giải thoát.
Bất hoại giải thoát là bất hoại pháp A-la-hán vô lậu giải thoát, vì
sao chỉ nói ngăn dứt ư ?
Đáp : Đó không phải vô lậu giải thoát. Bởi vì sao ? Vì thời
gian giải thoát là chỉ nhờ thượng lực ngăn kết một thời gian ngắn
mà chưa có thể dứt vĩnh viễn, về sau phát sinh lại, nên không phải
vô lậu.
Lại giải thoát nầy gọi là thời, là ái giải thoát, chứ lậu tận Ala-
hán không còn chỗ khả ái.
Hỏi: Nếu vậy là không có Thánh sở ái giới ?
Đáp : Vì các học nhân chưa hết lậu nên ngã tâm thỉnh thoảng
phát khởi, cho nên đối với giới sinh ái, chứ không phải A-la-hán
ngã tâm đã diệt hẳn mà lại sinh ái.
Hỏi : A-la-hán Cù-đề với thời giải thoát 6 phen thoái lui
mất, lo sợ thoái lui lần thứ 7 nên dùng dao tự sát. Nếu mất hữu lậu
không nên tự hại. Cho nên biết thời giải thoát không gọi hữu lậu ?
Đáp : Người nầy thoái lui mất sở dụng dứt kết thiền định, ở
trong định đó 6 phen lui mất, đến phen thứ 7 lại được định đó lại,
bèn muốn tự sát. Bấy giờ liền chứng được đạo A-la-hán. Cho nên
ma vương bảo nhau rằng học nhân chết đi quanh 4 phía thây để
tìm thức nó chạy ra. Rồi đến thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Đệ
tử của ngài vì sao lậu chưa hết mà chết ? Phật nói : Người này đã
nhổ gốc ái, được vào Nê-hoàn.
Hỏi : Nếu dứt tham gọi là ngăn dứt thì trong kinh có nói : Từ
tham tâm được giải thoát, từ nhuế si tuệ được giải thoát. Lại nói :
Từ dục lậu tâm được giải thoát. Như vậy đều nên gọi ngăn chận là
giải thoát, chứ không phải giải thoát thật sự ?
Thành Thật Luận Trang 515 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Trong đó cũng có nói dứt vô minh, nên mới biết là rốt
ráo giải thoát. Nếu nói dứt tham thì hoặc ngăn dứt, hoặc rốt ráo
dứt. Nếu không sinh chân trí thì đó là ngăn dứt; tùy sinh chân trí
thì đó là rốt ráo dứt. Chứ không có dùng pháp Chỉ mà dứt rốt ráo
dứt tham được. Nếu như vậy ngoại đạo cũng có thể rốt ráo dứt
tham. Nếu vậy ngoại đạo cũng có thể rốt ráo dứt tham, mà thật sự
không phải vậy. Cho nên biết chỉ là ngăn dứt.
Hỏi : Trong kinh nói : Dùng Chỉ tu tâm, nương Quán được
giải thoát. Dùng Quán tu tâm, nương Chỉ được giải thoát. Việc đó
thế nào ?
Đáp : Hành giả, nếu nhân thiền định sinh duyên diệt trí, đó là
dùng Chỉ tu tâm, nương Quán được giải thoát. Nếu dùng tản tâm
phân biệt ấm, giới, nhập v.v..., nhờ đó được duyên diệt dứt; đó là
dùng Quán tu tâm nương Chỉ được giải thoát. Nếu được niệm xứ
v.v... đạt phần nhiếp tâm thì đều tu Chỉ Quán. Lại tất cả hành giả
đều nương 2 pháp nầy được diệt tâm giải thoát.
Phẩm 188 : Tu định
Hỏi : Ông nói phải tu tập định. Định tâm nầy là niệm niệm
sinh diệt làm sao tu được ?
Đáp : Hiện thấy thân nghiệp tuy niệm niệm diệt, nhờ tu tập
nên có kỹ năng khác thường, tùy tu tập lâu dần chuyển đổi khác,
khẩu nghiệp cũng vậy. Tùy chỗ tu tập chuyển tăng, điều hòa lợi
ích kiên cố dễ nhớ, như đọc tụng v.v… Phải biết ý nghiệp tuy
niệm niệm diệt nhưng có thể tu tập, như lửa có thể biến sống
thành chín, nước có thể xói mòn đá, gió có thể thổi vật. Như vậy
các pháp niệm niệm diệt đều có sức nhóm họp.
Lại tùy tập phiền não thì tùy theo đó mà bùng phát, như
người đời đời quen tập dâm dục thì thành đa dục. Nhuế si cũng
vậy. Như trong kinh nói : Nếu người tùy nghĩ việc gì, thì tâm
hướng theo việc đó, như thường tùy theo dục giác thì tâm hướng
Thành Thật Luận Trang 516 Tuệ Quang Foundation
theo dục. Hai giác kia cũng vậy. Cho nên biết tâm nầy tuy niệm
niệm diệt mà cũng có thể tu tập.
Lại tu gọi là tăng trưởng. Hiện thấy các pháp đều có tăng
trưởng. Như trong kinh nói: : Hành giả bởi tà niệm nên dục v.v...
các lậu chưa sinh thì sinh, đã sinh thì tăng trưởng, nghĩa là từ hạ
sinh trung, từ trung sinh thượng, như hạt giống, mộng cộng nhánh
lá hoa quả. Hiện thấy đều từ nhân dần dần tăng trưởng. Pháp định
tuệ v.v... cũng phải như vậy.
Lại hiện thấy ướp mè, mùi hương càng lúc càng tăng.
Hương đó và mè niệm niệm không ngừng mà có sức ướp. Cho
nên biết pháp niệm niệm diệt cũng có thể tu tập.
Hỏi : Mè là pháp trụ, hoa hương đến xông ướp không có tâm
trụ . Đem trí niệm niệm diệt mà đến tu tập, thì làm sao ví dụ được
?
Đáp : Không có pháp trụ. Tất cả các pháp đều niệm niệm
diệt. Điều nầy trước đã thành lập nên không còn đem nạn vấn
được.
Lại nếu pháp không niệm niệm diệt thì không tu tập được,
tức thể thường trụ tu tập ích gì ? Nếu pháp niệm niệm sinh diệt do
hạ, trung, thượng nên mới có tu tập.
Hỏi : Các hoa đến mè có thể xông ướp. Trí không đến tâm
nên không tu tập ?
Đáp : Trong ví dụ về nghiệp ở trước đã nói rõ việc này. Như
nói nghiệp sau không đến nghiệp trước. Lời nói trước không đợi
lời nói sau, mà thân khẩu nghiệp cũng vẫn có tướng tu. Cho nên
ông nói không đến không tu, không gọi là nạn vấn được.
Lại hiện thấy nhiều quả tuy không đồng thời, nhưng cũng
được do nhân có quả. Như vậy tâm pháp tuy niệm niệm diệt, mà
vẫn có tu tập được.
Thành Thật Luận Trang 517 Tuệ Quang Foundation
Lại như giống được nước tuy không đến mầm v.v..., nhưng
cũng vẫn khiến mầm tươi tốt. Như vậy tu tập trí tuệ, tâm trước
tâm sau tăng trưởng.
Hỏi : Nếu mè niệm niệm diệt thì sinh mè khác. Mè nầy là do
ướp mà sinh hay không ướp sinh ? Nếu không ướp sinh, thì hoàn
toàn không có sự xông ướp. Nếu xông ướp sinh, thì cần gì xông
ướp lâu ?
Đáp : Vì nhân xông ướp. Như hạt giống được nước thì mầm
thấm nhuần tốt tươi. Như nhân hoa trước hợp lại mà sinh thứ mè
khác, vậy là do xông ướp sinh.
Ông nói cần gì ướp lâu, như trong kinh của ông nói : Do lửa
hợp với pháp vi trần mà tướng đen diệt tướng đỏ sinh. Nếu ban
đầu lửa hợp với pháp diệt tướng đen đó, thì không nên sinh lại
tướng đen. Nếu ban đầu lửa hợp với pháp sinh tướng đỏ đó, thì
cần gì lửa sau phải hợp với pháp nữa ? Nếu khi lửa ban đầu hợp,
tướng đen sinh, tướng đỏ lẽ ra hoàn toàn không nên sinh. Nếu khi
thời gian thứ 2 tướng đỏ sinh, lại cần gì lâu hợp với lửa ? Nếu ý
ông bảo tướng đỏ sinh dần dần. Tâm cũng như vậy, đâu có lỗi gì ư
? Hư hoại v.v... cũng như vậy.
Lại các pháp tuy có nhân duyên nhưng cũng thứ lớp sinh,
như thụ thai v.v... dần dần thành thân, như hạt giống, gốc rễ v.v...
cũng lần lượt sinh. Cũng như vậy, các pháp định tuệ v.v... tuy
niệm niệm diệt, nhưng cũng do pháp hạ trung thượng tuần tự sinh.
Lại tu pháp vi tế dị tâm nối nhau, như hơi nóng vi tế của quả
trứng làm cho biến dần thành lông con chim con, như hơi nóng vi
tế của da tay làm mòn dần cán búa đến hết.
Tâm cũng như vậy, định tuệ vi diệu nên lần lượt tu tập.
Lại khi tu tập pháp, đến thì mới biết. Như có bài kệ nói :
Một phần theo thầy thụ.
Một phần nhờ bạn được.
Một phần tự tư duy.
Thành Thật Luận Trang 518 Tuệ Quang Foundation
Một phần đợi thời đến.
Nếu có người tuy đọc tụng suốt ngày không rõ ràng nghĩa lý
được, như thời chín muồi chưa đến, như đem nhiều hoa một lúc
xông ướp mè không bằng ít hoa mà xông ướp lâu. Nước thấm vào
tường vách dày cũng như vậy. Hiện thấy hạt giống rễ mầm v.v...
tăng trưởng rất vi tế còn không thấy được, lớn lên từng ngày
chừng bằng đầu sợi lông. Thân trẻ con v.v..., bơ sữa v.v... chín
muồi cũng như vậy. Cho nên biết pháp tu hành rất vi diệu khó biết
được.
Hỏi : Hoặc thấy có pháp nhất thời tụ tập rất gấp. Như có
người xưa nay không thấy săc, mà thấy sắc là đắm nhiễm ngay.
Cũng có người chút ít thời gian mà thông đạt nhiều điều. Vì sao
chỉ nói lần lượt tu tập ?
Đáp : Đó đều là quá khứ từng tu tập nên biết chứa nhóm sự
tích tập dần dần điều này đã rõ.
Lại không chỉ phát tâm mà có thể thành xong sự nghiệp. Như
trong kinh nói : Nếu đối với pháp thiện không siêng tu tập mà chỉ
mong muốn không thụ các pháp, đối với các lậu tâm muốn được
giải thoát, thì ý nghĩ người nầy hoàn toàn không theo ước nguyện
được, vì không thể siêng tu pháp thiện. Hành giả, nếu có thể siêng
tu pháp thiện dù không phát nguyện, tâm cũng được giải thoát các
lậu vì do từ nhân sinh quả không phải cầu nguyện, như con chim
sẻ cần lo ấp trứng, không cần nguyện cầu chim con từ trứng nở ra.
Lại không vì nguyện nên đèn sáng trong trẻo, mà cần đầy đủ
dầu trong, tim sạch, không vật gì xúc động ánh sáng mới trong
trẻo.
Lại không chỉ nguyện mà có thể được lúa tốt, mà quyết phải
có ruộng mầu mỡ, giống tốt, thời tiết thuận hòa, công sức đầy đủ
mới có thu hoạch.
Lại không chỉ nguyện suông mà thân được sức mạnh, mà cần
phải có các duyên như uống thuốc tốt, ăn thức ngon bổ v.v... mới
Thành Thật Luận Trang 519 Tuệ Quang Foundation
được đầy đủ sức lực. Như vậy không phải chỉ nguyện suông mà
có thể được hết lậu, phải có chân trí mới được giải thoát. Có đâu
người trí biết do nhân sinh quả, mà bỏ nhân để theo đuổi cầu quả
ở những gì khác.
Lại tu tập pháp hiện thấy quả báo. Như trong kinh Phật nói :
Không cần 7 ngày, ta dạy đệ tử cho đến tu tập pháp thiện trong
giây lát sẽ thường được hưởng vui trong nhiều đời.
Lại các Tì-kheo-ni thưa Đại đức A-nan rằng : Chị em chúng
tôi khéo tu niệm xứ, nghiệm biết khác hơn lúc ban đầu.
Lại trong kinh Phật bảo các Tì-kheo : Nếu ai tâm không dua
dọc, đến đây với ta, ta vì ban mai nói pháp, khiến chiều được lợi,
nói pháp ban chiều khiến sáng mai được lợi.
Lại nếu người được đạo A-la-hán, thì không cùng người
khác, cũng không cùng phi nhân. Chỉ tu nhân chân chính nên
được lợi đó.
Lại vô thượng Phật đạo còn phải tích chứa, tập các pháp
thiện mới chứng được, huống là những việc khác ! Như trong kinh
Phật bảo các Tì-kheo : Ta nương nhờ 2 pháp mà được đạo vô
thượng : một là ưa thích điều thiện không chán, hai là tu đạo
không biết mỏi. Phật đối với pháp thiện hoàn toàn không có giới
hạn.
Lại các Bồ-Tát dù không được định cũng không biếng nhác
mỏi mệt. Bởi vì sao ? Vì nếu không làm thiện thì không được gì
hết. Làm thiện cũng không mâu thuẫn nhau. Người không làm
thiện quyết không yên ổn. Suy nghĩ vậy rồi, thì siêng năng tinh
tiến tu tập pháp thiện. Nếu phát tâm tinh tiến hoặc được hoặc mất,
còn người không tinh tiến thì mãi mãi không có hy vọng. Cho nên
phải siêng năng tu tập, đừng sinh biếng nhác.
Lại người trí cuối cùng phải được giải thoát. Nếu bỏ tu tập
không còn phương tiện nào khác. Cho nên người trí phải siêng tu
tập đừng sinh biếng nhác.
Thành Thật Luận Trang 520 Tuệ Quang Foundation
Lại hành giả nghĩ tu chính hành ắt có quả báo, tuy chưa được
liền không lấy làm lo.
Lại hành giả nên nghĩ : Ta đã từng được quả báo tu tập, vì
chúng sinh xưa nay đều được tất cả thiền định, nay ta chính tu
cũng chắc sẽ được. Nên không biếng nhác.
Lại người chính hành được Phật chứng minh. Ta nay chính
hành, nên biết chắc được.
Lại ta được đầy đủ nhân duyên đắc đạo là : được thân người,
các căn đầy đủ, rõ biết tội phúc, cũng tin giải thoát, gặp thiện tri
thức. Đủ các duyên may nầy, làm sao tu tập không được quả ?
Lại chính hành tinh tiến không hề luống bỏ, nên không chán
mỏi.
Lại phiền não dứt một cách vi tế âm thầm khó biết, như cán
búa mòn dần đến hết. Các phiền não ta cũng phải sẽ dứt, nhưng vì
vi tế nên không thể biết hết được. Cho nên biết tu thiện tinh tiến là
hơn hết.
Lại kẻ ít trí tuệ còn có thể phá được phiền não, như chút ánh
sáng cũng có thể trừ tối. Như vậy chỉ được chút ít trí tuệ thì sẽ
xong việc, nên không chán mỏi.
Lại lâu mà khó thành, như đắc định. Nếu đắc định rồi thì các
công phu khác sẽ không lâu. Cho nên tuy không mau đắc, quyết
không chán mỏi.
Lại hành giả nên nghĩ đắc định là rất khó, như Bồ-tát xưa
phúc tuệ sâu dày mà phải tinh cần đến 6 năm mới chứng được !
Còn các Tì-kheo đắc định cũng khó, huống là chúng ta phàm phu
bạc phúc độn căn mà có thể mau được ư ? Nghĩ như vậy rồi
không sinh chán mỏi.
Lại điều tất yếu của các hành giả phải là tu định, không còn
nghiệp nào khác hơn, nên dù được dù không vẫn cần phải tu tập.
Lại người tu tập dù không được định, nhưng cũng gọi thân
được xa lìa. Thân xa lìa rồi thì dễ được định.
Thành Thật Luận Trang 521 Tuệ Quang Foundation
Lại nếu siêng tu định thì không phụ ơn Phật. Mà cũng vì tu
hạnh xa lìa mới được gọi là hành giả.
Lại tu tập pháp thiện lâu thì được thành tính thiện, cho đến
chuyển mang thân khác pháp thiện đó vẫn thường theo, nên được
thường gặp gỡ người thiện, đó là lợi lớn.
Lại người thường tu thiện hoặc ngay thân nầy chắc được hết
lậu, hoặc được ngay khi lâm chung, hoặc sau khi mạng chung hóa
sinh về chỗ thiện và được hết lậu ở đó, như trong Văn pháp lợi đã
nói.
Lại trong tâm hành giả phát khởi tướng dũng mãnh nghĩ như
vầy : Nếu ta không phá được trận giặc phiền não nầy quyết chẳng
trở về không.
Lại hành giả nương tâm kiêu mạn mà sinh ý nghĩ như vầy :
Người khác có tín v.v... các thiện căn nên có thể được đinh, ta nay
cũng có, vì sao không được ? Như Bồ-tát xưa theo người tiên Ala-
la nghe pháp khởi ý nghĩ như vầy : Người nầy có tín v.v... các
thiện căn, nên có thể được pháp nầy. Ta nay cũng có, mà vì sao lại
không được ?
Lại hành giả biết phiền não yếu ớt, sức trí tuệ mạnh mẽ, diệt
nó đâu khó gì ? Như nói Tì-kheo thành tựu 6 pháp, có thể dùng
miệng thổi tan núi Tuyết, huống là thứ vô minh chết.
Lại hành giả sinh ý nghĩ : Do đời trước ta không tu định, nên
nay không thể được, nay nếu không siêng tu sau lại sẽ không
được, cho nên phải siêng tu tập.
Lại vì thường tu định nên tâm được chỗ trụ như chiếc bình
lăn không dừng chắc phải có chỗ trụ.
Lại hành giả sinh ý nghĩ : Nếu ta thường siêng năng tinh tiến,
dù được dù không, sau khỏi ăn năn. Cho nên phải nhất tâm siêng
năng tu tập các định.
