Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Mộng Du Tập: Trích Quyển Ba Mươi Chín & Bốn Mươi Sáu


~Trich Quyển Ba Mươi Chín~
Thành Tâm Dạy Đàm Chi
       Tâm chẳng chí thành thì chẳng sáng,
       Tánh không tĩnh thì không định,
       Tinh không tụ lại thì chẳng hoàn toàn,
       Thần chẳng ngưng thì không nhàn dật,
       Chí không chuyên nhất thì chẳng hết lòng,
       Khí chẳng nuôi dưỡng thì không hòa,
       Giận tức mà không trừng trị thì không bình,
       Lòng dục không lấp được thì không bớt,
       Học mà không giảng thì không rộng rãi,
       Hởi mà không biện thì chẳng thông,
       Tiết chẳng lập thì chẳng kiên vững,
       Tháo không giữ gìn thì không cứng mạnh,
       Thế nên cái học của người quân tử ở chỗ trọng những cái người ta khinh, thêm những cái người ta giảm, lấy những cái người ta bỏ, được những cái người ta không. Cho nên đạo lớn đức rộng, thân thông thả, danh được quý trọng; siêu vượt, không ai bì được.

Khắc Tựa Đại Thừa Khởi Tín Luận
       Đạo “chỉ thẳng” chẳng phải đợi đến Đạt Ma ở Tây sang, mà đức Thế Tôn của chúng ta đã riêng vì một đại sự này mà xuất hiện ở đời. Nghĩa là chỉ đem tri kiến Phật để khai ngộ cho chúng sanh. Nên nói “Chỉ một sự thật này, có cái thứ hai nào khác thì chẳng phải chân”. Xem như thế thì đức Phật thuyết một đại tạng giáo trong suốt 49 năm đâu có gì chẳng phải là pháp “trực chỉ nhất tâm”. Chỉ vì chúng sanh căn cơ ám độn, nên Phật đại từ bi đem tâm lão bà tha thiết rủ mọi phương tiện mà khai thị chỉ cho tất cả quay về độ nhất nghĩa đế. Than ôi! Cái mê của chúng sanh quá cứng nhắc. Ngay khi Phật nhập diệt chưa được bao lâu mà tà kiến đã nổi lên, phá hoại chánh pháp. Chẳng kể ngoại đạo mà thôi, ngay đến đệ tử Phật cũng thân tập quyền thừa chấp đó là cái thấy của mình, tử diệt chánh pháp, huống nữa là ai khác! Vì thế hai tông tánh tướng ở Tây Vực, mỗi tông dựng lập môn đình khác nhau thậm chí chia nước sông mà uống. Sau đó khá lâu, hơn 600 năm, có đại sư Mã Minh xuất hiện làm một cuộc chấn hưng lớn lao, tốm thâu áo nghĩa của Lăng Già v.v... Một trăm bộ kinh đại thừa, trước tác Đại Thừa Khởi Tín Luận để phá tà chấp, mở rộng cửa nhất tâm pháp giới, nhiếp hội tánh tướng vào một nguồn, đưa ba thừa về chỗ chí cực, khoảng trong một vạn lời. Ngay cho các nhà có nổi lên lại cũng không thể tăng thêm một chữ. Có thể bảo là tấm gương tròn sáng để tu hành. Than ôi! Mã Minh là tông sư truyền tâm theo Lăng Già để tạo luận. Đạt Ma là tỵ tổ của Thiền Tông cũng chỉ Lăng Già để ấn tâm. Sỡ dĩ như thế chính vì sợ người tu hành đời mạt pháp, chính nhân không được sáng, rơi vào tà kiến mà phá hoại chánh pháp. Sao người thân giáo gần đây chẳng lo minh tâm, chỉ chấp vào văn tự ngữ ngôn cho là cứu cánh. Còn người tham thiền lại dùng tu mù làm việc hướng thượng, mạt sát giáo thừa; cam rơi vào chỗ ngu mê, cố thủ thiên chấp cho là tất đáng? Một cuốn luận này chính là sách chỉ nam cho cả giáo và thiền vậy; là gương sáng của nhất tâm, mà so sánh cho là văn tự há chẳng lầm lớn sao! Ô hô! Ở Ấn Độ, cái chấp tánh tướng đã bị Mã Minh cực lực đả phá… Còn phương này, sự thiên chấp của giáo thiền thì có Khuê Phong viết “Thiền – Nguyên Thuyên”, Vĩnh Minh lại sưu tập 100 cuốn Tông Canh phát minh yếu chỉ tánh tướng một nguồn, như “Bạch nhật lệ thiên” mà kể hậu học chẳng thèm nhìn đến. Như thế há là người chơn thật tham cứu đại sự sao? Tôi lúc trẻ đã bỏ giảng nghĩa. Ban đầu nghe các Kinh chẳng biết nói gì, liền dốc chỉ tham cứu. Khi tánh được khai mở, trở lại xem văn tự, thì thật là như đẩy cửa rơi chốt. Nên có viết Lăng Già Bút Ký và Lăng Nghiêm huyền cảnh; đều là đem giáo thừa chỉ quay về một đường hướng thượng, nhưng mà những người học tập kinh điển ở đời lại cho là tôi không theo xưa, còn người tham thiền lại cho tôi là ông thầy văn tự. Tôi tuy lưỡi có dài quét đất cũng chẳng làm sao được? Không lạ lùng sao? Họ xem Mã Minh, Long Thọ, Khuê Phong, Vĩnh Minh là người ở ngoài tông môn, cho một đại tạng kinh là giấy lau mủ đàm, lại trách thuyết phát minh nhất tâm là văn tự, mà chấp cơ duyên của chư Tổ là việc hướng thượng. Nhưng cơ-duyên không phải là văn tự sao? Tôi bảo là người cố thủ vọng tưởng, tăng trưởng ngã mạn mà tham thiền, thì chẳng bằng người thân trì kinh luận là hạt giống chính nhân Bát-Nhã. Lại nữa tham thiền cần lìa tâm ý thức; đã có thể lìa tâm ý thức để cầu hướng thượng, há chẳng thể lìa văn tự để ngộ ý chỉ ngoài lời sao? Cái tệ này của pháp môn chẳng phải là lỗi của người học. Bởi vì thầy trò chánh nhãn chẳng sáng, có lỗi vọng chấp cái thấy của mình.
       Luận này Cựu Tôn Hiền Thủ sớ giải do Trường Thủy ghi lại quá rắc rối, người học hoang mang, mờ mịt không thể tra cứu. Tôi theo bản sớ giải cựu, bỏ bớt những chỗ phiền phức, gian lược cho nhất quán, lời đường như không đầy đủ nhưng vì ý nghĩa bài sớ của Tổ là giải thẳng, đem bản văn mà sớ cho thông suốt, muốn người học theo ngay một cửa này mà vào. Như thế thì giáo có thể lìa lời mà được nghĩa, còn thiền cũng chẳng rơi vào đường tà; là cái chìa khóa cửa lớn để cứu sự mạt-pháp. Bản giải này người xem phần đông vui mừng vì rất thẳng tắt nên đã khắc ở An Thành Chung Nam. Nay lại khắc ở Tân An. Người xướng đạo trợ duyên đều là pháp lữ tứ chúng một thời vậy.