Phẩm 189 : Tướng của trí trong luận về trí
Thành Thật Luận Trang 522 Tuệ Quang Foundation
của nhóm đạo đế
Chân tuệ gọi là trí. Chân là không, vô ngã. Trong đó trí tuệ
gọi là chân trí. Trong giả danh, tuệ là tưởng không phải trí. Bởi vì
sao ? Vì trong kinh nói : Như dao có thể cắt. Đệ tử Phật dùng dao
trí tuệ có thể cắt đứt tất cả phiền não kết, phược, sử, triền, chứ
không nói pháp nào khác. Không dùng thứ không thật mà có thể
dứt phiền não được. Cho nên biết trí tuệ là thật.
Hỏi : Ông chỉ nói tuệ có thể dứt phiền não. Việc đó không
đúng. Bởi vì sao ? Vì tưởng cũng có thể dứt các phiền não. Như
trong kinh nói : Khéo tu tưởng vô thường có thể phá ất cả Dục
nhiễm, Sắc nhiễm, và Vô sắc nhiễm, tất cả hý diệu, kiêu mạn, vô
minh ?
Đáp : Không đúng. Tuệ mới dứt phiền não, lấy tên tưởng mà
gọi. Phật có 2 lối nói : một là thật ngữ, hai là danh tự ngữ. Như
trong kinh nói : Tâm từ dứt giận dữ. Mà thật không phải pháp từ
dứt kết, chỉ trí mới có thể dứt, như nói dao trí dứt các phiền não.
Cho nên biết từ có thể dứt giận dữ, đó là danh tự ngữ.
Lại nghĩa trong kinh nói hiểu biết nên gọi tuệ. Có thể hiểu
biết việc gì ? Là sắc vô thường như thật biết vô thường, thụ tưởng
hành thức vô thường như thật biết vô thường. Đó là trí tuệ.
Lại nói đệ tử Phật là người tu định nhiếp tâm như thật thấy
biết. Cho nên biết duyên đệ nhất nghĩa gọi là trí tuệ.
Lại trong ví dụ trí tuệ gọi trí là con dao tuệ là mũi tên v.v....
Trong dụ nầy đều chỉ rõ dứt trừ phiền não, chỉ chân trí tuệ mới có
thể dứt phiền não. Cho nên biết trí tuệ là thật.
Lại trong kệ nói :
Hành giả thấy thế gian,
Tất cả các trời người,
Vì thoái mất chân trí,
Nên tham đắm danh sắc.
Thành Thật Luận Trang 523 Tuệ Quang Foundation
Thế gian phần đông chấp hư vọng cho là thường, lạc, tịnh
v.v... gọi là mất chân trí. Nếu thấy chân thật không, vô ngã v.v...
gọi là được chân trí. Cho nên biết trí tuệ là thật.
Lại trong kinh Phật nói : Như người mất của gọi là mất tiểu
lợi. Nếu mất trí tuệ gọi là mất đại lợi.
Lại nói : Trong các lợi, của cải là lợi nhỏ, tuệ là lớn.
Lại nói : Trong các ánh sáng, ánh sáng mặt trời mặt trăng là
ánh sáng nhỏ, ánh sáng tuệ là đệ nhất. Nếu tuệ không phải thật,
sao Phật phải nói lên như vậy ?
Lại trong kinh nói tuệ căn nhiếp thuộc Thánh đế.
Lại nói phải biết trí khổ, tập là chân thật, duyên đệ nhất đế
gọi là tí tuệ.
Lại nói, trong các pháp trí tuệ là thượng.
Lại nói, cũng gọi Vô thượng Chính biến tri là tuệ nhãn. Cho
nên biết trí tuệ là thật vì duyên đệ nhất nghĩa.
Hỏi : Nếu vậy thì không có thế gian trí-tuệ?
Đáp : Thật không có trí tuệ thế gian. Làm sao biết được ? Vì
tâm thế gian duyên giả danh, tâm xuất thế gian duyên không, vô
ngã. Bởi vì sao ? Vì thế gian là giả danh, vượt khỏi giả danh gọi
là xuất thế gian.
Hỏi : Ông nói không đúng. Bởi vì sao ? Vì trong kinh nói :
Thức biết chỗ nào ? Là biết sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Như vậy ấm, giới, nhập v.v... đều do thức biết. Nay cái biết này
đều nên gọi là xuất thế gian. Cho nên ông nói tâm thế gian chỉ
duyên giả danh không thể duyên thật. Điều này không đúng.
Lại ý thức cũng có thể duyên thật, vì có thể duyên thụ,
tưởng, hành v.v...
Lại Phật nói 2 thứ chính kiến là thế gian và xuất thế gian.
Thấy có phúc tội v.v... gọi là thế gian. Như đệ tử Phật duyên khổ
tập diệt đạo, vô lậu niệm, tương ưng tuệ gọi là xuất thế gian.
Lại trong kệ nói :
Thành Thật Luận Trang 524 Tuệ Quang Foundation
Được chính kiến trên đời,
Dù qua lại sinh tử,
Cho đến trăm ngàn đời,
Thường không đọa ác đạo.
Lại trong kinh nói : Người tà hành được sinh về chỗ thiện.
Người nầy tội nghiệp chưa thành, mà duyên thiện thành thục
trước, hoặc chính khi chết chính kiến tương ưng, thiện tâm hiện
tiền, nên được sinh chỗ thiện.
Lại trong 10 thiện đạo cũng có nói chính kiến. Sao ông nói
không có thế gian trí ?
Lại Phật tự nói có 3 thứ tuệ là văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Văn
tuệ tư tuệ đều là thế gian. Tu-tuệ gồm cả 2.
Lại Phật sinh ý nghĩ rằng Tì-kheo La-hầu-la chưa có thể
thành tựu được tuệ giải thoát.
Lại nói có 5 pháp có thể khiến tâm chưa thành thục giải thoát
được thành thục. Đó đều là trí tuệ thế gian.
Lại trong kinh nói : Có người có thể xuất mà không thể quán.
Có người có thể quán mà không thể độ. Được thế gian trí nên gọi
là có thể xuất. Chưa thấy 4 đế nên không thể quán. Nếu thấy 4 đế
mà chưa được hết lậu nên gọi không thể độ.
Lại Phật tự nói : Pháp trí, tỷ trí, tha tâm trí, thế trí.
Lại nói : Túc mạng trí, sinh tử trí đều là hữu lậu.
Lại nói : Pháp trụ trí, Nê-hoàn trí v.v… do trong kinh nói có
như vậy v.v.... cho nên phải biết có trí hữu lậu ?
Đáp : Nếu có trí tuệ hữu lậu, thì nay cần phải nói tướng sai
khác của trí hữu lậu và vô lậu.
Hỏi : Nếu pháp sa vào hữu gọi là hữu lậu, khác đi là vô lậu.
Đáp : Pháp nào là sa vào hữu, pháp nào không sa vào hữu ?
Điều này phải giải đáp. Nếu không đáp được thì không phải tướng
hữu lậu và vô lậu.
Thành Thật Luận Trang 525 Tuệ Quang Foundation
Ông nói có tâm thế gian duyên phi giả danh, gọi là thức
duyên các trần, điều này không đúng.
Bởi vì sao ? Vì Phật nói phàm phu thường theo giả danh mà
lấy nghĩa. Vì tất cả tâm phàm phu không phá được giả danh, nên
thường chạy theo tướng ngã, hoàn toàn không thể lìa bỏ được.
Tuy thấy sắc cũng không lìa được tướng cái bình v.v... Cho nên
tâm phàm phu không duyên được thật nghĩa. Dù có duyên các
pháp thụ tưởng v.v... cũng vẫn thấy là ngã và ngã sở. Cho nên biết
tất cả tâm thế gian đều duyên giả danh.
Ông nói có các trí tuệ thế gian là 2 thứ chính kiến v.v.... Nay
sẽ giải đáp tâm có 2 thứ là tâm si và tâm trí. Duyên pháp giả danh
gọi là tâm si. Nếu chỉ duyên pháp, là không, vô ngã gọi là tâm trí.
Như trong Kinh Giải Vô Minh nói : Vô minh là không biết trước,
không biết sau, không biết trước sau, không biết nghiệp, không
biết báo, không biết nghiệp báo trước sau. Như vậy v.v... chỗ chỗ
như thật không biết, không thấy, không hiểu, si vọng đen tối, nên
gọi là vô minh.
Như thật không biết, nghĩa là không biết không, vô ngã, vì là
tâm phàm phu thường ở trong giả danh và duyên giả danh nên gọi
là vô minh, duyên không, gọi là trí. Nay nếu tất cả tâm thế gian
đều duyên giả danh, tâm duyên giả danh gọi là vô minh, thì làm
sao được nói thế gian có trí tuệ ?
Hỏi : Như ông nói tướng trí tuệ duyên giả danh gọi là vô
minh thì nay A-la-hán phải có vô minh, vì cũng có tâm duyên cái
bình v.v... ?
Đáp : A-la-hán không có tâm duyên cái bình v.v.... Bởi vì
sao ? Vì khi mới đắc đạo đã phá vỡ các tướng giả danh rồi. Nhưng
chỉ vì sự dụng nên nói bình v.v... mà không chấp đắm kiêu mạn.
Có 3 thứ ngôn ngữ : một do thấy sinh, hai do kiêu mạn sinh,
ba do sự dụng sinh. Phàm phu khi nói cái bình, khi nói con người,
những lời đó đều do thấy sinh. Học nhân tuy không ngã kiến, vì
Thành Thật Luận Trang 526 Tuệ Quang Foundation
mất chính niệm nên trong 5 ấm lấy tướng ngã mạn nói là con
người, là cái bình, như trong Kinh Sai-ma-già đã nói.
Sự dụng, là A-la-hán như Đại Ca-diếp thấy áo Tăng-già-lê
nói : Vật nầy của ta. Thiên thần sinh nghi. Phật giải thích rằng :
Người đó đã vĩnh viễn nhổ gốc mạn, đốt cháy hết nhân duyên làm
sao có mạn ? Nhưng vì danh tự thế gian nên nói vậy thôi. Cho nên
biết A-la-hán không có tâm cái bình v.v....
Hỏi : Nếu thế gian không trí tuệ, mà nói 2 thứ chính kiến
v.v..., thì làm sao thông với kinh được ?
Đáp : Đó đều là tưởng, lấy tên trí mà nói. Phật có thể thông
đạt thật tướng các pháp, tùy theo có thể độ chúng sinh mà lập
nhiều danh tự, như trí tuệ lấy tên thụ v.v... mà nói, như nói thụ là
đối với các pháp được giải thoát. Cũng nói, khéo tu tưởng vô
thường v.v... có thể phá tất cả phiền não. Cũng nói nghiệp thứ tư
không đen không trắng có thể hết các nghiệp, như nói học tư.
Lại nói, lấy ý dứt các tham đắm.
Lại nói, tin có thể qua sông, nhất tâm qua biển, tinh tiến trừ
khổ, tuệ có thể thanh tịnh.
Lại nói, mắt muốn thấy sắc, mắt thật không muốn chỉ tâm
muốn thấy, mà lấy tên mắt nói.
Hỏi : Nếu trí thế gian thật sự là tưởng đó, vì sao gọi là trí ?
Nếu không nhân duyên gì mà gọi là trí, thì tất cả tưởng đều phải
gọi trí. Cũng có thể nói có 2 thứ tưởng, một duyên thế đế, hai
duyên đệ nhất nghĩa đế ?
Đáp: Không phải. Tưởng có nhiều thứ sai khác, có tưởng rất
ngu si, đến nổi không biết thiện ác thế gian. Có tưởng si kế tiếp có
thể phân biệt thiện ác, có tưởng ít si hơn nữa có thể duyên tướng
xương v.v.... Không lìa giả danh thì không thể hoại tướng các ấm.
Tưởng này có thể thuận với trí hoại ấm tướng, nên Phật gọi là trí.
Thế gian có lối nói quả trong nhân. Như nói ăn vàng, thí người 5
Thành Thật Luận Trang 527 Tuệ Quang Foundation
việc, gái làm bẩn giới pháp, bờ tốt dòng nước ngon, pháp phục
người vui.
Lại trong Kinh Thất Lậu nói : Dụng dứt v.v... lậu nhân gọi là
lậu.
Lại nói, lấy cái ăn làm mạng sống, cỏ làm bò dê. Cũng nói,
áo cơm các vật đều là ngoại mạng. Như cướp của người tức là
cướp mạng. Đó đều nói nhân làm quả. Như vậy nhân của trí nói là
trí, nên không lỗi.
Hỏi : Các niệm xứ là trong noãn pháp v.v..., tâm có thể
duyên thật pháp là vô lậu sao ?
Đáp : Tâm vô lậu có thể phá giả danh. Cho nên tùy tâm có
thể phá giả danh, từ đó về sau gọi là vô lậu.
Hỏi : Tâm đến bậc nào có thể phá giả danh ?
Đáp : Tùy có thể thấy đầy đủ tướng 5 ấm sinh diệt, bấy giờ
được tưởng vô thường. Tưởng vô thường có thể khiến hành giả đủ
tưởng vô ngã. Như nói Thánh đệ tử dùng tưởng vô thường tu tâm
thì có thể trụ tưởng vô ngã. Dùng tưởng vô ngã tu tâm có thể
chóng được giải thoát tham sân si v.v.... Bởi vì sao ? Vì nếu dùng
tưởng vô ngã tu tâm thì có thể trụ tưởng khổ, vì tưởng ngã nên dù
bị khổ vẫn không biết. Cho nên, nếu pháp vô thường, vô ngã, mà
cũng khổ thì người trí vẫn có thể rất sinh chán ghét. Nên tưởng
vô ngã có thể đủ tưởng khổ.
Hỏi : Vì sao ông phá thuyết thứ lớp ? Trong kinh nói : Nếu
vô thường tức là khổ; khổ tức là vô ngã, cho nên tưởng vô thường
có thể đủ tưởng khổ, tưởng khổ có thể đủ tưởng vô ngã ?
Đáp : Trong kinh nói : Tu tưởng vô thường, tâm Thánh đệ tử
có thể tu tưởng vô ngã. Cho nên tưởng vô thường có thể đầy đủ
tưởng vô ngã.
Lại nói như vậy cũng có đạo lý. Bởi vì sao ? Vì người nói
ngã muốn để thành lập đời sau, nên mới nói ngã là thường. Cho
nên, nếu thấy 5 ấm vô thường liền biết vô ngã. Như trong kinh
Thành Thật Luận Trang 528 Tuệ Quang Foundation
nói: Nếu người nói mắt là ngã thì không đạo lý. Bởi vì sao ? Vì
mắt có sinh diệt. Nếu mắt là ngã, ngã tức sinh diệt. Có những lỗi
như vậy.
Hỏi : Hai kinh đó nên nói thế nào cho thông ?
Đáp : Tưởng khổ có 2 thứ : một do tưởng vô thường sinh gọi
là tưởng hoại khổ, hai do tưởng vô ngã sinh, gọi là tưởng hành
khổ. Cho nên 2 kinh đó vẫn không mâu thuẫn nhau.
Hỏi : Nếu như vậy thì niệm xứ trong pháp noãn v.v... có
tưởng vô thường, nên pháp nầy đều phải là vô lậu ?
Đáp : Trong niệm xứ v.v..., nếu là vô lậu đâu có lỗi chi ?
Hỏi : Tâm phàm phu không nên vô lậu được, lại tâm phàm
phu còn có vọng niệm xứ v.v... làm sao mà vô lậu được ?
Đáp : Người nầy không phải hoàn toàn là phàm phu. Người
đó gọi là đang tu quả Tu-đà-hoàn.
Hỏi : Tu quả Tu-đà-hoàn là ở trong kiến đạo đế, pháp niệm
xứ v.v... không gọi kiến đế ?
Đáp : Tu quả Tu-đà-hoàn có gần có xa. An trụ trong niệm xứ
v.v... là xa, hành giả kiến đế là gần. Làm sao biết được ? Phật nói
trong Kinh Phủ Kha Dụ rằng : Hoặc biết hoặc thấy nên được hết
lậu. Biết thấy pháp gì ? Nghĩa là sắc này v.v... sắc này sinh v.v...
sắc này diệt v.v…. Nếu không tu đạo thì không hết lậu mà tu thì
được, như ví dụ ấp trứng.
Lại hành giả thường tu đạo phẩm phiền não vi trần, tuy
không đếm biết được, nhưng hết rồi mới hay, như thí dụ cái cán
búa.
Lại hành giả thường tu 37 phẩm trợ đạo thì dục, phược, kết,
triền dễ có thể tán hoại như thí dụ tàu biển. Cho nên biết do niệm
xứ đến tu tập đạo phẩm đều gọi là người tu hành sơ quả.
Lại nếu trong một niệm hoặc 15 niệm không được tu tập,
phải biết đó là người xa tu hành Tu-đà-hoàn.
Thành Thật Luận Trang 529 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Ban đầu nói biết sắc này v.v... sắc này sinh v.v…sắc
này diệt v.v…, là đạo sơ quả. Ba dụ sau là dụ 3 quả. Cho nên
không gọi là người tu hành sơ quả ?
Đáp : Nếu trứng không ấp thì hư, ấp thì thành tựu. Như vậy
từ niệm xứ đến mới phát tu tập, nếu không thành không gọi là
hành, mà có thể thành thì học nhân nầy gọi là không hư hoại, có
thể kham nhận. Cho nên nếu trong niệm xứ v.v... hư hoại thì gọi
phàm phu. Nếu tu tập thành thì gọi là người hành sơ quả. Giống
như còn ở trong vỏ trứng, nếu được ra khỏi vỏ gọi là Tu-đà-hoàn.
Cho nên biết còn ở trong niệm xứ v.v... gọi là người đi xa.
Lại như Trưởng giả Úc-già cúng dường chúng Tăng, có
thiên thần giới thiệu : Đây là A-la-hán, cho đến đây là người hành
sơ quả. Nếu còn ở trong kiến đế đạo, làm sao chỉ được như vậy ?
Phải biết đó là người đi xa.
Lại trong kinh Phật nói : Nếu không có tín v.v... 5 căn thì
người nầy gọi là còn ở trong ngoại phàm phu. Nghĩa nầy nói có
nội phàm phu và ngoại phàm phu. Nếu không được đạt phần thiện
căn gọi là ngoại phàm phu, mà được gọi là nội. Nội phàm phu nầy
cũng gọi Thánh nhân, cũng gọi phàm phu. Bởi ngoại phàm phu
nên gọi Thánh nhân, nhờ kiến đế đạo nên gọi phàm phu. Như Anan
bảo Xa-nặc rằng : Phàm phu không thể nghĩ sắc không, vô
ngã thụ tưởng hành thức không, vô ngã, tất cả các hành vô
thường; tất cả pháp vô ngã, Nê-hoàn tịch diệt. Bấy giờ Xa- nặc
chưa vào pháp vị, cũng nói phàm phu không thể nghĩ các pháp đó.
Hỏi : Hoặc gần hoặc xa đều gọi là hành giả, có gì sai khác ?
Đáp : Nếu thấy diệt đế gọi chân hành giả. Nếu còn ở viễn
phần thiện căn thấy 5 ấm vô thường, khổ, không, vô ngã mà chưa
thấy diệt, gọi là danh tự hành giả. Bởi vì sao ? Như trong kinh nói
: Chư Tì-kheo hỏi Phật : Thế nào gọi là thấy pháp ? Phật nói : Do
mắt duyên sắc sinh nhãn thức, tức cùng sinh thụ, tưởng, tư v.v…
tất cả pháp nầy đều vô thường bại hoại không thể tin tưởng bảo
Thành Thật Luận Trang 530 Tuệ Quang Foundation
đảm được. Nếu pháp vô thường tức là khổ. Pháp khổ nầy sinh
cũng khổ, trụ cũng khổ, thường xuyên khỏi tướng cũng khổ. Cho
đến ý pháp cũng như vậy. Nếu khổ đó diệt, các khổ khác không
sinh, không còn nối nhau nữa. Hành giả tâm nghĩ rằng nơi đó là
tịch diệt nhiệm mầu, nghĩa là xả bỏ tất cả hư vọng, diệt hết tham
ái, ly tịch Nê-hoàn.
Nếu trong pháp nầy tâm vào tín giải, không lay không động
không lo không sợ, từ đây trở đi mới gọi là thấy pháp. Cho nên
biết hành giả nếu dùng vô thường v.v... tu quán thấy 5 ấm gọi là
người đi xa, nếu thấy diệt đế gọi là người đi gần. Như Xa-nặc trả
lời các Thượng tọa rằng : Con cũng có thể nghĩ sắc v.v... là vô
thường, mà với tất cả hành diệt hết ái, tâm Nê-hoàn không thể vào
thông đạt tín giải. Nếu biết như vậy không gọi là thấy pháp.
Lại nói, nếu hành giả trong pháp nầy dùng nhuyễn tuệ tín
nhẫn gọi là người tín hành. Vượt khỏi địa vị phàm phu vào chính
pháp vị, không được sơ quả quyết không chết yểu. Nếu dùng lợi
tuệ tín nhẫn gọi là người pháp hành. Thấy pháp đó rồi có thể dứt 3
kết, gọi là Tu-đà-hoàn. Rõ ràng không còn sót lọt gì hết gọi là Ala-
hán. Cho nên biết thấy diệt gọi là người đi gần.
Hỏi : Vì sao hành giả không đều thấy diệt ?
Đáp : Trong kinh nói : Các pháp vô tính, do nhiều nhân
duyên sinh. Pháp đó rất sâu xa, hết tất cả ái, tịch diệt Nê-hoàn, nơi
đó khó thấy được ! Phật quán 12 nhân duyên diệt nên chứng được
Vô thượng đạo.
Lại trong Kinh Pháp Ấn nói : Nếu hành giả quán thấy 5 ấm
vô thường bại hoại hư vọng không bền chắc, cũng gọi là không,
mà gọi là tri kiến chưa tịnh. Kinh nầy sau nói hành giả khởi ý nghĩ
như vầy : Những điều ta thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc và nghĩ,
bởi nhân duyên nầy mà sinh thức, thì nhân duyên thức đó là
thường hay vô thường, tức biết là vô thường. Nếu từ nhân duyên
vô thường mà sinh thức thì làm sao thường được ? Cho nên thấy
Thành Thật Luận Trang 531 Tuệ Quang Foundation
tất cả 5 ấm vô thường do nhiều duyên sinh, tận tướng, ly tướng và
diệt tướng. Bấy giờ tri kiến hành giả mới thanh tịnh. Bởi nói diệt
tận là tri kiến tịnh. Cho nên tri kiến diệt gọi là thấy Thánh đế.
Lại trước là pháp trụ trí, sau là Nê-hoàn-trí. Cho nên thấy
diệt đế, gọi là được Thánh đạo.
Phẩm 190 : Thấy một đế
Hỏi: Ông nói chỉ thấy diệt đế gọi là người hành quả. Việc đó
không đúng. Bởi vì sao ? Trong kinh Phật nói : Ta và các ông
không thể như thật thấy 4 đế, nên ở lâu trong sinh tử. Nay thấy 4
đế nầy dứt nhân duyên thân, hết tướng sinh tử, không có thụ thân
nữa. Phải biết thấy 4 đế nên gọi là người hành quả, không phải chỉ
thấy diệt đế.
Lại nữa, Phật nói : Thượng pháp đó là 4 đế. Cho nên hành
giả cần phải thấy biết hết.
Lại nói : Nếu người mặc pháp phục hủy bỏ hình hảo, chính
tín xuất gia, đều vì mục đích thấy 4 đế. Nếu người muốn được đạo
quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, đều vì thấy 4 đế. Nếu
người được Phật đạo A-la-hán, Bích-chi-phật, là đều đã thấy 4 đế.
Cho nên biết không những chỉ thấy diệt đế.
Lại Phật tự nói : Bốn đế được theo thứ tự.
Lại trong Kinh Chuyển Pháp Luân nói : Ta quán đây là khổ,
đây là nhân khổ, đây là diệt khổ, đây là đạo diệt khổ. Ở trong đó
sinh nhãn trí minh giác. Ba phen chuyển như vậy đều nói 4 đế.
Lại trong kinh nói : Tấm vải mới trắng sạch đem ngâm vào
trong ao hồ tức thì ăn màu. Người nầy cũng vậy tức là một khi
ngồi là thấy 4 chân đế.
Lại nói : Hành giả tịnh tâm chính quán khổ đế cho đến đạo
đế thấy như vậy rồi từ dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, tâm được
giải thoát.
Thành Thật Luận Trang 532 Tuệ Quang Foundation
Lại trong các kinh nói Thánh đế xứ v.v... đều nói 4 đế không
chỉ nói diệt.
Lại Phật nói 4 trí là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí đều vì 4 đế.
Lại pháp của hành giả phải quán thấy cả 4-đế, giống như
thầy thuốc giỏi phải biết bệnh, biết nguyên nhân của bệnh, biết
cách chữa bệnh, và biết thuốc chữa bệnh. Cũng như vậy, hành giả
muốn thoát các khổ, cần phải biết khổ, khổ nhân, diệt khổ, và đạo
diệt khổ. Nếu không biết khổ thì do đâu biết nhân khổ, biết diệt
khổ và đạo diệt khổ. Cho nên biết không chỉ thấy diệt ?
Đáp : Có các thuyết nói 4 Thánh đế lợi, đều nói trong ấm
giới nhập v.v..., nghĩa là biết sắc này v.v..., sắc v.v... sinh diệt cho
nên được hết lậu.
Lại Phật tự nói : Ta đối với trong sắc ấm v.v... không như
thật biết vị, quá, xuất, ly, thì hoàn toàn không tự gọi được đạo Vô
thượng. Nếu biết như thật thì tự biết được đạo.
Lại trong Kinh Thành Dụ nói : Nếu ta chưa biết lão tử, lão tử
sinh, lão tử diệt, và đạo diệt lão tử, cho đến các hành, các hành
sinh, các hành diệt, và đạo diệt các hành, thì không tự nói ta được
đạo Vô thượng. Nếu như thật biết, tự nói ta được thành Phật, thấy
như vậy v.v..., nếu là được thấy đạo, thì 16 thứ tâm không gọi là
được đạo.
Hỏi : Tôi không nói đó gọi là thấy được đạo, mà là lúc suy
nghĩ ?
Đáp : Trong 4 đế cũng nói như vậy. Cũng có thể nói là lúc
suy nghĩ. Nếu không phải như vậy, thì cần phải nói nhân duyên
khi thấy 4 đế gọi được đạo khi thấy 5 ấm v.v... là suy nghĩ.
Hỏi : Trí dứt phiền não gọi là được đạo. Suy nghĩ 5 ấm v.v...
không dứt phiền não ?
Đáp : Trước tôi đã nói 5 ấm v.v... trí cũng dứt phiền não, như
nói thấy biết sắc v.v... nên được hết lậu.
Thành Thật Luận Trang 533 Tuệ Quang Foundation
Lại nói, thấy thế gian nhóm thì diệt chấp không, thấy thế
gian diệt thì diệt chấp có.
Lại Phật tự quán nhân duyên đắc đạo.
Lại trong Kinh Chân-thúc-già nói có nhiều thứ nhân duyên
đắc đạo. Có người quán 5 ấm mà đắc đạo, hoặc quán 12 nhập, 18
giới, 12 nhân duyên v.v... mà đắc đạo. Cho nên biết không phải
chỉ nhờ 4 đế mà được đạo. Nếu ý ông bảo tuy có thuyết đó, nhưng
không bởi quán nầy có thể dứt phiền não, thì cũng có thể nói tuy
quán 4 đế mà không dứt phiền não.
Lại cần phải nhờ chân đế mới đắc đạo, mà lời giải trong 4 đế
nói : sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, oán ghét gặp nhau
khổ, yêu thương xa lìa khổ, và cầu không được khổ. Tóm lại 5 ấm
là khổ.
Lại nói, nhân của khổ là tham ái thường đeo bám theo nơi ưa
thích mà thụ thân. Quán như vậy v.v... không thể hết lậu, vì đó
đều là thế đế chứ không phải đệ nhất nghĩa. Hỏi : Tuy quán sinh
tử v.v... mà không hết lậu. Lược nói 5 ấm đều khổ, trong đó người
có trí có thể phá phiền não ?
Đáp : Còn 3 đế kia thì sao ? Cho nên biết ông tự nhớ tưởng
phân biệt.
Lại quán 5 ấm đều khổ là tâm tán loạn nên không được đạo.
Hỏi : Nếu không dùng 4 đế được đạo thì phải dùng pháp nào
được đạo ?
Đáp: Dùng Một đế được đạo. Đó là Diệt. Như trong kinh nói
: Vọng là hư dối, thật gọi là không điên đảo. Tất cả pháp hữu vi
đều hư dối do vọng chấp lấy. Cho nên biết hành giả tùy tâm ở
trong pháp hữu vi, đều không phải chân thật. Như trong kinh nói :
Các pháp hữu vi hư dối như ảo hóa, như sóng nắng, như chiêm
bao, như vay mượn v.v.... Như trong Kinh Pháp Cú nói :
Hư vọng buộc thế gian.
Giống như có chắc thật.
Thành Thật Luận Trang 534 Tuệ Quang Foundation
Thật không, thấy như có.
Chính quán thì đều không.
Như thật không có pháp nam nữ, chỉ 5 ấm hòa hợp miễn
cưỡng gọi là nam nữ, phàm phu lầm lẫn cho đó là thật có. Hành
giả quán sát 5 ấm đó trống rỗng, không ngã, nên tức thì không còn
thấy. Như trong Kinh Pháp Ấn nói : Hành giả quán sắc vô thường,
là tướng trống, rỗng, lìa. Vô thường là thể tính sắc vô thường.
Trống, rỗng là như trong bình không nước gọi là bình không. Như
vậy trong 5 ấm không có thần ngã, nên gọi là không. Quán như
vậy cũng gọi là không, cũng gọi tri kiến chưa thanh tịnh, vì chưa
thể thấy 5 ấm diệt. Về sau mới thấy diệt, như hành giả khởi ý
nghĩ như vầy : Những gì ta đã thấy nghe v.v.... nên tri kiến diệt thì
hết các phiền não.
Hỏi : Vì sao thấy diệt đế thì hết phiền não mà không phải các
đế khác ?
Đáp : Lúc bấy giờ hành giả đã quyết định tưởng khổ. Nếu
chưa chứng tướng diệt, thì đối với pháp hữu vi tâm khổ chưa
quyết định, như người chưa được hỷ lạc của sơ thiền, thì trong 5
dục không sinh tưởng nhàm chán.
Lại như chưa được định Vô giác quán, đối với định Giác
quán không lấy gì làm lo. Hành giả cũng vậy, khi chưa chứng
tướng Nê-hoàn tịch diệt, không được hành khổ. Phải biết thấy diệt
đế nên tưởng khổ đầy đủ. Tưởng khổ đầy đủ mới dứt được ái
v.v… các kết.
Hỏi : Nếu thấy diệt đế nên tưởng khổ đầy đủ thì lẽ ra thấy
diệt đế rồi sau mới dứt phiền não. Bởi vì sao ? Vì thấy diệt đế rồi
tưởng khổ mới đủ ?
Đáp : Không phải dứt sau. Tùy ở trong diệt, được tướng tịch
diệt tức thì tưởng khổ đầy đủ, sau sẽ hiện tiền. Như trong kinh nói
: Hành giả đối với tập sinh tướng, pháp trí tận diệt tướng, ngay
trong pháp đó được pháp nhãn thanh tịnh.
Thành Thật Luận Trang 535 Tuệ Quang Foundation
Lại người đối với các ấm thường có ngã tâm. Tuy quán các
ấm vô thường, khổ v.v..., nhưng chưa được diệt vĩnh viễn. Nếu
thấy diệt đế, nhờ vô tướng nên ngã tâm diệt vĩnh viễn.
Hỏi : Nếu thấy diệt đế thì hết ngã tâm. Vì sao Phật quán
người đối cơ tâm nhu nhuyến v.v... mới vì nói 4 đế mà không chỉ
nói diệt ?
Đáp : Trong đó có thuận đạo hành. Người nào dùng tưởng vô
thường, tưởng vô ngã đầy đủ nên được khổ quán nầy là người gần
đạo. Cho nên hợp lại mà nói.
Hỏi : Nếu khi đắc đạo dứt thân kiến, thì sao lại còn nói giới
lấy và nghi nữa ư ?
Đáp : Hành giả đắc đạo hiện thấy các pháp đều không, vô
ngã, tức không còn nghi, không còn nghe, nghĩ, quán v.v... đồng
với phàm phu. Nếu thấy đạo đế thì biết chỉ có đó là một sự thật,
không còn con đường nào khác. Cho nên nói ba.
Hỏi : Nếu khi đắc đạo thấy đế dứt hết các phiền não, mà vì
sao chỉ nói hết 3 kết ư ?
Đáp : Tất cả phiền não đều lấy thân kiến làm gốc. Như Phật
hỏi Tì-kheo : Con người do việc gì, bởi việc gì, thấy việc gì, sinh
kiến chấp như vầy : Chỉ có thân nầy chết là mất hẳn, có tất cả
những kiến chấp như vậy v.v...? Tì-kheo thưa Phật : Phật là Pháp
vương, cúi xin giải thích. Phật nói : Con người do sắc, bởi sắc,
thấy sắc là ngã, nên mới khởi kiến chấp đó. Cho đến thức cũng
như vậy. Phải biết bởi kiến chấp ngã mà khởi các phiền não. Bởi
vì sao ? Vì nếu có thân kiến thì cho rằng cái ngã này là hoặc
thường, hoặc vô thường. Nếu định kiến là thường thì đó là thường
kiến, định kiến là vô thường thì đó là đoạn kiến. Nếu ngã là
thường thì không nghiệp, không báo, không giải thoát khổ. Nếu
ngã là vô thường cũng không nghiệp, không báo và không giải
thoát khổ, không do tu đạo mà được Nê-hoàn. Nếu cho kiến chấp
đó là hơn, tức là kiến thủ, và cho là có thể được độ tức là giới lấy.
Thành Thật Luận Trang 536 Tuệ Quang Foundation
Tự yêu kiến chấp của mình, giận ghét kiến chấp người khác, lấy
kiến chấp đó làm tự cao tức là kiêu mạn. Đều bởi không biết như
thật, nên mới khởi kết nầy tức là vô minh. Cho nên dứt thân kiến
mới dứt kết của kiến đế.
Hỏi : Nếu dứt thân kiến các thứ khác cũng dứt theo, thì cần
gì nói riêng giới lấy và nghi ư ?
Đáp : Vì nó hơn. Hành giả hiện thấy pháp tướng thì không có
nghi. Nghi này là nghi ngã có hay không. Cũng nghi đạo nầy có
được thanh tịnh chăng. Nay thấy khổ đế thì dứt ngã kiến. Cũng
biết chỉ một con đường mà không có con đường nào khác. Cho
nên nói dứt thân kiến là chân thật thấy khổ, dứt giới lấy nên gọi là
con đường tu hành. Không ngăn ngại đối với pháp tri và sở tri.
Dùng chính trí biết pháp sở tri, tức dứt tập, chứng diệt gọi là đủ 4
đế. Cho nên nói 3 pháp này để làm rõ tướng không nghi. Nghi này
do ngã đạo sinh, như trong kinh nói : Đầu tiên được tướng đạo.
Nghĩa là thấy pháp, được pháp, biết pháp, đạt pháp, vượt quá các
lưới nghi, không theo ai chỉ bày, ở trong Phật pháp được sức vô
úy an trụ trong chính quả.
Phẩm 191 : Duyên tất cả
Hỏi : Trí nào có thể duyên tất cả ?
Đáp : Nếu trí hành giới, nhập v.v... gọi là duyên tất cả. Bởi vì
sao ? Vì như nói pháp các nhập các giới, sự vật có các duyên các
trần có thể nhận biết v.v..., đều gồm hết các pháp, nếu trí có thể
duyên gọi là duyên tất cả.
Hỏi : Trí nầy không biết các pháp tương ưng cọng sinh ?
Đáp : Có thể biết, nếu duyên nhập v.v..., đó gọi là trí tổng
tướng. Vì trí tổng tướng nên có thể duyên tất cả. Bởi vì sao ? Vì
như nói 12 nhập thì không còn thừa pháp nào nữa. Cho nên biết
trí nầy cũng duyên tự thể.
Thành Thật Luận Trang 537 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong kinh nói : Hai nhân duyên sinh thức. Cho nên
không có trí tự duyên.
Lại các trí không có nhân duyên, ví dụ để chỉ nghĩa có thể
duyên tự thể, như đầu ngón tay không thể tự chạm xúc, con mắt
không thể tự thấy được ?
Đáp : Ông nói 2 nhân duyên sinh thức. Điều này không nhất
định. Cũng có không duyên sinh trí, chứ không phải tất cả đều do
2 nhân duyên sinh.