Bài Tựa Diệu – Pháp – Liên Hoa Kinh Thông Nghĩa
       Tôi năm mười chín tuổi cạo tóc theo tiên sư Vô Cực, nghe Hoa Nghiêm huyền đàm, đối với tông chỉ pháp giới viên dung có niềm tin chắc thật, đến cái dụng thường trụ của hải-ấn tam muội, chợt khế ngộ bèn quay về tông pháp giới. Sau nghe kinh Pháp Hoa, bàn về thực tướng, mà tôi chẳng biết thực tướng ra sao. Lại nghe nói: “Nếu rõ thực tướng thì văn tự có thể lược bớt. Do đây hoài nghi rất cấp thiết. Mỗi lần bị ép giảng kinh, tôi đều rất mù mờ. Đến lúc đi hành khước phương Bắc, phàm tham vấn các bậc kỳ túc, tôi đều đem câu “Thế nào là thực tướng” để thưa hỏi. Nhưng rốt cuộc không có ai khải phát cho. Tôi mới để chí mộ tham thiền, chuyên tâm vào một đường hướng thượng. Từ đó tôi dẹp hết văn tự, vào núi Ngũ Đài tập khô thiền, nỗ lực nghiên cứu việc của chính mình suốt 8 năm, được tự tin chút đỉnh. Tôi trở về Đông Hải, một hôm chúng thỉnh thuyết kinh Pháp Hoa, giảng đến phẩm Phương Tiện, cảm ơn Phật thâm sâu, tôi bất giác rơi lệ khóa òa. Đối với ý chỉ thực tướng, một lần nữa hốt nhiên chẳng còn nghi ngờ. Nhưng đối với lời văn của kinh vẫn chưa thấu triệt hoàn toàn, dường như vật làm ngại mắt. Không bao lâu, vì việc hoằng pháp, tôi có xúc phạm đến Hoàng Đế khiến ngài nổi giận đày ra Lôi Dương. Đại sư Đạt Quán có hẹn với tôi đến Tào Khê lễ bái và đã đến đợi tôi ở Khuông Lô. Khi nghe tôi gặp nạn, ban đầu cho là chắc chết. Đại sư liền đến trước Phật, hứa tụng một trăm bộ Pháp Hoa để cầu nguyện cho tôi. Sau tôi về Nam, qua Long Giang, sư đến từ biệt tôi trên sông, báo cho tôi biết việc hứa tụng kinh. Năm Bính Thân, suốt 3 tháng đi đường, đến qua năm Mậu Tuất, tôi bèn kết pháp xã ở Lũng Bích Thanh Môn Ngũ Dương, tập họp đệ tử chừng vài chục người, tụng kinh Pháp Hoa để trọn nguyện trước. Đại chúng thỉnh tôi diễn giảng, đến phẩm Hiện Bảo Tháp, rõ ràng như gặp vật cũ trong nhà, mới tin đây là Phật chỉ tri kiến Phật; cho đến tám phẩm sau phẩm Thần Lực, người xưa phán cho là lưu thông. Tôi xem kỹ biết là không đúng, bèn dùng bốn chữ “khai, thị, ngộ, nhập” để phán toàn kinh này thì sau là nhập tri kiến Phật. Trong hội những người nghe xong đều vui mừng hớn hở. Giảng xong, họ yêu cầu tôi ghi lại. Nhân đó tôi đặt tên là kích tiết, đem bốn chữ thông suốt ý chỉ đầu đuôi một kinh.

*

~Trích Quyển Bốn Mươi Sáu~
Kính Sơn Tạp Lục
       Sư ở Kính Sơn, cùng đệ tử tiếp kiến, những lời chỉ dạy hằng ngày đều là ấn chứng và lợi sanh rất là thân thiết, không nên để thất lạc. Tôi bình thường có thể lãnh ý chỉ mà không thể ghi nhớ. Sư nói sâu rộng mênh mông mà tôi 10 ngày sau mới khởi ý này cho nên không nhớ được hoàn toàn đúng lời; thứ tự trước sau. Nay tôi ghi lại được. Những lời trước và những lời khai thị tiếp. Ghi hết vào làm pháp thoại Kính Sơn để tiện khắc bản rộng rãi, và không uổng lòng từ của đại sư ban bố.
       Tất cả đại chúng đều cùng một lòng.
       Đệ Tử Chu Lộ ghi.
       Một đại sự này phải bình thực thương lượng mới được thọ dụng. Đệ nhất chẳng được thích sự huyền diệu, môi mép như sóng mòi, tôi bảo đó là đùa tinh hồn.
       Việc này nếu không do tham cứu mà vào thì không đắc lực, nếu không có dùng kinh ấn chứng thì không được chánh tri kiến, nếu không ở nơi cảnh duyên mà rèn luyện thì cũng chỉ là việc bóng sáng ngoài cửa. Đến khi gặp cảnh giới bát phong nghịch thuận thì liền bị dao động, cướp mất, chẳng thấu qua được. Nếu dùng tông nhập, dùng giáo ấn, dùng cảnh duyên hằng ngày để nghiệm, chỉ ở trên cảnh nhẹ nhàng thoát ra, không tâm dính mắc thì đó chính là chỗ dụng tâm đắc lực. Có thể lấy cảnh duyên tự khám nghiệm. Cũng chẳng cần nương hoàn toàn vào lời nói của thiện tri thức mà cho là pháp thực. Cắn chặt thoại đầu, chẳng phải mong sáng tỏ thoại đầu, mà chỉ nhờ thoại-đầu để phát nghi, chặt dứt vọng tưởng. Tham cứu cần phải lìa chỗ thoại đầu mà tham cứu. Hễ hạ được nghi tình mới đắc lực. Cổ Đức nói: “Lìa lưỡi câu ba tấc, ông làm sao nói?” Người xưa để tâm vào đấy, nghi cho đến lúc tình thức chẳng tới, lời nói chẳng thông. Chỗ bức bách cùng cực mới vọt ra một chút bóng sáng. Gọi là Lôi Quang Tam Muội. Chính nên tiến bước, không được vui mừng. Nếu nhận đây là đúng tức là có chút ít cho là đủ, toàn thể đều bị cái điểm sáng này che mất; không ló ra được. Về sau phát xuất ra đều bị nó sai khiến, hàm tàng trong bát thức còn có tập khí nhiều đời chung tử vi tế chợt hiện tiền. Nếu chỗ dùng sức chẳng được phải mượn sức chú để tiêu trừ chúng.
       Hỏi:
       Chỗ không đồng của trí và thức.
       Đáp:
       + Chỉ là một niệm hiện lượng tối so là trí, vừa chuyển đến cái thứ hai thì thành tỷ lượng, là rơi vào tình tưởng. Lại nói: Dính khắn vào tình là thức, không dính khắn vào tình là trí. Cắn chặt thoại đầu là nắm đứng con đường tình thức đến, chẳng cho khởi niệm thứ hai.
       + Tham ngộ cũng chẳng phải là việc rất khó. Trong ba tháng vững tâm nhất định thấy chỗ đặt chân. Đệ nhất chẳng được còn tâm đợi ngộ tức là chờ đợi cái ngộ khác bên ngoài. Ngay đây liền là tấm ván ngăn, công phu không thể vào lại được.
       + Lại nói: việc này cần phải là người dũng mãnh mới làm được.
       + Người lợi căn đã nhiều đời được trí huệ, đời này gặp duyên, ngay đó liền xong. Có người chẳng do tham mà vào, chỉ cần bảo nhậm thấu thoát như Lục Tổ.
       + Còn người độn căn thì thế nào? Chỉ cần tự nhận ra mình. Độn căn chẳng có gì khéo, chỉ từ chỗ độn mà đắc lực.
       + Cắn chặt thoạt đầu. Trong tất cả giờ đều dùng được hết, liền có thể đi trên núi dao, đống lửa. Dùng được nhằm liền là chỗ được định lực. Nếu có mảy may tránh né, thì toàn thân đọa lạc.
       + Người tham thiền chẳng được ngồi trên đất sạch trong, khiết bạch. Đây là hầm giam hãm ngàn kiếp muôn đời, tôi muốn vì chúng nói phá cho rõ ràng nên làm bài ca Đàm Bản.