Lại thức thứ 6 ở trong ấm của chính nó đều không có cảnh
duyên, vì không có hiện pháp nên thức nầy không thể duyên pháp
sắc v.v.... Nếu có thể duyên, thì những người mù lẽ ra cũng phải
thấy sắc ? Bấy giờ tâm và tâm số pháp của người nầy còn ở trong
quá khứ, vị lai, mà quá khứ, vị lai là không có pháp thì lấy gì làm
cảnh duyên ? Chỉ vì ngăn chấp thần ngã nên nói như vậy thôi.
Nếu các thức sinh đều do 2 thứ này không phải 4 nhân duyên,
hoặc có thức sinh không có 2 nhân duyên, như trong kinh nói :
Sáu nhập làm nhân duyên xúc, mà thật không có xúc bởi 6 nhập là
nhân duyên. Nếu sinh thì không xuất nơi 6 nhập vì ngăn pháp
nhập thứ bảy. Như vậy ngăn 4 nhân duyên nên Phật nói hai.
Lại đối với quá khứ, vị lai, hư không, thời gian, phương
hướng v.v... sinh biết, mà những pháp đó thật sự không có. Đó tức
là không duyên mà biết.
Hỏi : Nếu như vậy thì do nhân duyên đó, các pháp quá khứ
vị lai lẽ ra phải có, vì nếu không, làm sao sinh cái biết ? Với
những sừng thỏ, lông rùa, chân rắn v.v... hoàn toàn không sinh cái
biết ?
Đáp : Trong tạo tác sinh cái biết. Như thấy người đi là nhớ
khi đi, nghe người nói là nhớ khi nói. Như vậy v.v... trong quá
khứ không tạo tác, cho nên không đúng.
Hỏi : Nay đối với quá khứ là nhớ thứ gì ?
Thành Thật Luận Trang 538 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nhớ pháp vô sở hữu. Ông nói sao không nhớ sừng thỏ
v.v.... Nếu pháp sinh rồi mà diệt là có thể nhớ được. Nếu xưa nay
không có, thì nhớ cái gì ? Như pháp trước kia gọi chúng sinh, nay
tuy đã là quá khứ nhưng cũng gọi chúng sinh. Như vậy trước kia,
với pháp nầy sinh nhớ, cho nên nay ngay tâm này nhớ lại, không
phải tâm khác.
Lại người nầy trước lấy tướng pháp đó, pháp đó nay tuy đã
diệt mà có thể sinh pháp nhớ tưỏng phân biệt. Nếu pháp sinh ở
tâm đó nơi người này, pháp nầy diệt mất sau ý thức sinh, có thể
biết việc đó gọi là tướng duyên thức.
Lại tướng nầy có thể làm nhân duyên cho tướng duyên thức
sau, chứ biết sừng thỏ v.v... không tướng làm nhân, cho nên
không sinh.
Lại cũng nên có biết duyên sừng thỏ v.v..., nếu không làm
sao có thể nói ra được.
Hỏi : Sừng thỏ v.v... tính không thể biết. Bởi vì sao ? Vì
hoàn toàn không sinh các ý nghĩ dài ngắn đen trắng v.v..., cho nên
pháp quá khứ cũng như vậy. Bởi vì sao ? Vì chúng ta không thể
dùng pháp quá khứ khiến được hiện tiền, như Thánh nhân biết
việc tương lai nói việc này sẽ như vậy, việc kia sẽ không như vậy
?
Đáp : Trí lực Thánh nhân là vậy, pháp tuy chưa có mà có thể
dự biết. Như Thánh nhân có thể phá vách đá ra vào không ngại.
Điều này cũng vậy, không mà có thể biết.
Lại vì sức nhớ nên biết. Như nhãn thức không thể phân biệt
nam nữ. Nếu nhãn thức không có thể, thì lẽ ra ý thức cũng không
có thể, mà ý thức thật có thể. Điều này cũng vậy.
Lại như chúng ta với việc trước từng dùng đã diệt rồi mới
sinh biết. Thánh nhân cũng vậy, với pháp không có mà có thể sinh
biết.
Thành Thật Luận Trang 539 Tuệ Quang Foundation
Lại như nói Đề-bà-đạt-đa không có một thức có thể biết 4
chữ, mà cũng có thể biết. Điều này cũng vậy.
Lại như các số lượng sai khác hợp ly đây kia v.v..., trong đó
tuy không hiện pháp cũng có thể sinh biết.
Lại như thân người không thể dùng một niệm mà biết khắp,
cũng không thể dùng phân tách từng phần mà hiểu biết. Tuy phân
tách từng phần không biết, một niệm không biết mà cũng sinh biết
người. Điều này cũng vậy.
Ông nói không có nhân duyên thí dụ có thể biết tự thể. Trong
đó có nói ý có thể tự biết, nói hành giả tùy tâm quán mà quá khứ
vị lai không có tâm. Cho nên biết dùng tâm hiện tại duyên tâm
hiện tại. Nếu không vậy thì hoàn toàn không có người có thể biết
pháp hiện tại tâm tương ưng.
Hỏi : Trong kinh nói : Nếu có thể đem tuệ quán tất cả pháp
vô ngã tức được chán lìa khổ, đạo này là thanh tịnh. Trí tuệ này
trừ tự thể và pháp cọng sinh ngoài ra tất cả duyên pháp ?
Đáp : Trí này chỉ duyên hữu lậu không phải vô lậu. Bởi vì
sao ? Vì trong kệ nói : Tức chán lìa khổ. Cho nên biết chỉ duyên
khổ đế.
Lại vì phá ngã kiến, tu vô ngã trí. Ngã kiến duyên 5 thứ thụ
ấm, phải biết vô ngã cũng là duyên thụ ấm. Năm thụ ấm này vô
thường cho nên vô ngã. Như trong kinh nói : Nếu vô thường tức
vô ngã. Nếu vô ngã tức là khổ.
Lại Phật bảo Tì-kheo : Dứt không phải pháp sở hữu của ông.
Tì-kheo nói : Được rồi, thưa Thế Tôn ! Phật hỏi : Ông được như
thế nào ? Bạch Thế Tôn ! Sắc là phi ngã sở, thụ, tưởng, hành,
thức, cũng đều phi ngã sở. Phật khen : Hay thay! Hay thay! Phải
biết chỉ trong thụ ấm sinh tâm vô ngã.
Lại trong kinh nói : Các sở hữu sắc hoặc quá khứ vị lai, nội
ngoại thô tế, gần xa lớn nhỏ, đều nên biết phi ngã phi ngã sở. Như
vậy lấy chính tuệ mà quán như thật.
Thành Thật Luận Trang 540 Tuệ Quang Foundation
Lại nói : Quán sắc vô ngã, thụ, tưởng, hành, thức vô ngã.
Quán sắc vô thường, hư vọng, như trò ảo hóa, gạt người không có
mắt trí, là oán, là giặc, không ngã, không ngã sở.
Lại Phật nói : Ngồi ở đây, có người ngu si còn ở trong vỏ vô
minh, bị vô minh làm mù quáng, lìa bỏ Phật pháp mà sinh tà kiến
này. Nếu sắc vô ngã, thụ, tưởng, hành, thức đều vô ngã, thì làm
sao vô ngã khởi nghiệp mà đem ngã ra chịu ? Cho nên biết vô ngã
chỉ duyên thụ ấm.
Lại trong kinh không chỗ nào nói trí vô ngã duyên tất cả
pháp, mà chỗ chỗ đều nói duyên 5 thứ thụ ấm.
Hỏi : Phật tự nói : Tất cả pháp vô ngã. Cho nên biết hữu vi
vô vi trí này đều duyên, chứ không phải chỉ duyên 5 thụ ấm.
Lại nói : Có 10 thứ không, duyên tất cả pháp. Không tức là
vô ngã.
Lại nói : Các hành vô thường, khổ, tất cả pháp vô ngã. Nếu
trí vô ngã chỉ duyên khổ đế, vì sao không nói các hành vô ngã ?
Vì nói tất cả pháp vô ngã nên phải biết rằng nếu nói hành là nói
hữu vi; nếu nói pháp tức gồm chung tất cả.
Lại nói : Người nào đối với pháp một tướng và pháp khác
tướng, trí tuệ hiện tại tiền như mắt sáng thấy sắc ? Chỉ chư Phật
Thế Tôn chính trí được giải thoát mới có thể đối với pháp một
tướng và pháp khác tướng, trí tuệ hiện tại tiền như người sáng mắt
thấy sắc. Vì tưởng vô ngã nên các pháp một tướng. Cho nên biết
vô ngã duyên tất cả pháp không phải chỉ duyên khổ ?
Đáp : Nói tất cả, là có 2 thứ : một là thâu nhiếp tất cả, hai là
thâu nhiếp một phần. Thâu nhiếp tất cả là như Phật nói : Ta là
người Nhất thiết trí. Nói tất cả, gọi là 12 nhập. Thâu nhiếp một
phần là như nói tất cả là vậy, mà vô lậu vô vi không thể được vậy.
Lại trong Phẩm Như Lai nói Như Lai là người bỏ tất cả, là
người hơn tất cả. Nói thế nhưng không thể bỏ pháp trì giới v.v...,
Thành Thật Luận Trang 541 Tuệ Quang Foundation
mà chỉ bỏ pháp ác nên nói bỏ tất cả. Cũng như không thể hơn các
Phật khác, mà chỉ hơn các chúng sinh nói hơn tất cả.
Lại nói : Tì-kheo như thế nào gọi là Nhất thiết trí ?
Đáp : Nghĩa là như thật biết 6 thứ xúc nhập sinh diệt. Đó gọi
là biết tướng chung tất cả pháp, không phải trí tướng riêng. Với
Phật chung riêng đều biết hết, nên gọi là bậc Nhất thiết trí. Tìkheo
đó đã biết chung các pháp vô thường v.v... nên gọi Nhất
thiết trí. Tên tuy đồng, mà kỳ thật có khác, đó gọi là thâu nhiếp
một phần.
Lại Phật nói : Nếu pháp đã hội nhập vào Tu-đa-la, tùy thuận
Tì-ni, không trái pháp tướng, thì pháp đó nên lãnh thụ.
Lại nói : Nếu ai nói đây là lời Phật nói, người đó lời đúng mà
nghĩa sai. Người trí trong đó phải nói nghĩa đúng. Rồi bảo Tìkheo
nầy rằng lời đó nên tương xứng với nghĩa nào ?
Lại có người nói nghĩa đúng mà lời sai. Là trong nghĩa đúng
nầy nên để riêng lời nói đúng. Những kinh như vậy, Phật đều cho
phép.
Lại có kinh liễu nghĩa và không liễu nghĩa. Nghĩa là rốt ráo
và không rốt ráo. Kinh nầy thuộc nghĩa không rốt ráo. Vì sao đối
với một việc mà nói tên tất cả ? Phải biết ý đó.
Lại người đời trong một việc cũng nói tất cả, như nói vì cúng
tất cả, cho ăn tất cả, cũng nói người nầy tất cả đều ăn. Cho nên
biết tuy nói tất cả vô ngã nhưng phải biết chỉ vì 5 thụ ấm mà nói,
chứ không phải vì tất cả pháp. Ông nói 10 thứ không, trong đó
không được có Vô vi không. Bởi vì sao ? Vì không ai trong vô vi
mà sinh tưởng ngã. Cho nên dù có còn các không khác đi nữa
cũng chẳng hại gì, vì ông cũng dùng khổ trí cùng tương ưng với
không. Cho nên không, chẳng phải duyên tất cả pháp.
Hỏi : Thế gian không, duyên tất cả pháp, chẳng phải vô lậu
không ?
Đáp : Không có thế gian không. Tất cả không đều là vô lậu.
Thành Thật Luận Trang 542 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Trong Kinh Pháp Ấn nói không là thế gian không ?
Đáp : Đó là xuất thế gian không, chứ chẳng phải thế gian
không.
Lại hỏi : Trong đó nói tri kiến chưa tịnh, cho nên biết là thế
gian không ?
Đáp : Tôi trước đã nói tâm vô lậu có thể phá giả danh. Cho
nên từ khi phá giả danh trở đi gọi là tâm vô lậu. Sau thấy diệt đế,
lìa tăng thượng mạn, mới gọi là tri kiến tịnh. Cho nên không có
thế gian không.
Ông nói tất cả hành vô thường, tất cả pháp vô ngã. Như vậy
phải có hành giả đầy đủ tưởng vô ngã. Khi pháp tướng đầy đủ thì
đối với vô ngã nói pháp danh tự. Như trong Phẩm Kiến đế nói :
Nếu ai không thấy khổ, đó tức là thấy ngã. Khổ như thật thấy khổ,
tức không còn thấy ngã. Như thật, nghĩa là thấy vô ngã. Cho nên
nói tất cả pháp vô ngã, chỉ duyên khổ đế nói vô ngã hành.
Ông nói Phật hiện tiền thấy tướng một, tướng khác. Đó cũng
nên có, vì lấy giới, nhập, v.v... làm một, cho nên nói một tướng
đâu có lỗi gì ?
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 16 )
Ha-lê-bạt-ma tạo luận
Cưu-ma-la-thập dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
Phẩm 192 : Thánh hành
Có 2 hành là không hành và vô ngã hành. Trong 5 ấm không
thấy chúng sinh gọi là không hành. Thấy 5 ấm cũng không có, là
vô ngã hành. Vì sao biết được ? Trong kinh nói : Thấy sắc không
thể tính, thấy thụ, tưởng, hành, thức là không thể tính.
Thành Thật Luận Trang 543 Tuệ Quang Foundation
Lại trong kinh nói : Do vô tính được giải thoát. Cho nên biết
tính của sắc không phải chân thật có. Tính của thụ, tưởng, hành,
thức cũng không phải chân thật có.
Lại trong kinh nói : Năm ấm đều trống không như huyễn,
không thể nói huyễn là chân thật. Huyễn, nếu chân thật có, không
gọi là huyễn, nhưng cũng không thể nói không, mà chỉ vì không
thật, có thể làm dối gạt.
Lại hành giả nầy quán tất cả trống không, cho nên biết 5 ấm
không phải chân thật có, như phá một tướng nên không thấy cái
vách tường v.v... một pháp, 5 ấm cũng vậy, không có một thật
pháp.
Hỏi : Nếu sắc v.v... pháp cũng không chân thật, nay nên chỉ
có một thế đế ?
Đáp : Diệt là đệ nhất nghĩa đế cho nên có. Như trong kinh
nói : Vọng là hư dối, đế là như thật. Diệt tức là như thật quyết
định, nên gọi đệ nhất nghĩa có.
Lại hành giả sinh chân thật trí, tất cả hữu vi v.v... đều luống
không, cho nên biết diệt là đệ nhất nghĩa có.
Hỏi : Ông nói thấy trong 5 ấm không có chúng sinh. Do đâu
mà 5 ấm gọi chúng sinh, là hữu lậu hay vô lậu ?
Đáp : Cũng hữu lậu mà cũng vô lậu.
Hỏi : Trong kinh nói : Nếu thấy chúng sinh đều là thấy 5 thụ
ấm ?
Đáp : Pháp vô lậu cũng ở trong số chúng sinh, chứ không
phải ở trong số phi chúng sinh như gỗ đá v.v.... Cho nên biết cũng
nhân các ấm vô lậu gọi là chúng sinh.
Lại nếu Thánh nhân ở tâm vô lậu, bấy giờ cũng gọi hữu tâm
chúng sinh. Cho nên tâm vô lậu cũng gọi chúng sinh. Tất cả các
ấm đều gọi thụ ấm, vì đều từ thụ sinh ra.
Hỏi : Làm sao biết từ thụ sinh ?
Thành Thật Luận Trang 544 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Pháp vô lậu đều từ bố thí, trì giới tu định v.v... trong
nghiệp tâm sinh, nếu không thì không sinh. Như kinh nói : Vì bị
vô minh che khuất và kết ái trói buộc, nên kẻ ngu được thân nầy
mà người trí cũng như vậy. Thân tức thụ ấm.
Hỏi : Nếu tất cả ấm đều gọi thụ ấm, thì hữu lậu và vô lậu ấm
đâu có sai khác ?
Đáp : Tất cả ấm từ thụ mà sinh nên gọi thụ ấm. Nhưng không
thụ thân đời sau nên gọi là vô lậu, sai khác là ở đó. Ấm và thụ ấm
đều từ thụ sinh, nên gọi thụ ấm. Cho nên không mâu thuẫn kinh
nầy. Hai hành nầy đều duyên vô sở hữu. Nếu sắc v.v... pháp
không, và thể tính diệt, đều là vô sở hữu.
Hỏi : Hai hành nầy đều duyên 5 ấm. Trong kinh nói : Thấy
sắc trống không vô ngã thấy thụ, tưởng, hành, thức trống không
vô ngã. Thì sao ?
Đáp : Do các ấm mới thấy trống không vô ngã. Bởi vì sao ?
Vì với các nhân duyên sinh mới có thấy chúng sinh không, cũng
thấy sắc v.v... pháp diệt.
Hỏi : Đó là đều duyên. Nếu hành giả nghĩ các ấm và không,
tức là duyên ấm và vô sở hữu ?
Đáp : Hành giả trong các nhân duyên sinh, không thấy chúng
sinh, nên liền sinh không tâm, rồi sau mới thấy trống không.
Lại trong 5 ấm diệt, không thấy thể tính của sắc, thể tính của
thụ, tưởng, hành, thức, cho nên mới biết 2 hành nầy đều duyên vô
sở hữu.
Phẩm 193 : Kiến trí
Hỏi : Chính kiến chính trí có gì sai khác ?
Đáp : Là một thể không có gì sai khác. Chính kiến có 2 thứ,
thế gian và xuất thế gian. Thế gian nghĩa là có tội phúc v.v…
Xuất thế gian nghĩa là có thể thông suốt khổ v.v… các đế. Chính
trí cũng vậy.
Thành Thật Luận Trang 545 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Ông nói tướng kiến trí không như vậy. Bởi vì sao ? Các
nhẫn chỉ là kiến không phải trí. Tận trí, vô sinh trí, và 5 thức
tương ưng tuệ chỉ là trí không phải kiến ?
Đáp : Tại sao các nhẫn không phải trí ?
Hỏi : Bởi vì chưa biết muốn biết, cho nên gọi là vị tri căn.
Nếu khổ pháp nhẫn là trí, khổ pháp nhẫn biết rồi thì khổ pháp trí
phải gọi là tri căn, chứ không gọi là vị tri căn. Cho nên nhẫn
chẳng phải là trí.
Lại trong kinh nói : Nếu hành giả đối với các pháp này ít có
khả năng dùng tuệ quán nhẫn, gọi là chưa xong, xong rồi gọi là
trí. Nếu nhẫn gọi là quán chưa xong, lại tuệ vô lậu ban đầu mới
thấy gọi là nhẫn, không nên lấy cái mới thấy làm trí.
Lại khi nhẫn không rõ. Khi có trí mới rõ chắc.
Lại khi sinh nhẫn, tâm nghi còn bám theo, cho nên nhẫn
không phải trí.
Đáp : Nhẫn tức là trí. Bởi vì sao ? Vì dục, lạc, nhẫn đều là
một nghĩa. Hành giả trước biết khổ rồi, sau nhẫn vui. Nếu trước
không biết, làm sao nhẫn vui được ?
Lại trong lời nói thiếu, chỉ nói quán nhẫn mà không nói trí.
Vậy thì người thụ hành quả phải là vô trí ? Nếu ý ông bảo hành
giả có trí mà gọi là nhẫn, thì đây lẽ ra thụ nhẫn cũng là trí.
Lại trong kinh nói : Hành giả khi biết khi thấy liền được hết
lậu.
Lại nói : Biết, thấy, được, là một nghĩa.
Lại Phật nói khổ trí, tập, diệt, đạo trí mà không nói có nhẫn.
Cho nên biết trí tức là nhẫn.
Lại trong giải nghĩa trí, Phật nói : Như thật biết nên gọi là trí.
Nhẫn cũng như thật biết nên không có khác. Nếu ông cho vị tri
căn nên gọi là nhẫn, điều này không đúng. Chúng tôi không nói
trước nhẫn sau trí. Trong một tâm tức gọi nhẫn trí. Nghĩa đó
Thành Thật Luận Trang 546 Tuệ Quang Foundation
không thành, làm sao ông đem cái không thành mà thành lập được
?
Ông nói nhẫn gọi là chưa xong. Trước tôi đã đáp. Nghĩa là
trước biết sau nhẫn. Phải biết nhẫn tức là xong. Nếu không biết
xong làm sao có thể nhẫn ?
Ông nói khi nhẫn chưa quyết định rõ ràng. Trong pháp ông
dùng nhẫn dứt kết. Nếu nhẫn không quyết định rõ ràng sao có thể
dứt kết được ?
Ông nói khi nhẫn nghi ngờ còn bám theo. Nếu vậy thì trong
kiến đế đạo đều có nghi bám theo ? Trong đó trí sinh lẽ ra đều
không phải trí ?
Lại không có phân biệt là nhẫn là trí. Như người đời quán tùy
thuận 4 đế cũng gọi là nhẫn cũng gọi là trí. Vô lậu nhẫn trí cũng
phải như vậy.
Hỏi : Tận trí, vô sinh trí, chỉ là trí, chẳng phải kiến ?
Đáp : Có nhân duyên gì ?
Hỏi : Trong kinh riêng nói chính kiến, chính trí, cho nên trí
chẳng phải kiến ?
Đáp : Nếu vậy thì chính kiến không gọi là chính trí. Nếu ông
bảo chính kiến là chính trí, thì chính trí cũng phải là chính kiến.
Lại 5 phần pháp thân, từ trong Phẩm Tuệ riêng nói giải thoát
tri kiến lẽ nào không phải tuệ ? Vậy thì tận trí, vô sinh trí cũng
không là tuệ. Nay tức chính kiến, vì tướng khác nên nói là chính
trí, nghĩa là hết tất cả phiền não, trong tâm A-la-hán mà sinh nên
nói là chính trí.
Hỏi : Nếu chính trí tức là chính kiến thì A-la-hán không gọi
thập phần thành tựu ?
Đáp : Thể là một mà tên là khác, như pháp trí, khổ trí.
Lại nói A-la-hán là thành tựu 8 công đức phúc điền. Cho nên
chính trí tức là chính kiến.
Thành Thật Luận Trang 547 Tuệ Quang Foundation
Lại trong 6 pháp hòa kính, hòa kính thứ 6 gọi là đồng kiến.
Nếu như ông nói thì tận vô sinh trí không gọi là hòa kính.
Lại chính quán nên gọi chính kiến. Tận vô sinh trí bởi chính
quán nên cũng gọi chính kiến.
Hỏi : Năm thức tương ưng tuệ chỉ là trí chẳng phải kiến ?
Đáp : Tại sao chẳng phải kiến ?
Hỏi : Năm thức đều không có phân biệt, vì ban đầu tại cảnh
duyên nên kiến đó gọi là suy nghĩ quan sát.
Lại 5 thức chỉ duyên hiện tại. Cho nên chẳng phải kiến ?
Đáp : Trong đó không giác quán nên không thể phân biệt.
Nếu nói ban đầu tại cảnh duyên nên chẳng phải kiến, điều này
không đúng. Bởi vì sao ? Vì theo pháp của ông, nhãn thức có
duyên tương tục như ý thức, cho nên không nên nói ban đầu tại
duyên. Nếu vậy ý thức cũng không nên có kiến.
Lại ông nói duyên hiện tại nên chẳng phải kiến. Điều đó
cũng không đúng. Vì tha tâm trí cũng duyên hiện tại, thì lẽ ra
cũng chẳng phải kiến ? Trong 5 thức không chân thật trí, vì không
hành cho nên cũng thường theo giả danh, nên kiến trí tuệ v.v... tất
cả đều không có, huống chỉ là không có kiến.
Hỏi : Có người nói nhãn căn gọi là kiến. Việc đó thế nào ?
Đáp : Nhãn căn không thấy, nhãn thức có thể duyên, tùy
theo thế tục nên gọi mắt thấy.
Hỏi : Có người nói 8 thứ kiến là 5 tà kiến, thế gian chính
kiến, học kiến và vô học kiến. Trừ 8 kiến đó, ngoài ra bao nhiêu
tuệ không gọi là kiến. Điều này thế nào ?
Đáp : Nếu kiến, trí, đắc, giải, liễu, thông và chứng đều là một
nghĩa, nếu nói đây là kiến đây là chẳng phải kiến đều là tự nhớ
tưởng phân biệt mà nói.
Hỏi : Trong kinh nói biết, thấy thì được hết lậu, có gì sai
khác ?
Thành Thật Luận Trang 548 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Nếu trí mới phá giả danh gọi là biết, vào pháp vị rồi thì
gọi là thấy. Mới quán gọi là biết, thông đạt rồi gọi là thấy. Có
những pháp sâu cạn sai khác như vậy.
Phẩm 194 : Ba tuệ
Ba tuệ là văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Trí tuệ do từ trong 12 bộ
Tu-đa-la phát sinh gọi là văn tuệ. Nhờ đó có thể sinh Thánh tuệ
vô lậu nên gọi là tuệ. Như trong kinh nói : Tì-kheo La-hầu-la nay
có thể được thành tựu tuệ giải thoát. Tuy nghe Vi-đà v.v... các
kinh điển thế tục mà không thể sinh tuệ vô lậu nên không gọi là
văn tuệ. Nếu có thể tư duy suy lường nghĩa lý trong các kinh gọi
là tư tuệ. Như nói hành giả nghe pháp tư duy nghĩa lý. Lại nói
hành giả nghe pháp tư duy nghĩa lý rồi phải tùy thuận tu hành, nếu
có thể được tri kiến hiện tiền gọi là tu tuệ. Như nói hành giả ở
trong định tâm thấy 5 ấm sinh diệt. Như trong các kinh nói : Tìkheo
các ông ! Tu tập thiền định sẽ được như thật tri kiến hiện
tiền.
Lại trong Kinh Thất Chính Trí nói : Nếu Tì-kheo biết pháp
gọi là văn tuệ, biết nghĩa gọi là tư tuệ, biết thì giờ v.v... gọi là tu
tuệ.
Lại như La-hầu-la đọc tụng bộ Ngũ Thụ Ấm v.v… gọi là văn
tuệ, riêng một mình suy nghĩ nghĩa lý gọi là tư tuệ, sau khi đắc
đạo gọi là tu tuệ.
Lại trong kinh nói 3 thứ vũ khí : vũ khí của sự nghe học hỏi,
vũ khí của sự lìa bỏ và vũ khí của trí tuệ.
Vũ khí của sự nghe gọi là văn tuệ, vũ khí của sự lìa bỏ gọi là
tư tuệ, vũ khí của trí tuệ gọi là tu tuệ.
Lại trong kinh nói nghe pháp có 5 điều lợi : chưa nghe thì
nghe, nghe rồi rõ ràng, dứt nghi chính kiến, dùng tuệ thông suốt
nghĩa lý thâm sâu. Chưa nghe thì nghe, nghe rồi rõ ràng gọi là văn
Thành Thật Luận Trang 549 Tuệ Quang Foundation
tuệ, dứt nghi chính kiến gọi là tư tuệ, dùng tuệ thông suốt nghĩa lý
thâm sâu gọi là tu tuệ.
Lại trong Lợi ích của sự nghe pháp có nói : Hành giả đem tai
nghe pháp, đem miệng tụng tập gọi là văn tuệ, dùng ý nghĩ tư duy
suy lường gọi là tư tuệ, lấy chỗ thấy thông suốt gọi là tu tuệ.
Lại trong 4 phần Tu-đà-hoàn thì nghe chính pháp gọi là văn
tuệ, nhớ nghĩa lý đúng đắn gọi là tư tuệ, theo pháp tu hành gọi là
tu tuệ.
Lại trong 5 pháp môn giải thoát thì theo người Tôn trưởng
nghe pháp là văn tuệ, thông suốt ngữ nghĩa là tư tuệ, sinh hoan hỷ
v.v... là tu tuệ.
Lại trong kinh nói : Pháp Phật nói có 3 thời thiện v.v....
Thiện nam tử ! Nếu có người lớn hoặc người nhỏ nghe pháp nảy
sinh ý nghĩ : Tại gia ồn ào, xuất gia vắng lặng, nếu không xuất gia
không thể tịnh tu thiện pháp. Rồi bỏ sở hữu thân thuộc tài vật,
xuất gia trì giới giữ hộ các căn, quán sát oai nghi, một mình suy
nghĩ, xa lìa 5 thứ ngăn che, chứng được sơ thiền v.v..., cho đến
hết lậu. Trong đó người lớn người nhỏ nghe pháp là văn tuệ, suy
nghĩ tại gia ồn ào, xuất gia vắng lặng là tư tuệ, xa lìa 5 thứ ngăn
che cho đến hết lậu là tu tuệ.
Lại trong kinh nói : Nhờ 2 nhân duyên có thể sinh chính kiến
là theo người nghe pháp và tự chính nghĩ nhớ. Theo người nghe
pháp là văn tuệ, tự chính nghĩ nhớ là tư tuệ, có thể sinh chính kiến
là tu tuệ.
Lại có bài kệ nói :
Tập gần người thiện,
Nghe thụ chính pháp,
Thích ở một mình,
Điều phục tự tâm.
Trong đó tập gần người thiện, nghe thụ chính pháp là văn
tuệ, thích ở một mình là tư tuệ, điều phục tự tâm là tu tuệ.
Thành Thật Luận Trang 550 Tuệ Quang Foundation
Lại Phật dạy các Tì-kheo : Các ông ! Mỗi khi có nói phải nói
4 đế. Mỗi khi suy nghĩ phải nghĩ 4 đế. Trong đây nếu nói 4 đế là
văn tuệ, suy nghĩ 4 đế là tư tuệ, được 4 đế là tu tuệ. Nhiều chỗ
trong kinh Phật nói 3 thứ tuệ đó.
Hỏi : Ba tuệ nầy bao nhiêu ở cõi Dục, bao nhiêu ở cõi Sắc và
bao nhiêu ở cõi Vô sắc ?
Đáp : Hai cõi Dục, Sắc, có tất cả. Như ông Lấy cư sĩ sinh về
cõi trời Vô Nhiệt, nói pháp ở đó. Nếu người nói pháp ắt phải tư
duy nghĩa lý. Cho nên biết cõi Sắc cũng có tư tuệ. Trong cõi Vô
sắc chỉ có tu tuệ.
Hỏi : Có người nói cõi Dục không có tu tuệ, cõi Sắc không
có tư tuệ. Điều này thế nào ?
Đáp : Vì nhân duyên gì nói cõi Dục không có tu tuệ ?
Hỏi : Vì ở cõi Dục không thể dứt các ngăn che các trói buộc,
khiến các thứ trói buộc cõi Dục không hiện ra trước.
Đáp : Trong Phật pháp không có lời nói nầy : Vì ở cõi Dục
không thể dứt các ngăn che các trói buộc, khiến các trói buộc cõi
Dục không hiện ra trước. Mà nói vì ở cõi Dục có thể phá phiền
não. Bởi vì sao ? Vì cõi Dục có bất tịnh quán v.v.... Như trong
kinh nói : Khéo tu bất tịnh quán có thể phá tham dục. Tâm từ
v.v... cũng như vậy.
Hỏi : Quán bất tịnh ở cõi Dục nầy không thể dứt phiền não
vĩnh viễn ?
Đáp : Quán bất tịnh v.v... ở cõi Sắc cũng không thể dứt các
phiền não rốt ráo.
Hỏi : Dùng thô trọng không điều thích v.v... các hành có thể
dứt phiền não, chứ bất tịnh v.v... thì không thể ?
Đáp : Không có kinh nào nói thô trọng v.v... có thể dứt phiền
não mà bất tịnh v.v... thì không thể, mà trong kinh nói dùng quán
bất tịnh v.v... có thể dứt phiền não.
Thành Thật Luận Trang 551 Tuệ Quang Foundation
Lại thô trọng v.v... có sức mạnh gì có thể dứt phiền não mà
bất tịnh v.v... không thể ?
Lại nếu cõi Dục có thô trọng v.v...các hành, nên dùng các
hành đó để dứt các phiền não. Nếu không, phải nói lý do vì sao
có bất tịnh v.v... mà không có thô trọng v.v...? Nếu có mà không
dứt phiền não thì cõi Sắc dầu có cũng không thể dứt, điều đó
cũng phải nói lý do vì sao cõi Dục không thể mà cõi Sắc lại có thể
?
Hỏi : Cõi Dục tuy có thô trọng v.v... mà không thể dứt các
phiền não vì là cõi tán loạn. Người tâm tán loạn không thể dứt
như trong kinh nói : Nhiếp tâm là đạo, tán tâm là phi đạo ?
Đáp : Phải nói lý do vì sao cõi Dục gọi là cõi tán loạn ?
Trong đó có bất tịnh quán v.v..., nếu là cõi tán loạn làm sao có thể
quán xương cốt v.v... các tướng khác.
Lại cõi Sắc nhiếp tâm có tướng gì khác mà cõi Dục không có
?
Hỏi : Vì ở cõi Sắc có thể được lìa dục. Ở trong đây chết sinh
về cõi Sắc như dùng cái nêm để tháo cái nêm ?
Đáp : Sao gọi là lìa dục ?
Hỏi : Dứt phiền não là lìa dục. Vì ở cõi Sắc có thể dứt phiền
não chứ không phải cõi Dục.
Đáp: Các ngoại đạo dứt kết rồi, rồi khởi lại sinh về cõi Dục. Cho
nên phàm phu không gọi dứt kết. Nếu dứt rồi lại sinh thì dứt kết
vô lậu cũng phải sinh lại ? Việc đó không thể được.
Lại trong kinh nói dứt 3 kết rồi mới có thể dứt 3 thứ độc.
Phàm phu không thể dứt 3 kết nên không được lìa dục.
Lại phàm phu thường có ngã tâm v.v... nên không thể có thể
dứt thân kiến v.v.... Nếu phàm phu có thể lìa dục, thì tất cả phiền
não lẽ ra đều phỉ không có. Bởi vì sao ? Vì tất cả phiền não đều do
nhiều duyên thành, như trong kinh nói do nhiều duyên thành ngã.
Nếu phàm phu nầy đối với 5 ấm cõi Dục không khởi thân kiến mà
Thành Thật Luận Trang 552 Tuệ Quang Foundation
lại chưa được các ấm cõi trên, vậy thì phải không có thân kiến ?
Có những lỗi như vậy. Như vậy phiền não phải dứt hết vĩnh viễn
thì phàm phu nầy phải là La-hán, mà thật phiền não không được
dứt hết. Như trong kinh nói : Nghe tiếng sấm lớn có 2 hạng người
không sợ là Chuyển luân Thánh vương và A-la-hán. Nay phàm
phu nầy cũng phải không sợ ?
Lại A-la-hán sống không mừng, chết không sợ, như A-la-hán
Ưu-ba-tư-na bị rắn cắn, khi mạng lâm chung các căn không đổi
khác, nhan sắc không biến đổi. Người nầy lẽ ra cũng như vậy ?
Lại A-la-hán, 8 pháp của thế gian không thể che tâm. Người
nầy lẽ ra cũng như vậy, vì đã lìa dục, mà thật ra phàm phu tuy nói
lìa dục đều không có các tướng nầy. Cho nên biết không dứt phiền
não.
Hỏi : Phàm phu có thể dứt phiền não, vì mạng chung nơi đây
vãng sinh cõi Sắc, nếu không dứt làm sao sinh kia được ? Trong
kinh cũng nói có ngoại đạo lìa dục.
Lại nói A-la-la-ca-la-ma Uất-đầu-lam-phất lìa bỏ cõi Dục cõi
Sắc sinh về cõi Vô sắc.
Lại nói dùng Sắc lìa Dục, dùng Vô sắc lìa Dục, dùng diệt lìa
khởi nghĩ nhớ. Cho nên ông nói phàm phu tuy dứt phiền não mà
sinh trở lại nên không gọi là dứt. Việc đó không đúng.
Ông cũng nói phàm phu có dứt bao nhiêu đều thật sự là ngăn,
gọi là dứt lìa, kỳ thật không dứt mà nói là dứt, thật không lìa dục
mà nói là lìa dục.
Như trong một bài kệ nói :
Nếu nghĩ ngã, ngã-sở,
Chết đến có thể dứt,
Như trẻ con nghịch đất,
Còn thích còn giữ chơi,
Nếu khi đã phát chán,
Liền phá mà bỏ đi.
Thành Thật Luận Trang 553 Tuệ Quang Foundation
Đó cũng gọi lìa dục. Nhưng ngoại đạo dứt cùng chết dứt có
khác. Chết dứt không sinh cõi Sắc, Vô sắc. Trẻ con bỏ đất tuy là
cúng dường nhưng không quả báo lớn. Nếu cúng dường lìa dục,
ngoại đạo được quả báo lớn. Lời nói tuy đồng mà nghĩa thì khác.
Cho nên biết phàm phu thật có dứt lìa ?