       + Giáo nhân, tông nhân vốn không hai nhãn. Sư Vĩnh Minh nêu tông, toàn trích lời kinh để ấn nhập. Sợ người cứ một bề hướng bên đường không giáo nghĩa mà lầm đặt chân. Nếu không được con mắt giáo liền rơi vào tà kiến. Tôi chú giải các kinh sách Kim Cang, Pháp Hoa, Lăng Già, Lăng Nghiêm v.v... theo từ chỗ tình thức chẳng đến, bên đường không giáo nghĩa vọt ra nắm lấy. Lại muốn đem giáo ấn tông, người học sẽ tự được.
       + Tôi lúc ở Đông Hải, một tối ngồi thiền, thân và thế giới đều không, hai ấn phát quang, cảnh giới núi sông chấn động, có chốc lát ngộ nhập, vào được tương-ưng-huệ, chỗ Lăng Nghiêm viết đang khẩn cấp (trói chặt), hốt nhiên ở trước mắt. Tôi vội vàng đốt đuốc viết, tay viết không kịp dừng, đến hết canh năm là viết xong Lăng Nghiêm huyền cảnh. Thị giả ra hầu thấy đuốc tàn còn trên bàn, lấy làm lạ lùng.
       + Bồ Tát đều lấy lợi sanh làm sự nghiệp. Nếu chẳng thấu qua các pháp thế gian thì không thể đầu cơ lợi sanh được.
       + Người học Phật trước phải phát tâm đại bi, phá chấp ngã làm chủ.
       + Công án cũ, người đời nay cứ đem tâm vọng tưởng đo lường, thì mũi kim cũng chẳng đúng. Dù hội được, nói được, cũng không có chút sức nào trên phần mình.
       + Trong động hội được dễ vào, trong tĩnh vào được vô lực. Từ tri kiến người khác mà vào không có sức mạnh, trong tự tánh mà hội nhập mới đắc lực.
       Hỏi:
       Theo duyên tiến được là thế nào?
       Đáp:
       Duyên có hai. Duyên kiến văn thì có thối thất, duyên cảnh giới thì không thối thất. Hư thực không đồng.
       Chúng sanh dục nhẫn, nhị thừa sanh nhẫn, Bồ Tát vô sanh nhẫn, Phật tịch diệt nhẫn. Chỉ một tri kiến Phật là chính. Lại có tri kiến Bồ Tát, tri kiến nhị thừa, tri kiến chúng sanh, tri kiến ngoại đạo, các thứ tri kiến này đều sai lầm. Sỡ dĩ Thế Tôn dùng các thứ phương tiện chỉ cốt người rõ nhất tâm. Nhập vào chánh tri kiến, gọi là tri kiến Phật.
       + Rõ được tâm sanh diệt tịch diệt là rõ được sanh tử.
       + Thế nào là hướng thượng? Chỉ có cái buông xuống.
       + Lời Tổ sư; câu câu sống. Người học cho là pháp thực, thì câu câu chết.
       + Công phu hằng ngày chỉ cần xem thấu vọng niệm, không bị nó sai sử, chớ không có chỗ dụng tâm nào khác.
       + Nếu lúc quán tất cả không chẳng được thì sao?
       Chỉ rõ biết là giả thì tất cả có thể không, tất cả có thể nhẹ.
       + Bồ tát ở Cực Lạc làm việc gì? Tôi cần phải kéo ông ta ra.
       + Niệm câu A-Di-Đà, vốn đồng với một thoại đầu, người đời nay lại hiểu là đến Tây Phương.
       + Tất cả là huyễn. Ai ai cũng hiểu được. Nhưng cần phải có chủ trương tác dụng về huyễn, mới không bị huyễn chuyển. Lúc tôi ở Hải Ấn, chợt nhớ công án “Lục Tổ nửa đêm bị người đến chặt đầu” liền muốn học định lực ấy. Mỗi đêm tôi mở cửa tập quán tưởng, giả như có người đến đòi mượn đầu, tôi cũng hoan hỉ cho ngay. Đêm nay như thế, đêm mai cũng vậy. Lâu ngày biết mình có sức định. Một đêm, bỗng nghe báo có ăn trộm vào, tôi nói:
       - Hãy gọi họ đến.
       Đốt đuốc sáng, tôi ngồi ngay ngắn không có chút tâm sợ sệt. Người ấy đến cửa, bò lết không dám vào, một người thật to lớn. Tôi nói:
       - Trong đây không có gì cả!
       Và sai người vào khố lấy 200 tiền ra cho.
       Nếu trước không có chủ trương thì đã sợ hết vía rồi.
       + Khi tôi ở trong núi Ngũ Đài, tiến huyên náo như trăm vạn cuộc chiến, không có một giây nào yên. Một hôm nghe tiếng suối thường ngày chảy hết sức mạnh bạo, chợt không nghe nữa. Tôi vừa khởi nghĩ: “sao vậy?” Lại nghe. Tôi bèn đến chỗ nước phun mạnh nhất, ngồi mấy ngày. Ngồi lâu, tiếng nước vắng lặng. Từ đây tiếng nước tuy chảy không dứt mà tôi như không nghe. Sau này ở yên trong núi, không bị tiếng huyên náo làm động nữa.
       + Lúc tôi ở Đông Hải, gặp Hoàng Thái Hậu sai nội quan đem nhiều bạc đến cho, tôi chẳng dám cự tuyệt. Nhưng độ sức mình không thể lạm xử dụng, nghĩ đến những nơi đói khát, nên nhờ của Thái Hậu để bố thí, nội quan không chịu. Tôi liền báo mỗi huyện, những người được nhận bạc, tạo một tập sách đáp lại. Như vậy, sau hai cung nghe được đều rất vui. Và đến lúc bị nạn, nhờ sức của một việc này, bèn biết lúc gặp tài vật chẳng thể cẩu thả.
       + Lúc ở Lãnh Nam, nhân tình chưa thuần thục. Tại bờ núi tôi không làm sao cho họ quen với mình được; không thể thân cận. Có một đứa bé muốn đến gần mà sợ tôi. Một hôm tôi học cách sư tử giỡn con, nên cố gắng chổng ngược thân để làm quen, hái trái rừng cho nó, rồi càng ngày càng thân, nó không sợ tôi nữa. Từ đó, người ta gặp tôi không còn né tránh, đến làm quen.
       + Lúc tôi đến thăm Mổ Tổng Phủ. Ông cầm lại bảo đứng chờ dưới sân. Đến giờ đóng cửa cũng chẳng thấy cho đứng lên. Tôi hiểu ra bèn ứng tiếng hô tên tuổi xin yết kiến. Quay lại nhìn các cửa thấy không thể ra được, nó nặng như nghìn cân. Không biết làm sao, tôi lại gắng xưng tên tiếp kiến. Sau mới được đứng lên đi. Hôm sau tham yết cũng lại như vậy. Suốt một năm chẳng đếm xỉa gì đến. Những người chung quanh bảo ông ta là quan võ, đâu biết ông ta phá lệ thường tiếp đãi thiện tri thức. Cuối cùng ông ta hẹn ngày đông đến yết kiến Vũ Viện, Tông phủ sắm một chiếc thuyền, trang bị thức ăn, hoa quả, như đãi khách quý rồi mới thỉnh tôi qua thuyền làm lễ mời ngồi trên, thưa:
       - Chẳng phải tôi không biết tiếp đãi ngài. Nhưng biết ngài là người khí cốt cao ngạo nên tôi mới như thế để làm thành cho nhau.
       Ông vui vẻ chuyện trò rồi quỳ gối từ biệt. Hóa ra trong đám tể quan cũng có người tâm sâu xa như thế! Sao lại nói là võ biền ư!
       + Đọc sách không để tâm thể nhận thì không dùng được. Tôi chú giải Lão Tử đến chỗ “Thiên chi đạo, kỳ du trương cung hồ!” (đạo của Trời giống như dương cung sao!) Thêm mấy ngày, suy nghĩ cho thích hợp mà không thể được. Tôi bèn mượn người một cây cung, dương lên và treo trên vách, nằm ngồi đều ngắm nó. Hai ngày sau chợt ngộ chữ “trương” là đối với chữ “thỉ” (thỉ-trương là một mặt giữ, một mặt buông) mà nói. Lúc buông cung, bệ cung cao có dư mà dây thấp không đủ thì không dùng được, và khi dương cung, đè cao mà nâng thấp, lấy bớt chỗ cong mà phụ vào chỗ dây tiêu thì trên dưới quân bình có thể bắn trúng được. Thiên đạo toàn lấy động làm dụng. Chủ trương cho mà không chủ trương nhận. Giải thích như thế là thích hợp vậy. Đến hai câu “trọng vi khinh căn” (nặng là căn bản của nhẹ), cũng phải hết mấy năm, không dám giải ẩu. Đúng ngay ngày về Nam, tôi ngồi một mình trong thuyền tình cảnh buồn bã. Cái hiểu về khinh-trọng, tĩnh-tháo chợt hiện rõ trước mắt, mới ngộ ý chỉ lời của Thái Thượng. Bởi vì chính thân mình thử nghiệm và sau lại thấy. Vậy thì chưa thể bảo lời trình bày trên giấy chẳng có mùi vị chơn thật. Nên tôi chú thích một cuốn Đạo Đức Kinh mà trải qua 13 năm mới xong bản thảo, chẳng phải là sơ sài.
       Tôi viết kinh phải ngưng thần nhập quán, thể khế tâm Phật, thì đầu mối mới vọt ra. Nếu phải suy nghĩ thì không dùng trúng rồi.

Cách Thức Giáo Hóa Chúng Sanh
       Sách nói: Thánh nhân không ra đời thì vạn cổ như đêm dài đen tối, nên Phật Thích Ca của ta thị hiện ở vương cung, xuất gia ở Tuyết Sơn, sáu năm khổ hạnh, ngộ đạo thành Phật, rồi thuyết pháp độ sanh ở vườn Lộc Uyển. Lúc đức Phật chưa ra đời, ở Ấn Độ có 96 phái ngoại đạo, mỗi phái lập môn đình xưng là sư trưởng. Đến khi Phật thành đạo tuyết pháp, tất cả ngoại đạo đều quy y xuất gia làm đệ tử Phật, y theo giáp pháp tu hành, chứng quả A La Hán, nên trên hội Linh Sơn có 1250 người vốn đều là ngoại đạo, ngay lúc đó, những người tin Phật thì quy y Phật pháp, y giáo vâng làm, còn người không tin thì sanh kinh nghi cho đến nỗi tạo các ma hại, hủy báng mà bị đọa vào ác đạo chẳng thể kể. Như thế thì biết ngày nay, những nơi chưa hành theo Phật pháp đều do lúc Phật chưa ra đời có trí hay ngu, hiền hay bất tiếu; tuy có nghi hay tin không phải một, đều vì chẳng biết bổn hoài xuất thế của Phật chúng ta và phép tắc của phương tiện độ sanh có thứ lớp. Nên nay tôi lượt thuật thứ tự của phương tiện độ sanh cho người chưa nghe, chưa tin Phật pháp, biết chúng ta là tăng, pháp môn hóa sanh chẳng phải là một việc, một hạnh, một môn mà có thể vào được; nên nói: “phương tiện có nhiều cửa, quy nguyên tánh chẳng hai”.
       Tóm lại trong 49 năm đều tùy thứ tự căn cơ lớn nhỏ, sâu cạn, nên nói kinh giáo chẳng nên vượt bực. Mong mọi người nên biết rõ, chớ cho là lời tầm thường.
       Phật vì một đại sự nhân duyên xuất hiện ở đời, nghĩa là khai thị cho chúng sanh tri kiến Phật, khiến họ ngộ nhập. Chỉ một việc này thôi chứ không còn gì khác. Một đại sự là muốn chúng sanh biết sanh tử là một việc lớn. Tri kiến Phật tức là Phật tánh sẵn có của mỗi một chúng sanh, do mê Phật tánh này mà thành sanh tử; nay muốn ra khỏi khổ sanh tử, thì phải lấy sự ngộ tri kiến Phật làm nghĩa đầu tiên. Như thế há chẳng phải Phật chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật ra khỏi thế gian sao? Như thế thì Thiền đạo chỉ một đường ngộ tâm, chẳng phải đợi đến Đạt Ma từ tây sang. Nhưng Phật đặc biệt vì việc này mà ra đời, mà đâu dè chúng sanh nhiều kiếp đến nay, tham, sân, si, ái, phiền não, ác kiến, mê mờ quá sâu; chẳng kham chỉ nagy cho đại pháp ngộ tâm. Nên ngài đem pháp Nhất thừa chia ra làm ba, do đây nên mới có bày ra thứ lớp tam thừa, nghĩa là tiểu thừa, trung thừa, đại thừa. Cho đến có người không kham nổi pháp tiểu thừa thì ngài bày ra ngũ giới, thập thiện là thiện quả trời người, để họ khỏi đọa vào cái khổ của 3 đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nên nói: “Chẳng giữ ngũ giới thì đường Nhân Thiên bị cắt đứt”. Nay chúng ta là đệ tử Phật, tuân theo Phật dạy, lấy độ sanh làm sự nghiệp. Nếu không dùng phương tiện thứ lớp, dẫn dụ người vào đạo, rồi một ngày nào đó, đem đại pháp dạy họ thì ngược lại sẽ khiến họ sanh nghi báng, tự rước cái khổ tam đồ, đó là đem đề hồ làm thành độc dược, lỗi do không rành dẫn đường. Nên chúng ta tuân theo lời Phật chế, thiện nam tử tại gia gọi là Ưu-Bà-Tắc, nữ thì gọi là Ưu-Bà-Di, nên giữ giới để tu quả lành Trời Người.
       Năm giới của người tại gia là:
       1./ Không sát sanh (giới này cảm quả báo đời sau trường thọ và được quyến thuộc hòa hợp, hiện tại có con cháu hưng thạnh).
       2/ Không trộm cắp (phàm cái gì không cho mà lấy đều là trộm. Giới này cảm quả báo sau được giàu có, ăn mặc đầy đủ, cầu được như ý).
       3./ Không tà dâm (chẳng phải vợ mình mà sanh dâm dục gọi là tà dâm. Giới này cảm đời sau được vợ trinh lương, cha lành con hiếu, quyến thuộc lục thân hòa hợp).
       4./ Không nói dối (phàm nói không đúng sự thật, gây chia rẽ hai bên, gọi là vọng ngữ. Giới này cảm quả báo đời sau, trí huệ hơn người, lời nói chân thật, ai nghe cũng tin, theo lời dạy mà làm).
       5./ Không uống rượu (Rượu làm hôn mê, rối loạn tâm tánh, phát cuồng sanh họa, là gốc của nghiệp ác. Giới này cảm quả báo vị lai, trí huệ minh đạt, sự thấy biết siêu việt).
       Trên đây là năm giới, khi Phật ra đời, lúc ban đầu vì người tại gia ở đời, đặc biệt đặt ra lời dạy này khiến người y theo giới tu nhân thì chẳng phụ đời này, khỏi đọa đường ác, mà còn có thể cảm đời sau không mất thân người, được sống lâu, giàu có con cháu, gia đạo hưng thịnh, văn minh thành đạt. Phàm đời nay, những người chức cao, quyền trọng, phú quý phong vinh, thông minh lợi đạt, đều là do giữ năm giới mà được. Năm giới này cũng là ngũ thường của nhà nho, bất sát là nhân, bất đạo là nghĩa, không tà dâm là lễ, không uống rượu là trí, không nói dối là tín. Nên Phật pháp phụ giúp cho vương đạo đem năm giới giáo hóa mọi người thì không tranh tụng, bớt hình phạt, nhà được an ổn, phong tục được thuần mỹ.