Đáp : Trong pháp ngăn chận có sai khác. Nếu có thể ngăn
phiền não sâu thì sinh 2 cõi Sắc, Vô sắc.
Lại nếu có thể ngăn thân kiến như trước đã nói lỗi, nếu
không thể ngăn thân kiến cõi Dục làm sao có thể sinh cõi Sắc, Vô
sắc. Chỉ có thể ngăn tham giận nên sinh cõi Sắc, không phải ngăn
thân kiến v.v.... Cho nên biết phàm phu thật không dứt kết. Cõi
Dục cũng có pháp thiện có thể ngăn phiền não, cho nên biết cõi
Dục cũng có tu tuệ.
Lại trong kinh nói trừ 7 chỗ nương cũng được gọi là đắc
đạo. Cho nên biết nương định cõi Dục có thể sinh chân trí.
Hỏi : Người nầy nương sơ thiền, cận địa được A-la-hán
không phải định cõi Dục ?
Đáp : Không phải. Nói trừ 7 chỗ nương là trừ cả sơ thiền và
cận địa rồi.
Lại trong đó không có nhân duyên có thể nương cận địa mà
không phải định cõi Dục. Nếu hành giả đó có thể vào cận địa thì
tại sao không thể vào sơ thiền ư ? Việc này cũng không có lý do.
Lại trong kinh Tu-thi-ma nói : Trước là pháp trụ trí, sau là
Nê-hoàn trí. Nghĩa nầy bất tất trước được thiền định mà sau mới
hết lậu, chỉ quyết dùng pháp trụ trí làm đầu, rồi sau hết lậu. Cho
nên biết trừ các thiền định. Trừ thiền định nên mới nói kinh Tuthi-
ma. Nếu thụ cận địa, tức lỗi đồng các thiền.
Lại không có kinh nào nói tên cận địa. Đó là ông tự nhớ
tưởng phân biệt mà thôi.
Hỏi : Trước tôi nói thí dụ cái nêm. Cho nên biết dùng địa
khác có thể dứt kết địa khác. Như dùng cái nêm nhỏ có thể tháo
Thành Thật Luận Trang 554 Tuệ Quang Foundation
cái nêm lớn. Cũng như vậy, dùng pháp ở cõi Sắc có thể dứt pháp
ở cõi Dục. Hành giả, nếu trước dứt dục và pháp ác bất thiện, rồi
sau có thể vào sơ thiền. Cho nên biết chắc có cận địa, dùng định
dứt dục.
Lại nói nhân sắc lìa dục. Nếu không cận địa làm sao nhân sắc
?
Lại trong kinh nói : Nếu hành giả được vui tịnh thì có thể bỏ
vui bất tịnh. Như Nan-đà nhân được thiên nữ yêu mới bỏ được
bản dục.
Lại nếu người không được mùi vị sơ thiền tịch diệt thì với 5
dục không thể sinh tâm thô tệ. Cho nên biết trước được sơ thiền
cận địa mới có thể bỏ cõi Dục ?
Đáp : Được tịnh thiện cõi Dục có thể dứt bất thiện, như nói 5
thứ xuất tính. Như Thánh đệ tử hoặc nghĩ 5 dục mà không sinh hỷ
lạc, tâm không thông hòa như đốt gân lông, nếu nghĩ xuất pháp thì
tâm thông suốt.
Lại nói hành giả tùy khi sinh giác quán bất thiện liền dùng
giác quán thiện mà diệt. Cho nên ông nói thí dụ tháo cái nêm cũng
có thể là cõi Dục.
Ông nói nhân sắc lìa dục là việc sau cùng. Hành giả dùng ở
cõi Dục dứt các phiền não, tùy theo thứ lớp dứt dần, cho đến có
thể được thiện pháp cõi Sắc, bấy giờ mới dứt cõi Dục rốt ráo được
pháp cõi Sắc.
Ông nói A-la-hán diệt tận định cũng được các định. Đó là chỉ
nói quả cuối cùng.
Ông nói được vui tịnh diệu và vị tịch diệt, đều đã đáp chung.
Lại nếu cõi Dục không định, làm sao có thể dùng tản tâm
chứng được thiện cõi Sắc ?
Hỏi : Tuệ giải thoát, A-la-hán không định cũng chỉ có tuệ ?
Đáp : Trong đó chỉ ngăn thiền định. Chắc phải có thời gian
ngắn nhiếp tâm, cho đến một niệm. Như trong kinh Phật nói : TìThành
Thật Luận Trang 555 Tuệ Quang Foundation
kheo khi lấy áo có 3 độc, mặc áo rồi thì liền diệt. Không có kinh
nào nói trong tâm tán loạn có thể sinh chân trí, mà đều nói nhiếp
tâm sinh như thật trí.
Phẩm 195 : Bốn trí vô ngại
Hỏi : Có thế trí cận pháp vị, đó là gì ?
Đáp : Đó là trí trong noãn pháp v.v... có thể phá giả danh. Trí
nầy dùng thế tục thấy đế lý, nên gọi thế trí. Gần Thánh đạo nên
gọi cận pháp vị.
Hỏi : Trong kiến đế đạo là trí tu vị lai v.v...?
Đáp : Không có trí tu vị lai v.v... Sau sẽ nói. Bởi vì sao ? Vì
trong phá pháp tướng không có tâm giả danh, cho nên trong kiến
đế đạo không tu thế trí.
Hỏi : Trong kinh nói có 4 trí vô ngại, đó là gì ?
Đáp : Như trí vô ngại trong danh tự gọi là pháp vô ngại, trí
vô ngại trong ngôn ngữ âm thanh gọi là từ vô ngại nghĩa là khác
phương khác tục nên âm thanh ngôn ngữ sai khác. Như trong kinh
nói : Hành giả không nên đam mê ngôn từ của nước khác. Nếu
ngôn ngữ âm thanh bất tiện cũng khó hiểu nghĩa. Nếu không có
danh tự thì nghĩa không rõ được. Tức nơi ngôn từ nầy không lưu
ngại, không cùng tận, gọi là lạc thuyết vô ngại. Như trong kinh
nói : Có 4 lối nói pháp : Hoặc nói có nghĩa lý mà không thể vô
tận, có thể vô tận mà không có nghĩa lý, có được cả 2, có cả 2 đều
không được. Ba thứ trí nầy gọi là ngôn từ phương tiện. Trí vô ngại
biết nghĩa trong danh tự ngôn ngữ gọi là nghĩa vô ngại.
Như nói có 4 lối nói pháp : Có nghĩa phương tiện không ngữ
phương tiện. Có ngữ phương tiện không nghĩa phương tiện. Có đủ
2 phương tiện. Có cả 2 đều không phương tiện. Nếu ai có được 4
trí vô ngại đó gọi là đầy đủ phương tiện. Bậc trung thượng nói
pháp khó đáp lại khó gần, lạc thuyết vô tận, cũng có nghĩa lý trí
tuệ vô cùng ngôn từ không bị ngăn trệ.
Thành Thật Luận Trang 556 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Làm thế nào được trí vô ngại nầy ?
Đáp : Nhờ nghiệp nhân duyên đời trước nên được. Nếu có
thể đời đời khéo tu nhân duyên trí tuệ và phương tiện các ấm, do
sức tu tập nên đời nay tuy không học tập văn tự, đọc tụng kinh
điển nhưng cũng có thể biết được như thiên nhãn thông v.v....
Hỏi : Hạng người nào có thể được ?
Đáp : Chỉ Thánh nhân có thể được. Có người nói chỉ A-lahán
được, không phải các học nhân. Đây bất tất phải như vậy, học
nhân cũng có thể được 8 thứ giải thoát, tại sao không thể được trí
nầy ?
Hỏi : Bốn vô ngại nầy ở trong cõi nào ?
Đáp : Hai cõi Dục Sắc có tất cả, trong cõi Vô sắc chỉ có
nghĩa vô ngại. Vô-ngại có 2 thứ hữu lậu và vô lậu. Học nhân đủ 2
thứ, vô học chỉ có vô lậu. Nếu được thì nhất thời được hết. Nữ
nhân cũng được. Như Tì-kheo-ni Đàm-ma-trần-na v.v…
Phẩm 196 : Năm trí
Năm trí là Pháp trụ trí, Nê-hoàn trí, Vô tránh trí, Nguyện trí
và Biên tế trí.
Biết các pháp sinh khởi gọi là pháp trụ trí, như sinh duyên
lão tử cho đến vô minh duyên hành. Bởi có Phật hay không Phật,
tính này vẫn thường trụ nên gọi là pháp trụ trí. Pháp nầy diệt gọi
Nê-hoàn-trí, như sinh diệt nên lão tử diệt cho đến vô minh diệt
nên các hành cũng diệt theo.
Hỏi Nếu vậy là Nê-hoàn trí cũng gọi pháp trụ trí ? Bởi vì sao
? Vì nếu có Phật hay không Phật, tính nầy vẫn thường trụ vậy ?
Đáp : Các pháp diệt hết gọi là Nê-hoàn. Trong diệt hết đó,
còn có pháp gì mà trụ ?
Hỏi : Nê-hoàn không phải thật có sao ?
Đáp : Ấm diệt không còn nên gọi Nê-hoàn. Trong đó còn có
gì nữa ?
Thành Thật Luận Trang 557 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Làm sao biết được thật có Nê-hoàn ? Diệt đế gọi là Nêhoàn.
Khổ v.v... các đế thật có, nên Nê-hoàn cũng phải thật có.
Lại trí trong Nê-hoàn gọi là diệt trí. Nếu không có pháp làm
sao sinh trí ?
Lại trong kinh Phật vì các Tì-kheo nói : Có sinh khởi làm
pháp hữu vi, có không sinh khởi làm pháp vô vi.
Lại trong kinh nói : Chỉ có 2 pháp hữu vi và vô vi. Pháp hữu
vi pháp có sinh diệt trụ dị. Pháp vô vi không sinh diệt trụ dị.
Lại trong kinh nói : Có bao nhiêu pháp hoặc hữu vi hoặc vô
vi diệt hết, chỉ Nê-hoàn đó là cao thượng.
Lại nói sắc là vô thường, diệt sắc nên Nê-hoàn là thường,
cho đến thức cũng vậy.
Lại trong kinh nói : Diệt thì phải chứng. Nếu không pháp
chứng cái gì ?
Lại Phật nói trong Kinh Đa Tính : Người trí biết như thật,
tính hữu vi và vô vi. Tính vô vi tức là Nê-hoàn, dùng chân trí mà
biết, làm sao nói là không ?
Lại trong các kinh không quyết định nói Nê-hoàn là vô pháp.
Cho nên biết ông tự nhớ tưởng phân biệt bảo là không có Nê-hoàn
?
Đáp : Nếu lìa các ấm lại pháp khác gọi Nê-hoàn đó, thì
không nên gọi các ấm diệt hết cho là Nê-hoàn. Lại nếu có Nêhoàn
cần nói ra thể nó là thế nào?
Lại định duyên Nê-hoàn gọi là vô tướng, nếu pháp tướng vẫn
còn đó sao gọi vô tướng được ? Như trong kinh nói : Hành giả
thấy sắc tướng dứt, cho đến thấy pháp tướng dứt.
Lại trong kinh nhiều chỗ đều nói : Tất cả hành vô thường, tất
cả pháp vô ngã, Nê-hoàn tịch diệt. Ngã trong đó gọi là thể tính các
pháp. Nếu không thấy thể tính của các pháp mà gọi là thấy vô
ngã, hoặc Nê-hoàn thì pháp đó là không thể tính không thể thấy
được, vì pháp nầy không diệt. Như khi có cái bình thì không có
Thành Thật Luận Trang 558 Tuệ Quang Foundation
pháp cái bình hoại. Nếu khi cái bình hoại thì mới được nói bình
hoại. Chặt cây v.v... cũng như vậy. Như vậy nếu các hành hãy còn
bấy giờ không gọi Nê-hoàn, vì các hành diệt mới có tên Nê-hoàn.
Lại khổ diệt không gọi còn có pháp riêng. Như trong kinh
nói : Các Tì-kheo ! Nếu khổ nầy diệt các khổ khác không sinh,
không còn nối nhau, chỗ đó là đệ nhất tịch diệt an ổn. Như nói lìa
bỏ tất cả thân tâm, vĩnh viễn lìa diệt hết tham ái Nê-hoàn. Trong
đó nói dứt khổ nầy các khổ khác không sinh, đâu còn có pháp gì
gọi Nê-hoàn ư ?
Lại cũng không riêng còn có tận pháp ? Chỉ đã sinh ái, diệt
chưa sinh, không sinh, bấy giờ gọi là tận, lại đâu còn có pháp gì
gọi là tận ư ? Thật không thể nói được !
Lại nữa, có tên khác của pháp nầy. Không có pháp 5 ấm gọi
là Nê-hoàn. Trong đó không có mà gọi là có, đây là điều không
thể được, vì diệt hết nên nói là Nê-hoàn. Giống như hết áo, lại
không pháp khác, nếu không như vậy cũng phải riêng có pháp hết
áo v.v....
Ông nói có diệt trí, cũng không hại gì, như trong việc chặt
cây v.v... trí sinh cũng không riêng có pháp chặt.
Lại do các hành nên trí sinh trong đó, nghĩa là tùy các hành
không gọi là Nê-hoàn, như tùy không có vật đó biết vật đó không
có.
Hỏi : Nay không có Nê-hoàn sao ?
Đáp : Chẳng phải không có Nê-hoàn, chỉ là không thật pháp.
Nếu không có Nê-hoàn thì thường ở trong sinh tử hẳn không
mong ngày giải thoát. Như bình bị vỡ cây bị chặt, chỉ có điều là
không phải thật có pháp riêng.
Nói các đế khác v.v... đều đã đáp chung. Bởi vì sao ? Vì có
khổ diệt nên mới nói có các pháp không sinh, không khởi, không
làm, vô vi v.v... đều không hại gì.
Thành Thật Luận Trang 559 Tuệ Quang Foundation
Vô tránh trí, là tùy dùng trí nào đó không tranh cãi cùng
người khác gọi là vô tránh. Có người nói chính là tâm từ đó. Vì
tâm từ nên không não hại chúng sinh.
Lại có người nói chính là hành. Vì không hành nên không
cùng tranh với vật.
Lại có người nói chính là tâm vui Nê-hoàn. Vì vui Nê-hoàn
nên không tranh.
Lại có người nói ở trong đệ tứ thiền điều này bất tất như vậy.
A-la-hán đó dùng trí nầy tu tâm nên không tranh cãi.
Nguyện trí, là đối với các pháp trí không chướng ngại gọi là
nguyện trí.
Hỏi : Nếu nói như vậy chỉ Phật Thế Tôn có được trí nầy ?
Đáp : Đúng vậy. Chỉ Phật Thế Tôn mới đầy đủ trí này. Còn
người khác tùy sức đến đâu mà được không ngăn ngại.
Biên tế trí là tùy hành giả được trí tối thượng, nhờ tất cả thiền
định huân tu tăng trưởng; như đối với mạng sống lâu tăng tổn
v.v... được sức tự tại gọi là biên tế trí tức trí có giới hạn.
Phẩm 197 : Trí 6 thông
Có trí 6 thông. Sáu thông là thân thông, thiên nhãn, thiên nhĩ,
tha tâm trí, túc mạng và lậu tận.
Thân thông là thân hành giả tuôn ra nước lửa, bay bổng lên
ẩn hiện, nắm bắt mặt trời mặt trăng, đến cõi Phạm Tự Tại và làm
các thứ biến hóa. Làm các nghiệp như vậy gọi là thân thông.
Hỏi : Việc đó làm sao thành được ?
Đáp : Hành giả tu sâu thiền định nên được. Như trong kinh
nói sức thiền định là không thể nghĩ bàn.
Có người nói biến hóa là tâm vô ký. Điều này không đúng.
Vì nếu hành giả đó vì lợi tha mà hiện các thứ biến hóa thì làm sao
gọi vô ký được ?
Thành Thật Luận Trang 560 Tuệ Quang Foundation
Có người nói dùng tâm cõi Dục làm biến hóa cõi Dục, tâm
cõi Sắc làm biến hóa cõi Sắc. Lời đó cũng không đúng. Mắt v.v...
cũng phải như vậy, có thể dùng thức cõi Dục thấy cõi Sắc ư ? Như
vậy v.v... nếu tâm cõi Sắc làm biến hóa cõi Dục đâu có lỗi chi ?
Lại có người nói thần thông sơ thiền có thể đến cõi trời Phạm
Thế, cho đến thần thông tứ thiền có thể đến cõi Sắc Cứu Cánh. Đó
cũng không đúng. Tùy căn lực đến đâu, nếu người lợi căn dùng
thần thông sơ thiền có thể đến tứ thiền. Người độn căn lấy thần
thông nhị thiền không thể dùng sơ thiền. Như Đại Phạm Vương
đến thiền trung gian, trong đó không thần thông, dùng sức sơ
thiền có thể đến các cõi Phạm thiên khác, liền dùng sơ thiền
không thể biết Phạm Vương ở chỗ nào.
Lại Phật dùng túc mạng nghĩ nhớ cõi Vô sắc, như trong kinh
nói : Nếu có chỗ sinh đời trước trong cõi Sắc và Vô sắc Phật đều
nhớ biết. Cho nên không nhất định.
Lại có người nói thiên nhãn là tuệ tính. Điều này cũng không
phải. Thiên nhãn do ánh sáng mà thành, tuệ không phải như vậy.
Hỏi : Trong kinh nói tu tướng ánh sáng có thể thành tri kiến.
Tri kiến tức là thiên nhãn ?
Đáp : Không phải. Cũng nói thiên nhĩ không dùng tuệ tính,
gọi đó là nhĩ nên không phải tuệ.
Lại thiên nhãn duyên sắc hiện tại, ý thức không vậy.
Lại trong giải thích thiên nhãn nói là biết nghiệp báo chúng
sinh. Nhãn thức không có năng lực nầy. Chỉ trong ý thức khi biết
dùng nhãn thức mà sinh, như do thiền định sinh sắc gọi là thiên
nhãn.
Hỏi : Hình chỗ thiên nhãn lớn hay nhỏ ?
Đáp : Chừng bằng con ngươi mắt.
Hỏi : Người mù thế nào ?
Đáp : Cũng bằng chỗ mắt.
Hỏi : Thiên nhãn là một hay hai ?
Thành Thật Luận Trang 561 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Là hai.
Hỏi : Tùy ngó hướng nào thấy hướng đó sao ?
Đáp : Thấy khắp các hướng.
Hỏi : Hóa nhân cũng có sao ?
Đáp : Không có. Hóa nhân có luận thiên nhĩ cũng như vậy.
Hành giả nếu biết tâm người khác gọi là tha tâm trí.
Hỏi : Vì sao không nói biết tâm số người khác ?
Đáp : Vì nhân duyên nầy nên không có tâm số riêng. Biết
thụ, tưởng v.v... của người khác cũng gọi là tha tâm trí.
Lại có người nói trí nầy duyên đồng tính, như dùng hữu lậu
biết hữu lậu, vô lậu biết vô lậu. Điều này không đúng. Người nầy
không nói nhân duyên quyết định, do nhân duyên đó biết là duyên
đồng tính.
Có người nói chỉ duyên hiện tại. Đó cũng không phải. Hoặc
duyên vị lai như người vào định vô giác, biết từ định nầy khởi, sẽ
biết những việc như vậy như vậy.
Có người nói trí nầy không biết kiến đế đạo. Việc nầy không
đúng. Nếu biết có lỗi gì ?
Có thuyết nói : Bích-chi-phật muốn biết kiến đế đạo trong
tâm thứ 3, tức thấy tâm thứ 7. Thanh Văn muốn biết tâm thứ 3,
tức thấy tâm thứ 16. Đó không gọi là kiến đế đạo ư ?
Lại có người nói trí nầy không biết thượng địa, thượng nhân,
thượng căn. Đó cũng không nhất định. Chư thiên cũng biết tâm
Phật, như có một hôm Phật rất muốn đuổi chúng Tăng, rồi lại nghĩ
cho lại, Phạm Vương đều biết.
Lại có một khi tâm nghĩ muốn làm vua để dùng chính pháp
mà giáo hóa cõi đời. Ma vương liền biết đến mà khuyên mời.
Lại chư thiên cũng biết vị nầy A-la-hán, cho đến vị nầy đang
tu Tu-đà-hoàn.
Lại các Tì-kheo cũng biết tâm Phật như khi sắp vào Nê-hoàn
thì A-na-luật thứ lớp biết Phật đã vào các thiền định.
Thành Thật Luận Trang 562 Tuệ Quang Foundation
Lại có người nói trí nầy không biết cõi Vô sắc. Đó cũng
không đúng. Phật dùng túc mạng có thể biết Vô sắc; tha tâm trí
cũng như vậy, biết nào có lỗi gì ?
Hỏi : Làm sao biết tâm người khác ?
Đáp : Biết trong cảnh duyên. Như tâm đi trong sắc gọi là tâm
duyên sắc v.v...
Hỏi : Nếu vậy thì tha tâm trí duyên tất cả pháp ?
Đáp : Như vậy đó. Nếu không biết duyên làm sao biết tâm.
Như trong kinh nói : Ta biết tâm ông như vậy. Như vậy tức là
duyên sắc v.v.... Biết tha tâm có 3 thứ : 1. Tướng biết. 2. Báo
được. 3. Tu được.
Tướng biết, là như dùng chú Ương-già v.v... nên biết. Báo
được, là như quỷ thần v.v.... Tu được, là sức tu thiền định được
tha tâm trí. Trong 6 thông nầy nói tu được là hoặc nhớ các ấm
thân trong đời quá khứ gọi là túc mạng trí.
Hỏi : Nhớ ấm của ai ?
Đáp : Nhớ ấm của mình, ấm người khác và ấm của phi chúng
sinh. Tuy không thể nhớ ấm của người hơn mình mà có thể nhớ
giới v.v... các pháp của người hơn mình.
Làm sao biết được ? Như Xá-lợi-phất đáp Thế Tôn rằng :
Con tuy không biết tâm Phật quá khứ vị lai mà có thể biết các
pháp đó.
Lại trời Tịnh Cư biết tâm Phật nên đến thưa Phật rằng : Như
vậy Thế Tôn ! Oai nghi chư Phật quá khứ cũng như vậy.
Hỏi : Trong giải nghĩa về túc mạng, vì sao nói cọng tướng
cọng tính ?
Đáp : Nghĩ nhớ rõ ràng nên nói tướng danh tự như vậy, như
tên người v.v....
Lại vì biết việc nên gọi là tướng, họ, tên, dòng tộc, như nói
đây là nhà của ông, đây là họ của ông. Tướng tính hợp lại nói, nên
thấy biết rõ ràng.
Thành Thật Luận Trang 563 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Vì sao nhớ rõ ràng ?
Đáp : Pháp quá khứ diệt hết, vô tướng mà có thể biết được,
Đó mới là lạ lùng.
Có người dùng tướng tư duy suy lường mà biết không được
rõ ràng, rồi cho rằng đệ tử Phật cũng như vậy. Cho nên tính tướng
hợp lại mà nói.
Có người dùng túc mạng trí, hoặc dùng hữu đạo tư tuệ mà
biết đời quá khứ, như hành duyên thức. Trong 2 thứ nầy tư tuệ là
hơn.
Bởi vì sao ? Vì người nầy tuy biết 8 vạn đại kiếp, mà không
có tư tuệ nầy, nên sinh tà kiến cho rằng từ trước đến nay gọi là
sinh tử, quá đây lại không có gì cả. Hữu đạo tư tuệ hoàn toàn
không có tà tâm nầy.
Có người nói trí nầy thứ lớp nghĩ nhớ quá khứ. Điều này
không đúng. Nếu như niệm niệm thứ lớp nhớ việc trong một kiếp
hãy còn khó biết hết, huống là vô lượng kiếp.
Hỏi : Vì sao trong kinh lại nói : Ta từ ở trong 91 kiếp đến
nay chưa hề thấy bố thí tốn kém mà không quả báo ?
Đáp : Phật ở trong đó lấy 7 Phật làm chứng.
Lại cũng có sống lâu trong cõi Tịnh Cư cùng với các Phật kia
đồng thấy.
Lại vì Phật được chân trí nên công đức thanh tịnh, nếu người
cúng dường được phúc 2 đời, cho nên ngang bằng với thuyết nầy.
Có người nói trí nầy không biết thượng địa. Điều này không
đúng. Trong thân thông v.v... ở trên đã đáp.
Hỏi : Nếu đó là tính nhớ vì sao gọi trí ?
Đáp : Nhớ tùy tướng sinh. Quá khứ không có tướng mà có
thể nghĩ nhớ. Phải biết thắng tuệ gọi đó là nhớ. Nhớ túc mạng có
3 thứ : 1. Dùng túc mạng trí. 2. Báo được. 3. Sinh ra liền tự nhớ.
Túc mạng trí là tu được. Báo được là như quỷ thần v.v....
Sinh ra tự nhớ là trong loài người.
Thành Thật Luận Trang 564 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Do nghiệp gì nên sinh ra bèn tự nhớ ?
Đáp : Nhờ không não hại chúng sinh nên được nghiệp này.
Bởi vì sao ? Vì khi chết khi sinh, khổ rất ép ngặt nên quên mất
nghĩ nhớ; trong khi đó khó mà được không quên mất, nên phải
nhờ nghiệp thiện.
Lại có người nói quá khứ nhiều lắm là 7 đời. Điều này không
nhất định. Có người đời đời thâm tu pháp không hại, nên có thể
được nghĩ nhớ lâu xa.
Chứng lậu tận trí thông, chính là Kim cương Tam-muội.
Kim-cương Tam-muội là hết lậu, vô ngại đạo tận trí là trí vô học.
Dùng Kim cương Tam-muội mới diệt hết các lậu nên gọi là chứng
lậu tận trí thông.
Hỏi : Các thần thông khác cũng nên nói nhờ pháp nào mà
chứng được ?
Đáp : Trước đã nói tu sâu thiền định chứng thần túc thông.
Lại tùy sở dụng chứng và việc sở chứng đều gọi thần thông.
Có người nói tất cả Thánh đạo đều là phương tiện để hết lậu. Như
trong kinh nói : Nếu Phật ra đời nếu có người thiện, nghe pháp
xuất gia, vâng giữ cấm giới, bỏ 5 thứ ngăn che, tu định thấy đế…
Những điều đó đều là phương tiện để hết lậu.
Lại có người nói bố thí v.v... các pháp thiện cũng gọi là nhân
duyên hết lậu, như trong kinh nói : Hành giả bố thí để giúp thành
hết lậu, không, vô ngã trí. Đó là thật chứng lậu tận trí thông. Pháp
nầy có tên riêng là Kim cương Tam-muội. Có thể phá các tướng
nên gọi kim cương. Các người ngoại đạo chỉ gọi 5 thông, vì đều
không được chân trí nầy.
Hỏi : Dùng vô ngã trí mới phá ngã kiến, vì sao dùng trí nầy
dứt tham giận v.v...?
Đáp : Vô ngã trí có thể diệt các tướng, vì không còn tướng
nên các phiền não diệt.
Thành Thật Luận Trang 565 Tuệ Quang Foundation
Hỏi : Vì ban đầu dùng vô ngã trí có thể phá các tướng, còn trí
thứ 2 v.v... lại dùng để làm gì ?
Đáp : Các tướng tuy diệt mà sinh lại, nên phải dùng trí thứ 2
v.v....
Hỏi : Nếu tướng diệt rồi mà sinh lại thì vô cùng không biên
giới. Vậy là không có đạo A-la-hán ?
Đáp : Có biên giới. Như nay hiện thấy sữa diệt lại có sinh.
Có khi sữa diệt bơ sinh. Như vậy là có biên giới. Tướng cũng như
vậy. Như đốt sắt tướng đen diệt rồi sinh lại đến tướng đỏ sinh, bấy
giờ là biên giới. Các thí dụ trạng thái Ca-la-la v.v... cũng như vậy.
Tùy đến khi nào các tướng diệt hết không còn tướng sinh bấy giờ
gọi là được đạo A-la-hán.
Hỏi : A-la-hán đều không có các tướng sao ?
Đáp : Nếu còn ở trong tâm bất định, bây giờ cũng có sắc
v.v... các tướng, nhưng không sinh lỗi, như người thấy sắc, vì tà
tâm, tà phân biệt, khi đó tướng có thể sinh lỗi.
Hỏi : Không vô ngã trí là thế nào ?
Đáp : Nếu hành giả trong 5 ấm không thấy giả danh chúng
sinh, dùng pháp không, nên thấy sắc thể diệt cho đến thức diệt.
Đó gọi là không vô ngã trí.
Hỏi : Giả sử các pháp thường còn, ái v.v... các phiền não
cũng có thể trừ hết. Như nói vạn vật thường tồn tại, mà người tinh
tiến có thể trừ tham ái thì cần gì phải diệt tưởng ?
Đáp : Trong kinh nói : Có các sinh tướng, đều biết diệt
tướng, trong các pháp được pháp nhãn tịnh. Nếu diệt dứt là rốt ráo
dứt. Có hành giả lìa các sắc dục, ngăn dứt tham giận, nên Phật nói
vì đó mà nói kệ như vậy.
Lại nói các hành tính rỗng không như huyễn, người phàm
phu vô trí cho đó là thật có. Người học nhân rõ biết là hư dối như
huyễn. Cho nên biết tùy dùng tuệ nào đó mà chứng các pháp diệt.
Đó gọi là chứng lậu tận trí thông.
Thành Thật Luận Trang 566 Tuệ Quang Foundation
Phẩm 198 : Trí nhẫn
Hỏi : Trong kinh nói : Nếu hành giả có 7 phương tiện, 3 thứ
quán nghĩa, thì trong pháp đó chóng được hết lậu. Đó là trí nào ư
?
Đáp : Bảy phương tiện là văn tuệ, tư tuệ. Bởi vì sao ? Vì
người tâm chưa định khởi quán như vầy : Đây là sắc, sắc nhóm,
sắc diệt, và đạo diệt sắc, sắc đắm vị, tội lỗi xuất ly.
Hỏi : Nếu là văn tuệ tư tuệ, vì sao nói chóng được hết lậu ?
Đáp : Tuy là văn tuệ tư tuệ như vậy phân biệt 5 ấm, có thể
phá được ngã tâm, nên mới nói chóng được hết lậu.
Ba thứ quán trí, là quán pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô
ngã. Nếu dùng pháp môn ấm, giới, nhập mà quán pháp hữu vi thì
không nghĩa lợi.
Hỏi : Nếu như vậy, trong lỗi trước đã nói vô thường, khổ,
trong xuất ly đã nói vô ngã, thì vì sao còn nói 3 thứ quán nầy ?
Đáp : Học tập 3 thứ quán, trước tiên là văn tuệ tư tuệ, rồi sau
tuệ tu. Trước trong văn tuệ tư tuệ nói 7 thứ, sau trong tuệ tu nói 3
thứ.
Bởi vì sao ? Nếu vô thường, khổ hoại tướng là hoại vô
thường, chứ không phải hành vô thường. Tuy nói trừ dục nhiễm
mà không nói trừ bằng cách nào, nên sau mới nói nghĩa 3 thứ
quán.
Hỏi : Sao gọi 8 nhẫn ?
Đáp : Nếu có trí có thể phá giả danh, đó gọi là nhẫn. Nhẫn
nầy là ở trong pháp noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất.
Hỏi : Hành giả cũng nhẫn trong Phật Pháp Tăng và giới v.v...
Vì sao chỉ nói 8 ?
Đáp : Vì thắng hơn nên nói. Thắng gọi là cận đạo. Tuệ là trí
nên gọi nhẫn. Như là khổ pháp trí gọi là khổ pháp nhẫn, như vậy
v.v.... Bởi vì sao ? Vì trước dùng tư tuệ thuận đạo, sau được hiện
Thành Thật Luận Trang 567 Tuệ Quang Foundation
trí, như người chăn voi trước xem dấu chân voi, dùng trí so sánh
biết nó ở trong đó, rồi sau mới hiện thấy. Hành giả cũng như vậy,
trước dùng nhẫn trí so sánh suy lường Nê-hoàn, rồi sau dùng trí
hiện thấy. Cho nên kinh nói người biết, người thấy có thể được
hết lậu.
Phẩm 199 : Chín trí
Hỏi : Có luận sư nói : A-la-hán khi chứng tận trí được 9 thứ
trí của thế tục là : buộc cõi Dục, thiện, vô ký cho đến thiện, vô ký
cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Việc đó thế nào ?
Đáp : Không phải tất cả A-la-hán đều được hết các thiền
định, làm sao được hết 9 trí ?
Hỏi : Tất cả A-la-hán đều được thiền định chứ, có điều là
không phải tất cả đều có thể hiện vào ?
Đáp : Nếu không thể hiện vào, làm sao gọi là được ? Như
người nói tôi biết đọc sách vậy mà không biết một chữ. Điều này
cũng vậy.
Hỏi : Nếu người lìa dục mà chưa có thể hiện vào sơ thiền,
người đó mạng chung không sinh về đó sao ?
Đáp : Trong kinh nói : Trước ở đây vào, sau mới sinh đó.
Nay ở đây không vào làm sao mà sinh về đó được ?
Hỏi : Như khi lìa dục các thiền quá khứ vị lai đều đã vốn
được, mới được nhờ báo đó mà sinh ?
Đáp : Nghiệp vị lai không làm, không khởi, nên không có
quả báo được. Các thiền quá khứ đã từng sinh nơi tâm, nếu cùng
với quả báo thì không hại gì. Lại không nên được các nghiệp vị
lai, nếu có thể được thì tất cả vị lai lẽ ra đều phải được chứ
chướng ngại gì mà được không được ?
Hỏi : Nếu pháp vị lai không thể được, thì người học nhân
không nên thành tựu 8 phần, người vô học không nên thành tựu
10 phần.
Thành Thật Luận Trang 568 Tuệ Quang Foundation
Bởi vì sao ? Vì nếu nương đệ nhị thiền v.v... vào chính pháp
vị, thì người nầy vị lai mới được chính tư duy.
Lại nếu hành giả tận trí hiện tiền, bấy giờ vị lai được thế
chính kiến.
Lại có người nương định Vô sắc được quả A-la-hán. Người
nầy vị lai được chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp và chính
mạng.
Lại nếu người nương đệ tam thiền v.v... được Thánh đạo
được vị lai hỷ. Các pháp như vậy v.v... thì lẽ ra đều không. Cho
nên biết có pháp vị lai.
Lại nếu không người tu vị lai, làm sao được quả các thiền
định v.v...? Hành giả nếu ở trong đạo tỉ trí, đều được quả nhiếp
trong các trí các định, nếu không như vậy lẽ ra các quả đó thường
được.
Bởi vì sao ? Các quả đều phải được lúc hiện tiền. Điều này là
không thể. Cho nên biết phải có người tu trong vị lai ?
Đáp : Ông nói không các phần đó. Đó không hại gì. Bởi vì
sao ? Vì tôi nói giới v.v... các phần do thứ lớp mà được, đâu phải
đồng thời được. Cho nên không phải nạn vấn làm gì.
Ông nói được các chủng loại đó. Hành giả khi được khổ trí,
các loại trí khác đều gọi là được. Như được nhân chủng nên gọi là
được nhân tướng, cũng không nói ở trong từng niệm lần lượt được
nhân tướng. Điều này cũng như vậy.
Hỏi : Hành giả có các khổ v.v... các trí tuần tự được đó đều
đã rời bỏ, lại đồng thời được quả Tu-đà-hoàn nhiếp được các trí ?
Đáp : Các trí vô lậu được thì không mất.
Hỏi : Nếu trước được không mất thì được hành cũng không
khác biệt. Bởi vì sao ? Vì người được quả tức là hành giả. Có
những lỗi nầy ?
Đáp : Nếu không khác biệt, đâu có lỗi gì ? Như người thành
tựu cũng gọi hành giả. Đó cũng như vậy.
Thành Thật Luận Trang 569 Tuệ Quang Foundation
Lại người nầy còn được thắng pháp nên có sai biệt, cho nên
không lỗi. Như người thụ 5 giới, rồi lại được luật nghi xuất gia
cũng không mất giới đã thụ.
Lại người đắc quả không vì thấy đạo nên có sai khác. Như
người tuy biết việc trước lại vì việc hơn trước nên có sai khác.
Điều này cũng vậy, cho nên biết không có được vị lai.
Lại hành giả an trụ trí không vô ngã, bấy giờ làm sao được
pháp thế gian ? Cho nên biết khi được tận trí không được thế trí.
Hỏi : Các thế trí nầy cọng chung tận trí, được cùng với A-lahán
mà làm tâm xuất nhập định ?
Đáp : Tâm A-la-hán nối nhau mà sinh niệm niệm đều thanh
tịnh. Nếu lại được 9 trí thì nhãn v.v… đều được nữa. Nếu không
như vậy thì không nên chỉ được 9 trí.