       Đây là lời Phật bày nghi thức đầu tiên để giáo hóa chúng sanh. Nay người thế tục chẳng biết Phật pháp, toàn là người không có tâm thích thiện, mà nghịch lại sanh cái thấy báng Phật, báng pháp, báng tăng. Đó là tự mình cam chịu ngu mê, tự ôm đường khổ. Lại có một hạng người tuy có thể ăn chay, ăn rau mà không biết con đường tu hành chơn chánh của Phật pháp, lại nghe theo người tà vô vi, ngoại đạo, chẳng kính Phật Tổ, Trời Đất, chẳng hiếu để với cha mẹ, không đốt hương, lễ báo Tam Bảo, chỉ chuyên theo tà hạnh, tà thuyết, người mù dẫn bọn mù, tụ họp nói bậy, cho là truyền pháp, họ hoàn toàn không biết có con đường tu hành chơn chánh, mà ngược lại báng Phật Pháp tăng, chấp cứng không giáo hóa được. Đây là người quá sức ngu si, là người đáng thương xót! Nay chúng ta vâng theo chiếu chỉ, chính đây là những điều đang cấm.
       Cúi mong các bậc cao minh quân tử ở đời, hãy biện rõ tà chánh, phải trái. Phàm gặp bọn này, hãy nên khai thị cho họ bỏ tà chánh, không những hộ trì Phật pháp mà còn hỗ trợ vua cai trị. Học tà, học chánh đều là một niệm tâm lành. Đáng tiếc vì chẳng biết là tà, mà lầm đọa. Nay nếu biết là trái, sao lại không bỏ bọn tà mà mà làm người hiền lành chơn chánh, làm lương dân của đời Thánh?
       Năm giới trên là Phật dạy tu nhân quả nhân đạo, ngài lại bày đường mười nghiệp-thiện, là nhân quả nhân thiên. Mười điều thiện là:
       1. Ba nghiệp ác của thân: sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Nếu dứt được 3 điều ác này thì gọi là 3 đường thiện.
       2. Bốn nghiệp ác của miệng: nói láo, ỷ ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, nếu đoạn được bốn điều này gọi là bốn đường lành.
       3. Ba ác nghiệp của ý: tham, sân, si. Nếu đoạn ba điều này gọi là ba đường lành. Mười điều ác trên, người đời làm hằng ngày mà chẳng biết. Nay nếu có thể dứt mười điều ác này thì gọi là thập thiện; là nhân để sanh thiên. Đó là người thuần thiện. Mười điều thiện này chính là đạo chánh tâm, thành ý, tu thân của nhà nho. Nếu quả có thể tu điều này, thì hiện đời là Thánh, là Hiền và nhất định cảm đời sau sanh ở thiên cung, hưởng cái vui thắng diệu. Đây thật sự muôn ngàn lần là hạnh chơn thật. Người đời vì sao ngu mê chẳng biết, lại chuyên hướng theo tà đạo mà làm cho được? Há chẳng phải cô phụ tâm này sao?
       Ngũ giới, thập thiện ở trên là đức Phật của chúng ta đặc biệt vì người tại gia ở đời, bày ra kinh giáo muốn người y theo đây tu nhân thì chẳng mất phước của trời người. Đây là lời tuyên dạy từ kim khẩu của Phật chẳng phải lời bàn hư vọng. Nếu không tuân theo đây mà tu, thì đều là tà đạo, chẳng phải là chánh hạnh. Tuy chịu khổ tâm tu-hành mà đều không lợi ích, ngược lại còn tăng thêm quả khổ. Đây là dùng khổ bỏ khổ. Đức Phật chúng ta đã đau khổ với nó quá kỹ rồi. Nay người đời có năm bộ kinh, sáu cuốn sách, chính là ngoại đạo, tà nhân mà xưng càn là sư trưởng, lén trộm ngôn cú của Phật Tổ, góp nhặt loạn xạ những lời quê mùa ca vè thế tục để ngu hoặc dân. Đó là người tà đạo làm loạn chơn lý. Nay thánh-chỉ cấm chính đều là bọn này. Người tại gia đã có lòng yêu điều thiện, sao chẳng quy y Tam Bảo mà đem cái thấy tự ỷ thế trí thông minh lanh lợi rồi sanh tâm ma hạ liệt, coi thường ngũ giới, thập thiện, chẳng thèm làm, cho ưa thích thiền là tối thượng thừa, chẳng tu ba nghiệp bèn đem công án hiện thành của tổ sư, xem xong vài tắc, ghi nhớ trong bụng rồi ưa lợi khẩu, khoái dùng cơ phong cho đây là diệu ngộ của chính mình, hoàn toàn chẳng biết là trái. Hơn nữa lại phỉ báng kinh điển đại thừa, cho là văn tự chẳng để tâm, cười tăng chân tu thật hành cho là tiểu thừa, vọng khởi các thứ tà kiến, hoàn toàn chẳng tin có nhân quả tội phước, thậm chí khinh mạn Phật, khinh mạn pháp, khinh mạn tăng, họ đâu chẳng biết tự rơi vào hầm nghiệp chướng ngu mê, vợ con xúm lại, đủ các khổ nhiệt não đốt cháy, mà vọng chỉ trước mắt là đạo. Người ngu si như thế là người rất đáng thương xót! Mình đã có một niệm tâm hướng thượng, sao chẳng chân chân thật thật, hành công phu đứng đắn? Đó là chỗ nói: “Nói được mười phần, chẳng bằng hành được một phần”, cứ nói bậy như thế, ví như người nghèo mà vọng xưng đế vương, tự chuốc tội bị tru lục, không đáng buồn sao? Xin khuyên các bậc thiện lương ở đời, người thông minh lợi căn có chí ra khỏi sanh tử, nên tự lượng căn khí của mình, tham thiền chắc chắn là một đường hướng thượng, vì đây là Phật Tổ chuyên vì người thượng-thượng-căn mà nói. Các người hãy tự mình kiểm điểm xem có phải là bậc thượng-thượng-căn không? Quả có thể ngay đây liền rõ hết sanh tử trăm kiếp chăng? Nếu căn mình chẳng phải là thượng thượng thì nên lượng sức chính mình chuyên tâm tu môn Tịnh Độ, hồi hướng về Tây Phương, nguyện sanh về Cực Lạc, bỏ hẳn cái khổ ở Ta-Bà. Một pháp môn này, người từ xưa tu nhân, tăng tục theo đây ra khỏi sanh tử không thể đếm hết. Chỗ nói: “Vạn người tu vạn người đi” rất là ổn đáng, là đại pháp môn một mảy chẳng lầm. Tổ Sư nói: “duy có đường tu hành tắt, chỉ niệm A-Di-Đà Phật”. Vì pháp môn này hoàn toàn không làm người lầm lạc. Nếu có thể buông hết thân tâm, theo đây tu hành, có quy tắc nên thực hành, tôi lược dạy ở sau đây:
       Một môn Tịnh Độ, thường thường các bậc sĩ đại phu bàn luận đều cho là vì người trung hạ căn mà đặt ra. Nhưng không biết môn này nhiếp hết cả ba căn, không cơ nào chẳng thấu, rất là quảng đại. Hơn nữa vừa đơn giản lại dễ thực hành. Ngay các tổ sư ngày xưa, sau khi ngộ đạo, người hồi tâm hướng về Tịnh Độ không phải ít, như các đại Tổ sư Vĩnh Minh, Trung Phong v.v... chẳng phải chỉ một người. Nhưng tu hành niệm Phật có 3 căn thượng, trung, hạ, chẳng đồng, nên cửu phẩm ở Tịnh Độ cũng nhận nơi căn cơ mà có khác biệt.