Lại nói người tu vị lai đều không nhân duyên.
Bởi vì sao ? Vì trong các thuyết kiến đế đạo nầy chỉ tu tương
tự trí.
Trong tư duy đạo cũng tu tương tự và không tưong tự.
Trong kiến đế đạo không tu thượng địa.
Trong tư duy đạo thì tu.
Trong đạo tỉ trí không tu thiện thế tục.
Trong các trí khác thì tu.
Trong vô ngại đạo không tu tha tâm trí.
Khi tín giải thoát chuyển làm kiến đến thì trong tất cả vô ngại
giải thoát không tu thế tục đạo.
Khi thời giải thoát chuyển làm bất hoại giải thoát thì trong 9
vô ngại và 8 giải thoát đạo không tu thế tục đạo, mà trong giải
thoát đạo thứ 9 thì tu.
Trong vi tế tâm không tu tất cả vô lậu.
Như vậy v.v... đều không nhân duyên. Cho nên ông nay hoặc
nói chính nhân, hoặc nên tín thụ, hoặc lấy học tập làm tu, khi còn
ở trong noãn pháp v.v..., các thiện căn trên tất cả đều tu, để đều
Thành Thật Luận Trang 570 Tuệ Quang Foundation
được tăng ích. Như tụng tập kinh sách thì đều sáng tỏ. Cho nên
khi còn ở trong noãn pháp v.v..., cho đến tận trí tất cả đều tu. Nếu
không phải như vậy thì phải nói chính nhân.
Phẩm 200 : Mười trí
Mười trí, là pháp trí, tỉ trí, tha tâm trí, danh tự trí, 4 đế trí,
tận trí và vô sinh trí.
Biết pháp hiện tại gọi là pháp trí. Như trong kinh nói : Phật
bảo A-nan : Ông đối với pháp nầy thấy biết như vậy, thông suốt
như vậy, quá khứ vị lai cũng biết như vậy. Lẽ ra phải nói hiện tại
pháp trí. Nay không nói hiện tại nên chỉ nói pháp trí. Như trong
kinh nói : Người ngu quý pháp hiện tại, người trí quý vị lai.
Lại nói các dục hiện tại, các dục vị lai đều là lưới ma, bị ma
trói ma buộc. Trong những câu như vậy v.v... đều nên nói tiếng
hiện, nhưng vì lược bớt tiếng hiện nên chỉ nói có pháp trí.
Biết các pháp còn tàn dư gọi là tỉ trí. Tàn dư là các pháp quá
khứ vị lai. Kế tiếp pháp hiện tại sau mới biết nên gọi tỉ trí.
Bởi vì sao ? Vì trước hiện biết rồi rồi sau mới so sánh biết.
Pháp trí gọi là hiện trí. Tùy theo pháp trí nầy mà tư duy suy lường
so sánh biết gọi là tỉ trí.
Hỏi : Tỉ trí nầy là vô lậu trí, vô lậu trí làm sao gọi tỉ trí được
?
Đáp : Thế gian cũng có tỉ trí.
Bởi vì sao ? Vì pháp trí, tỉ trí, tha tâm trí, khổ trí, diệt trí và
đạo trí đều có hữu lậu, vô lậu. Các trí nầy ở trong pháp noãn v.v...
là hữu lậu mà vào trong pháp vị mới được gọi vô lậu.
Hỏi : Có người nói biết các hành cõi Dục: các hành tập, các
hành diệt, các hành diệt đạo, gọi là pháp trí. Biết các hành 2 cõi
Sắc, Vô sắc 4 thứ gọi là tỉ trí. Việc đó thế nào ?
Thành Thật Luận Trang 571 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Trong kinh nói Phật bảo A-nan rằng trong đời quá khứ
vị lai cũng biết như vậy, chứ không có kinh nói biết các hành
trong 2 cõi Sắc và Vô sắc gọi là tỉ trí.
Lại trong kinh nói : Hành giả nên nghĩ: Ta nay đang bị hiện
sắc xâm thực, quá khứ cũng đã từng bị sắc xâm thực, trong vị lai
cũng sẽ bị sắc xâm thực.
Lại trong kinh nói : Sinh duyên già chết, trong đời quá khứ,
vị lai cũng như vậy. Như Bồ-tát Mã Minh nói kệ :
Như hiện tại lửa nóng,
Khứ lai lửa cũng nóng.
Hiện tại 5 ấm khổ,
Khứ lai ấm cũng khổ.
Các khổ như vậy v.v... các Đại luận sư cũng đều nói như vậy.
Lại biết pháp đời quá khứ vị lai gọi là tỉ trí, cũng có đạo lý.
Bởi vì sao ? Vì hành giả đối với khổ quá khứ vị lai hiện tại
đều chán lìa. Chán lìa là ở trong pháp đó sinh chân trí tuệ. Như
hành khổ hiện tại, thì các hành khứ lai cũng khổ như vậy. Nay
dùng trí nào biết pháp quá khứ vị lai ? Như pháp trí này, các hành
cõi Sắc, Vô sắc cũng có khứ lai, cái biết trong đó cũng phải gọi
pháp trí. Vậy thì chỉ là pháp trí không có tỉ trí. Nếu hành trong
khứ lai cõi Sắc Vô sắc riêng có trí đó, thì hành khứ lai trong cõi
Dục lẽ ra cũng phải riêng có trí đó ?
Vì những nghĩa nầy nên các luận sư nói : Có được, chưa
được nên thứ lớp thấy đế. Khổ cõi Dục gọi là được. Khổ cõi Sắc
và Vô sắc gọi là chưa được. Cho nên không thể đồng thời đều biết
hết. Nếu khổ chưa được, dùng tỉ trí mà biết. Nay trong cõi Dục
chỗ chưa được khổ, cũng nên dùng tỉ trí mà biết.
Hỏi : Dùng trí nào để dứt kết đạo ?
Đáp : Chỉ nên dùng pháp trí, tỉ trí ở trong phương tiện đạo.
Hỏi : Dùng pháp trí gì ?
Đáp : Dùng khổ pháp trí diệt pháp trí.
Thành Thật Luận Trang 572 Tuệ Quang Foundation
Bởi vì sao ? Vì hành giả khi quán vô thường, khổ thấy
không, vô ngã, bấy giờ chứng các hành diệt. Các trí khác đều là
phương tiện.
Hỏi : Quán khổ nào diệt ?
Đáp : Quán các thụ khổ. Trong đó có thể sinh ngã tâm. Cho
nên cũng ở trong đó thấy diệt. Như nói nội giải thoát. Cho nên các
ái diệt hết, tự nói được A-la-hán.
Hỏi : Trong kinh không nói tất cả hành dứt gọi dứt tính ư ?
Đáp : Hành giả nầy vì chứng nội diệt, nên chán lìa tất cả.
Lại hành giả quyết phải chứng nội diệt, ngoải ra không cần
phải nhất đinh.
Hỏi : Ở trong các đế, trí sinh như thế nào ?
Đáp : Biết sinh khổ v.v... sinh.
Hỏi : Đó không phải định tâm làm sao sinh trí được ?
Đáp : Có phép quán như vậy. Cũng có ấm vô thường các lỗi
sinh tưởng khổ, vô ngã. Như trong kinh nói : Nếu pháp vô thường
tức là vô ngã.
Bởi vì sao ? Vì mắt v.v... các căn có sinh có diệt. Nếu đó là
ngã, ngã tức sinh diệt, nên biết không phải ngã. Khi mắt v.v... sinh
không từ đâu đến, vì có sở tác mới gọi là ngã, mà trong kinh nói
không có tác giả, cho nên biết nếu pháp vô thường tức là vô ngã.
Như vậy hành giả khéo tu vô thường và vô ngã, nên thân tâm
được tịch diệt, có sinh bao nhiêu hành đều giác biết cái não hại
của chúng mới sinh tưởng khổ, như bò không da, chạm một chút
là biết đau. Hành giả cũng vậy, nhờ tưởng vô ngã nên thành tưởng
thượng khổ. Người ngu vì tưởng ngã nên dù bị đại khổ vẫn không
biết nó não hại. Đó gọi là khổ trí.
Thấy các hành sinh gọi là tập trí. Thấy các hành diệt gọi là
diệt trí. Niệm đạo lấyy chung gọi là đạo trí:
Hỏi : Sao gọi là tận trí ?
Đáp : Hết tất cả tướng nên gọi tận trí.
Thành Thật Luận Trang 573 Tuệ Quang Foundation
Bởi vì sao ? Vì học nhân tướng dứt rồi sinh lại. Còn đây dứt
rốt ráo nên gọi tận trí. Như trong kinh nói nếu biết tướng vọng chỉ
là vọng tưởng thì các khổ hết. Tâm trí học nhân chỉ lấy vọng
tưởng làm ngã; dứt hẳn tâm đó gọi là tận trí. Như trong kinh nói :
A-la-hán ở trước Phật tự nhớ lời Thế Tôn nói các kết ta không còn
nữa. Ta đối kết đó không còn sinh nghi. Ta thường nhất tâm nhiếp
chính niệm chính hành, tham v.v... bất thiện không lọt vào tâm.
Trong đó lấy tướng nên sinh các kết, các tướng dứt nên các kết
dứt. Học nhân hành nơi tướng vô tướng, nên ngã tâm thỉnh thoảng
phát khởi. Như thấy gốc cây trơ trụi nghi là người. Cho nên chỉ Ala-
hán độc nhất được không nghi, vì tâm thường hành trong vô
tướng cho nên hiện chúng sinh không. Trong 5 ấm không thấy
thần ngã. Sau do pháp không, nên không thấy sắc tính cho đến
thức tính. Cho nên biết tất cả tướng gọi là tận trí.
Biết các tướng không sinh gọi là vô sinh trí. Học nhân dứt
tướng hết rồi sinh lại. Người vô học tướng hết rồi không sinh nữa.
Nếu có thể khiến các tướng diệt hết không còn sinh lại, bấy giờ
gọi là vô sinh trí.
Hỏi : Học nhân cũng biết có tận trí vô sinh trí, như nghĩ: Ta
hết 3 kết không còn sinh lại. Vì sao không nói 10 phần thành tựu ?
Đáp : Học nhân không dứt tất cả tướng, nên không nói có tận
trí vô sinh trí, như người bị trói cột khắp mình, tuy mở được một
chỗ nhưng không gọi đã được thoát. Cũng có nghĩa như thế nầy :
Xá-lợi-phất nói họ Cấp Cô Độc 10 phần thành tựu.
Lại A-la-hán được sức tự tại nên tự biết kết hết không còn
sinh lại. Học nhân không được như vậy.
Lại A-la-hán khi được vô học đạo có thể tự biết hết tất cả
sinh, gọi là tận trí. Người thành tựu Phạm hạnh là xả các học
hành. Người việc làm đã làm xong là các việc đáng làm đều đã
làm xong, biết thân từ đây không còn nối nhau luôn nữa. Cho nên
biết chỉ A-la-hán đối với tất cả việc làm phải được tự tại thành tựu
Thành Thật Luận Trang 574 Tuệ Quang Foundation
tận trí và vô sinh trí, chứ không phải các người học nhân, ví như
người bị bệnh sốt rét tuy lúc không phát nhưng không gọi là
người lành bệnh. Như trong kinh nói : Lìa tất cả chỗ hỷ, diệt tất cả
chỗ ưu, chứng tất cả pháp diệt, thường tu tâm vô lậu.
Tha tâm trí, là như trong 6 thông nói 5 ấm hòa họp giả danh
chúng sinh. Các tên trí trong đây gọi là danh tự trí, vô lậu trí, chân
thật trí. Tương tự vô lậu nầy được gọi là trí, nên gọi danh tự trí.
Hỏi : Có người nói tất cả chúng sinh thành tựu các trí. Việc
đó thế nào ?
Đáp : Nếu đệ tử Phật có thể biết các pháp do nhiều duyên
sinh, người đó có thể được, chứ đâu phải chúng sinh khác. Nhờ
được tên trí nên tất cả chúng sinh chỉ dùng tưởng mà biết, nếu
được trí nầy gọi là nội phàm phu.
Phẩm 201 : Bốn mươi bốn trí
Hỏi : Trong kinh nói 44 trí là : lão tử trí, lão tử tập trí, lão tử
diệt trí, lão tử diệt đạo trí, sinh, hữu, lấy, ái, thụ, xúc, 6 nhập, danh
sắc, thức, hành cũng như vậy. Vì sao nói như vậy ?
Đáp : Nê-hoàn là chân pháp quí báu, nên dùng nhiều cửa để
vào : Có dùng cửa 5 ấm mà vào, hoặc quán giới, nhập, nhân
duyên và các đế. Các cửa như vậy đều đến Nê-hoàn.
Làm sao biết được ? Như trong kinh nói : Vua ở trong thành,
có 2 sứ giả đến do mỗi người vào mỗi cửa. Đến rồi yết kiến nhà
vua và tâu bày sự thật; tâu xong lui về. Người vào các cửa khác
cũng vậy.
Trong đó vua dụ cho hành giả, các cửa là quán ấm giới nhập
v.v..., 2 sứ giả là như pháp Chỉ và Quán. Người tâu bày sự thật là
thông đạt chân không. Các sứ giả nầy tuy từ các cửa vào nhưng
đều đến một chỗ. Như vậy tuy quán ấm giới nhập v.v... các môn
phương tiện nhưng đều vào Nê-hoàn. Như La-hầu-la nói : Khi ở
Thành Thật Luận Trang 575 Tuệ Quang Foundation
một mình chỗ vắng suy nghĩ pháp, biết pháp như vậy đều tùy
thuận hướng về và ngợi khen Nê-hoàn.
Lại Phật ca ngợi pháp rằng : Pháp nầy có thể tắt lửa phiền
não nên gọi là diệt có thể khiến hành giả tâm được yên ổn, nên gọi
là yên ổn, có thể khiến hành giả đến Chính biến tri nên gọi là đến.
Những nghĩa như vậy đều ca ngợi Nê-hoàn.
Lại phạm hạnh là 8 con đường chính. Trong 8 con đường
chính, chính trí là cao hơn, mà quả của chính trí là Nê-hoàn.
Lại Phật nói ra giáo pháp đều vì Nê-hoàn. Cho nên biết các
cửa 5 ấm v.v... đều đến Nê-hoàn.
Hỏi : Có luận sư nói lão tử trí là khổ trí. Việc đó thế nào ?
Đáp : Không phải vậy. Bởi vì sao ? Vì trong đó không nói
khổ hành, nên không phải khổ trí.
Hỏi : Vậy thì đó là trí nào ?
Đáp : Đó gọi là lão tử tính trí.
Hỏi : Cũng nói biết lão tử tập, lão tử diệt, lão tử diệt đạo.
Nên biết phải là khổ trí ?
Đáp : Đó là nhân duyên môn, không phải chân đế môn. Cho
nên trong đó không nên nói khổ hành, mà nên nói tập v.v... vì
thuận với nhau hơn.
Hỏi : Trong đó vì sao không nói các trí vị, quá, xuất v.v...?
Đáp : Các nghĩa đó đều có, chỉ vì người kết tập kinh lược bớt
nên không nói.
Phẩm 202 : Bảy mươi bảy trí
Hỏi : Trong kinh nói 77 trí là sinh duyên lão tử, không lìa
sinh mà có lão tử. Trong 2 đời quá khứ vị lai cũng như vậy. Đó là
pháp trụ trí, quán vô thường, hữu vi tạo tác khởi do nhiều duyên
sinh. Tận tướng, hoại tướng, ly tướng, diệt tướng cũng quán như
vậy. Cho đến vô minh duyên hành cũng như vậy. Vì sao trong đó
không nói lão tử tính và diệt đạo v.v...?
Thành Thật Luận Trang 576 Tuệ Quang Foundation
Đáp : Vì người có trí sắc bén nên nói như vậy. Chỉ mở cửa là
có thể biết, pháp khác cũng như vậy.
Lại ngoại đạo phần nhiều đối với pháp nhân duyên nói lầm
rằng vạn vật thế gian là do thế tính v.v..., nên Phật ở đây chỉ nói
nhân duyên.
Hỏi : Đã nói sinh duyên lão tử, vì sao lại nói không lìa ?
Đáp : Là nói quyết định, vì trong các pháp có nhân bất định.
Như bố thí là nhân phúc, mà trì giới cũng được phúc, như nói trì
giới được sinh lên trời. Hoặc có người sinh ý nghĩ lão tử nhân
duyên sinh, hoặc không nhân duyên sinh, nên phải nói quyết định.
Hỏi : Vì sao trong đời quá khứ vị lai lại phải nói quyết định ?
Đáp : Hiện tại với quá khứ có tướng khác, nghĩa là chúng
sinh đời quá khứ thọ mạng vô lượng, uy thế đồng với chư thiên.
Có những điều như vậy, sợ e người nghi rằng thọ mạng v.v... khác
với lão tử, nên nhân duyên cũng phải khác, nên phải nói quyết
định. Vị lai cũng vậy. Sáu thứ nầy gọi là pháp trụ trí, ngoài ra gọi
Nê-hoàn trí. Có thể khiến lão tử nối nhau luôn, nên gọi vô thường
hữu vi tác khởi, do nhiều duyên sinh. Tận tướng, hoại tướng tức là
vô thường hành. Ly tướng tức là khổ hành. Diệt tướng tức là
không vô ngã hành.
Bởi vì sao ? Vì trong đó sắc tính diệt, thụ tưởng hành thức
tính diệt tức là nghĩa của 3 thứ quán. Như trong kinh nói : Tìkheo
có 7 chỗ phương tiện, 3 thứ quán nghĩa, chóng được hết lậu.
Đó đều là Nê-hoàn trí. Như vậy v.v... nhân duyên trí có trăm ngàn
vô lượng, nghĩa là nhãn trí v.v..., như trong kinh nói : Mắt duyên
nghiệp, nghiệp duyên ái, ái duyên vô minh, vô minh duyên tà
niệm, tà niệm duyên nhãn sắc, các lậu duyên tà niệm, các ăn
duyên ái, 5 dục duyên ăn đoàn thực v.v..., địa ngục đoản mạng
duyên sát sinh v.v.... Nếu trước khổ nay khổ đều duyên vọng
tưởng, vọng tưởng duyên thân tâm yêu ghét, yêu ghét duyên tham
dục, tham dục duyên tà tư duy. Cứ như vậy v.v... các nhân duyên
trí vô lượng vô biên, tự phải biết lấy./.
THÀNH THẬT LUẬN
( Quyển 16 hết, trọn bộ )