       Tịnh Độ có 3 loại:
       - Thường Tịch quảng độ
       - Thật báo trang nghiêm độ
       - Phương tiện hữu dư độ. Đây tức là phàm thánh đồng cư độ.
       Và ba cõi này tu nhân không đồng, nên chỗ cảm khác biệt. Nay tôi thử nói sơ lược.
       + Thường tịch quảng độ: tức là ở kinh Viên Giác nói Đại Quang Minh tạng. Trong đây phàm thánh bình đẳng, y báo và chánh báo không phân biệt. Chỉ có pháp thân Phật trạm nhiên thường tịch, là cảnh giới chứng pháp thân của chư Phật. Đây chỉ có chư Tổ từ trước một niệm ngộ ngay pháp thân, diệu khế đồng thể, nhập vào cảnh giới Phật ở. Đấy chính là Tịnh Độ của người thượng thượng căn. Há có thể coi thường là vì người trung, hạ mà lập.
       + Thật báo trang nghiêm độ: Đây tức là 20 lớp thế giới Hoa Tạng, là cõi vi diệu của Phật Lô Xá Na của chúng ta, do tu hành khoáng kiếp chiêu cảm xứng với lượng pháp giới vô tận trang nghiêm như Hoa Nghiêm nói: Trùng trùng vô tận thế giới trang nghiêm”. Đây là chỗ ở của Báo Thân Phật, là cõi tịnh độ của bậc Bồ tát Thập Địa chuyển đại pháp luân, là chỗ mà nhị thừa thanh văn chẳng thấy, chẳng nghe. Đây tức là những người được thọ ký trên hội Pháp Hoa, đợi tu nhân nhiều kiếp, tương lai sẽ cảm ứng Tịnh Độ một phần trong cõi này. Đây đâu phải chỗ hạng tầm thường dễ dàng đến được!
       + Phương tiện hữu dư độ: Cũng gọi là Phàm Thánh đồng cư độ. Đây chính là cõi hóa độ của Phật A-Di-Đà, có 9 phẩm phân biệt. Vì thế giới Hoa Tạng có 20 lớp. Từ lớp thứ nhất có vi trần số thế giới cõi Phật vây quanh, dưới nhỏ, trên lớn, như cái tháp lật ngược. Từ đây trở lên càng tăng gấp bội, đến lớp thứ 13 thì cõi ta bà này là cõi nằm ở trung tâm. Cõi Cực Lạc và Ta-Bà bằng nhau. Từ giữa đến bên má hoa lá là phía Tây, nên nói qua 18 ngàn cõi Phật là kể luôn cõi Ta-Bà, vì cõi Phật mười phương chỉ có Ta Bà là cực ác, đất, đá, cát, núi, dơ bẩn tràn đầy, tam đồ bát nạn, các khổ nhóm họp nên gọi là kham nhẫn, chúng sanh cang cường rất khó điều phục. Nên đức Phật Thích Ca chúng ta, dù đem thập-thiện để giáo hóa dẫn đạo nhân thiên mà chúng sanh vẫn chìm trong sanh tử chưa ra khỏi luân hồi. Nếu có tham thiền ngộ tâm, cũng lại rất khó ngộ ngay, nên ngài thiết lập một môn cầu sanh Tịnh Độ gọi là vượt ngang ba cõi. Vì nương sức nguyện trong nhân của Phật A-Di-Đà rằng:
       “Chúng sanh trong mười phương thế giới, nếu có người niệm danh hiệu tôi, mà không sanh nước tôi, thì tôi thề chẳng thành Phật”. Vì nương nguyện lực này, hễ ai niệm Phật thì Phật Di-Đà nhất định đến tiếp dẫn được sanh vào cõi Tịnh Độ kia. Cho nên dễ sanh. Nhưng Tịnh Độ này mở ra 9 phẩm. Nếu người tham thiền ngộ tâm mà chưa thể quên tâm cảnh thì sanh thượng thượng phẩm. Có người niệm Phật nhất tâm chẳng loạn thì sanh thượng trung phẩm. Có người tham thiền chưa ngộ mà trì danh tinh thuần, vạn hạnh trang nghiêm thì sanh thượng hạ phẩm. Nếu người tu vạn hạnh, trì kinh đại thừa, chuyên trì danh hiệu, chí nguyện vãng sanh thì sanh trong ba phẩm trung.
       Có người tinh trì ngũ giới, thập thiện chuyên tâm niệm Phật, phát nguyện hồi hướng, chẳng kể tăng hay tục, phần nhiều sanh ba phẩm hạ. Đây tuy chưa đoạn phiền não, mà nếu được sanh nước đó, gặp Phật, nghe pháp, cũng ở địa vị bất thối chuyển, nhất định không rơi vào ba cõi sanh tử. Rồi từ đây phát nguyện trở lại ba cõi để độ sanh, thì đến đi tự tại, chẳng bị sanh tử khổ não níu giữ. Do đó thiền sư Vĩnh Minh nói: “Nếu được thấy Di Đà lo gì không khai ngộ”. Một pháp môn này, một đời tinh thành có thể xong. Đã sanh lên đó rồi sẽ chóng thoát sanh tử, ra khỏi hẳn luân hồi. Pháp môn thẳng tắt như thế, lại còn lo gì nữa mà không chịu tu, còn coi thường nó ư! Tham thiền liễu sanh tử khó, còn niệm Phật liễu sanh tử dễ, chỉ cần chúng ta một niệm tâm chân thật, chịu cực khổ thiết tha thôi. Người từ xưa sanh Tịnh Độ vô lượng, vô số đều là người đời mắt thấy được, nếu không tin thì có pháp nào đáng tin nữa? Nay kính khuyên bậc cao minh trí sĩ nên tin tự tâm, chẳng nên tin lầm thuyết tà. Ở trong pháp môn này, người thiền tịnh kiêm tu rất nhiều. Như Vĩnh Minh nói: “Tham thiền niệm Phật, niệm Phật tham thiền”:
       Có thiền, có tịnh độ
       Ví như cọp mang sừng
       Hiện đời làm thầy người
       Tương lai làm Phật, Tổ.
       Đây cũng là hạnh tối thượng cùng với người vọng xưng ngộ đạo đọa vào tội đại vọng ngữ, cách nhau một trời, một vực. Chỉ vì tất cả chúng sanh tự mê Phật tánh sẵn có nên đọa lạc vào 3 cõi sanh tử, luân hồi trong sáu đường khổ nạn, suốt kiếp trầm luân, chẳng xa lìa được. Tất cả đều do tham, sân, si, ái, tạo chứa các ác nghiệp dâm, sát, trộm, vọng ngữ, rồi xả thân lại thọ thân. Tất cả đều vì dâm dục mà nhận tánh mạng, đời đời, kiếp kiếp, cha mẹ, vợ con, lục thân quyến thuộc, ân ái buộc ràng. Bị ngọn lửa lớn trong 3 cõi thiêu đốt, không người nào thoát khỏi được. Nên đức Bổn sư Thích Ca chúng ta ở cõi Thường Tịch Quang hưng khởi tâm đại bi cứu khổ, xả bỏ pháp lạc của tự tánh, từ trời Đâu Suất giáng xuống vương cung, nhập vào thai mẹ, rồi ngài lại bỏ cha mẹ, vợ con, đoạn dứt ân ái thâm trọng của thế gian, bỏ ngay ngôi vua Kim Luân, chạy vào núi Tuyết, cạo bỏ râu tóc, chịu đói lạnh suốt sáu năm, hành trì khổ hạnh cho đến ngày ngộ đạo thành Phật. Đây là một lối vì sanh tử xuất gia bậc nhất. Rồi sau khi thành Phật ngài lại bị ma hại, chịu nạn kim thương, mã mạch, các thứ kham nhẫn vứt bỏ thân mạng, chịu hết vô lượng nạn ma oán, thuyết pháp 49 năm. Chỉ là một niệm từ bi vì muốn độ chúng sanh, cứu họ ra khỏi khổ mà thôi. Chỉ một việc này chớ không còn việc nào khác, nên 1250 đệ tử trên hội Linh Sơn đều là những bậc anh linh hào kiệt một thời, học hạnh của Phật, ai nấy đều xa lìa cha mẹ, vợ con, ân ái thế gian, nương Phật tu hành, rồi liễu ngộ ân ái, được ra khỏi sanh tử, chúng quả A-La-Hán. Như ngài A-Nan là em của Phật cũng theo xuất gia, theo chúng chịu cực khổ. Đây là cách thức độ đệ tử xuất gia của Phật chúng ta.
       Lúc Phật ở đời, đệ tử theo Phật xuất gia, không biết pháp tu hành, nên Phật nhân sự việc mà thuyết giới khiến dừng ác, ngăn sai, được sự huân tu chơn chánh. Vì vậy người mới xuất gia gọi là Sa Di, Phật đặt 10 giới, cho đến tỳ kheo thì Ngài đặt 250 giới. Đàn bà xuất gia gọi là tỳ kheo ni, Ngài đặt 500 giới. Cho đến quốc vương, đại thần, tể quan, cư sĩ cùng những người tại gia, xuất gia, tứ chúng tiến tu đại giới Bồ Tát thì có kinh Phạm Võng, ngài thuyết 10 giới trọng, 40 giới khinh, các giới luật này là gia pháp của pháp môn Phật. Nên nói: “Nếu người nào thọ giới của Phật tức là vào địa vị chư Phật”. Nếu làm tăng mà không thọ giới thì người ta gọi là ngốc tặc, ăn trộm cà-sa của Phật, bán đứng Như Lai chớ chẳng phải đệ tử Phật. Làm tăng vâng theo Phật pháp như thế thật chẳng phải dễ. Lúc Phật ở đời, tuổi thọ con người là một trăm tuổi. Phật đáng lý thọ một trăm năm, vì nghĩ đến đệ tử đời mạt pháp vô phước nên ngài chỉ trụ thế 80 năm; lưu lại phước của 20 năm chưa hết cho con cháu đời sau. Nên nay các đệ tử được cúng dường tứ sự đều là thọ dụng một phần công đức trong ánh sáng bạch hào của Phật, tức là cọng rau, hạt gạo của thí chủ, một phân một hào của thí lợi đều là phước điền còn sót lại của Phật. Nay người vào làm tăng trong pháp môn mà lại không hề biết Phật là người nào, cũng chẳng biết mình làm việc gì? Chẳng biết vì sao bỏ cha mẹ, vợ con, cạo bỏ râu tóc, không ở nhà thế tục mà vào ở chùa? Lại cũng chẳng biết rằng mình không cày cấy, không dệt sợi mà cơm áo từ đâu tới? Chỉ cho rằng chính mình có khả năng, đi quyên hóa thí chủ cúng dường, mà lại không biết lòng tin của thí chủ, máu mủ khó tiêu, tương lai phải kéo cày, lôi bừa, đeo hàm sắt, mang yên, chịu bao nhiêu khổ để trả nợ. Đây là mọi người nhất tề mê muội mà chẳng biết, nếu cứ thọ dụng như thế mà có giữ giới hạnh sơ sơ, trì kinh niệm Phật, giữ bổn phận thì cũng tạm được. Huống lại hoàn toàn không biết tăng thể, chẳng thọ giới hạnh, phóng túng thân tâm phan duyên theo thân thuộc thế tục, ra vào không úy kỵ, chẳng tránh sự chê cười gièm pha cho đến vi phạm pháp cấm, hoàn toàn chẳng biết là trái, lại không phải chỉ có một loại. Trọn không biết vì sao xuất gia, vì sao xả tục, vì sao cạo bỏ râu tóc? Chẳng những không biết việc tu hành, mà ngay cả tâm thắp hương lễ Phật, kính thờ Tam Bảo, tuyệt nhiên quên mất, hỗn độn một đời, sống say chết mộng. Hoàn toàn chẳng biết con đường chân chính tu hành, mà có gặp ai tu thì ngược lại cho là trái. Đây thật là người rất đáng thương xót! Phật nói: “Tam đồ, địa ngục, chưa phải là khổ, dưới lớp áo cà sa mà mất thân người, mới thật là khổ”. Tóm lại là chẳng biết tăng là gì? Nên kinh Tứ Thập Nhị Chương nói:
       Phật bảo: “Tỳ kheo các ông! Mỗi buổi sang nên tự vò đầu”. Nếu chịu tự vò đầu thì phản tỉnh chính mình thật không còn râu tóc. Vì không biết quy củ xuất gia của Phật pháp, nên thầy không thành thầy, đệ tử cũng chẳng thành đệ tử, trên dưới đoạn dứt phận, cùng bầy cầm thú, chỉ biết sự cấp thiết của ăn mặc mà hoàn toàn chẳng biết việc sanh tử; chẳng sợ có cái khổ tam đồ ở tương lai. Thế gian do thói quen này trở thành phong tục và cho là việc thường. Còn có người bỏ làng đi hành khước khắp nơi, mà cũng chỉ biết có cơm cháo ở tòng lâm, chứ mờ mịt chẳng biết có Phật pháp thiền đạo. Đây lại thật là người rất đáng thương xót! Tuy nhiên, trong ấp có mười nhà, thì chắc chắn có người trung tín. Nay ở các núi hiện tại há không có bậc anh-linh hào kiệt sao? Ở mỗi phương, nếu có một hai người chịu phát tâm hưng khởi, tự nhiên có cơ hội chuyển hóa. Vì thế nay tôi chỉ mong các bậc có chí trụ ở chùa, mỗi người nên suy nghĩ xét mình quay đầu về, nên nghĩ đến việc lớn sanh tử, thống thiết sửa đổi lỗi trước, phát khởi một niệm tâm hướng về đạo. Sự phát tâm ban đầu, trước cần tham thỉnh thiện tri thức là thọ mười giới Sa Di. Nếu giữ mười giới không phạm thì tiến lên 250 giới của Tỳ kheo, mỗi mỗi giới điều đều cẩn thận kiểm điểm cho đến tiến lên thọ giới Bồ Tát. Vì Phật thiết lập giáo pháp lấy tam-học Giới-Định-Huệ làm căn bản Phật pháp, nghĩa là nhân giới sanh định, nhân định sanh huệ, đó là 3 vô lậu học. Các giới tướng ghi đủ trong giới kinh, mời mọi người tự kiểm xem chẳng kể kỹ. Sau khi có thể thọ giới rồi, chẳng kể là ở một mình hay theo chúng, nhất định cần mỗi nửa tháng đến trước Phật tụng niệm giới phẩm. Ai có hủy phạm thì đối trước chúng sám hối, sửa lỗi bản thân, thì thân tâm thanh tịnh, nghiệp chướng được tiêu trừ. Đó là điều cốt yếu ra khỏi khổ não. Ai đã có thể trì giới là gốc tu hành thì nên gần gũi Phật pháp, dù không ra khỏi cửa, đi nơi khác nghe giảng, cũng nên tự mình phát tâm chuyên nhất trì tụng các kinh đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Viên giác, Lăng Nghiêm để trồng nhân duyên Bát-Nhã, hoặc ai có chí chuyên tu một môn Tịnh Độ thì lấy niệm Phật làm hạnh chánh, tụng kinh đại thừa làm hạnh trợ giúp, 6 thời phát nguyện hồi hướng, cầu ra khỏi đường khổ sanh tử. Như thế mới không phụ nhân duyên lớn lao của người xuất gia; cũng chẳng trôi suông đời này. Nếu người có căn thượng thượng, phát tâm thoát ly nghiệp đời, đi các nơi tham thỉnh tri thức, chí muốn tham cứu đến cùng đại sự sanh tử, chỉ cần đề lên một niệm thôi, chẳng cần cầu bên ngoài. Đây là căn khí tối thượng nhất thừa. Nhưng nếu, phát tâm tự nhận, nhất định có lúc phát minh liễu ngộ, thì do căn khí mỗi người, chí hướng thế nào.
       Như trên đã nói, trì giới, tu hành, tụng kinh, niệm Phật tuy chẳng thể chóng ngộ tự tâm mà cũng không bỏ phí thời giờ, cũng chẳng phụ duyên xuất gia. Nếu cứ nhởn nhơ buông lung thì đến chết cũng chẳng thành. Chẳng đáng thương lắm sao? Qua suông đời này, đọa lạc vào tam đồ, thì tương lai chẳng biết bao giờ mới ló đầu ra được.
       Như trên đã nói, pháp tu hành của người xuất gia và tại gia, tuy cạn sâu không đồng, là pháp Phật thuyết trong 20 năm đầu. Phật thuyết pháp 49 năm, pháp được thuyết có 3 thừa là tiểu, trung, đại thừa. 20 năm đầu chỉ nói hữu giáo gọi là tiểu thừa, Phật nói có cái khổ sanh tử trong 3 cõi có thể ra khỏi, có Niết Bàn Nhị thừa có thể cầu, có nhân quả cõi lành Trời Người, có nhân quả ác nghiệp tam đồ, tất cả các pháp là thực có nên nói pháp tứ đế. Đế tức là thực. Tứ-đế là bốn pháp khổ, tập, diệt, đạo là thực, thực có khổ có thể thọ. Tập là tham, sân, si, ái, phiền não. Ngài nói phiền não này là nhân của các khổ, hay chiêu quả khổ nên nói thực, thực có tập của phiền não có thể đoạn. Diệt là Niết bàn thiên không của Nhị thừa, vượt ra ngoài 3 cõi. Do ra khỏi sanh tử, chứng được Niết Bàn này, nên nói là thực, thực có Niết Bàn có thể chứng. Đạo là phương pháp tu hành, là chỗ tu của nhị thừa: chán khổ, đoạn tập, mộ diệt, tu đạo. Nghĩa là bát bối xả, ngũ đình tâm quán: quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, lại có quán tổng tướng niệm, biệt tướng niệm v.v... Đây gọi là pháp tu ra khỏi khổ của người tiêu căn, là tiểu thừa giáo.
       Lại có một hạng căn khí có chút lanh lợi gọi là trung thừa, tức là Phật mở rộng tứ đế trước, thuyết pháp thập nhị nhân duyên: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữa, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, ưu bi, khổ não. Đó gọi là 12 hữu chi. Mười hai chi này gồm nhân quả ba đời: quá khứ 2 chi nhân là vô minh, hành; hiện tại năm chi quả từ thức đến thọ; hiện tại ba chi nhân là ái-thủ-hữu; vị lai hai chi quả là sanh-lão tử ưu bi khổ não. Duyên là dẫn nghĩa là nhân quả luân hồi ba cõi, dẫn dắt lẫn nhau mà có. Vì người căn cơ bậc trung quán 12 nhân duyên này có 2 môn lưu chuyển và hoàn diệt. Nghĩa là từ vô mình đến lão tử v.v... là môn lưu chuyển. Nếu vô minh diệt thì 12 hữu chi đều diệt là môn hoàn diệt. Quán ngược xuôi như thế thì ngộ sanh vô sanh. Chứng quả Bích Chi Phật, Độc giác là pháp trung thừa vậy. Pháp nhị thừa này, Phật thuyết trong 20 năm vì những người căn cơ chậm lụt không kham thọ đại thừa. Nên là quyền tạm. Sau 20 năm này, căn cơ dần dần thông thái, Phật mới thuyết đại thừa Bồ Tát tu pháp Lục độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục tinh tấn, thiền định, trí huệ. Sáu độ này là chỗ tu của Bồ Tát đại thừa, gọi là Đại Thừa. Nếu tu sáu độ này, riêng vì “hạ độ chúng sanh, thượng cầu Phật quả”. Pháp lục độ này lấy Bát Nhã làm chủ, nên thời thứ hai Phật thuyết kinh Bát Nhã có 22 năm, kinh này nhiều nhất, đem qua Trung Hoa có 8 bộ Bát Nhã cộng 600 quyển. Kinh này hoàn toàn nói về trí huệ chân không Bát Nhã, phá cái hữu kiến về Niết bàn sanh tử của Nhị thừa, bàn rộng về Lục độ cho đến các pháp tứ đế, thập nhị nhân duyên đều lấy Bát Nhã chơn không làm cực tắc, đào thải cái thấy “chấp có” trước, như tâm kinh Kim Cương, đều là tông cực của Bát Nhã. Vì Nhị thừa trước chấp không là thiên không, nghĩa là cái không đoạn diệt. Nay Bát Nhã là thật tướng chơn không, do Phật thuyết tam quán: không, giả, trung là diệu môn thành Phật. Chỉ một bộ kinh Bát Nhã này thuyết riêng một không quán, nên là cửa đầu tiên nhập vào đại thừa, là diệu pháp tu hành của Bồ Tát. Bát Nhã là tiếng Phạn, đây là trí tuệ, vì thế Bồ Tát lợi ích chúng sanh, lấy trí tuệ làm đầu. Chỗ nói: không trí huệ thì bị phương tiện cột, có huệ thì phương tiện mở. Nhưng một môn không quán này tuy ghi trong 8 bộ Bát Nhã, ký thực rất mau tắt, thiết yếu. Chỉ ở tâm kinh đã gồm đủ 14 hạnh nghiệp, một cuốn tâm lại riêng ở một câu “chiến kiến ngũ uẩn giai không” đã đủ hết nghĩa. Trong câu này, nếu hạ thủ công phu thì chỉ ở một chữ “chiếu” mà thôi. Đây là pháp môn tối giản yếu. Nhưng thiền môn tu hành, công phu dụng công ban đầu chỉ một chữ “chiếu”, tức là “pháp môn một chữ”. Phật đợi đến 30 năm mới nói. Xem đây thì pháp tu tâm há chẳng phải là chuyện phàm phu tầm thường dễ tu hành sao? Pháp môn một chữ này là dạy cho Bồ Tát, là pháp đặi thừa vậy.
       Bổn hoài xuất thế của Phật chỉ là muốn cho tất cả chúng sanh thành Phật, chớ không vì gì khác. Tức là 49 năm thuyết thời giáo một đời, nay là một đại tạng kinh. Thảy đều là pháp môn học thành Phật. Phương tiện thành Phật chỉ có Lục độ vạn hạnh, đủ nhiều thứ cửa mà ý chính chỉ có tam quán là căn bản thành Phật. Tam quán là không, giả, trung đạo. Một đời giáo hóa chỉ thuyết ba quán này. Từ trước cho đến khi thuyết Bát Nhã là vừa mới thuyết xong một môn không quán. Như thế thì biết pháp chẳng phải dễ thuyết, cũng chẳng phải dễ vào. Trên hội Bát Nhã, những người Nhị thừa nghe pháp trong hội, đều cho Bát Nhã không phải thuộc về trí của mình, hoàn toàn không để ý, huống là đích thân nhận lời Phật dạy. Đã 30 năm mà còn chẳng tin, chẳng nhập. Như hiện nay bọn phàm phu ác nghiệp, miệng miệng nói không, vọng nói pháp không, không Phật, không Tổ, không tu, không chứng, rồi tự xưng mình là những căn cơ thượng thượng, há chẳng phải quá dối lừa người. Nhưng Phật đã thuyết Bát Nhã chân không, rồi sau mới thuyết quán giả. Một môn quán này có nói trong kinh Giải Thâm Mật, nói về pháp môn Duy Thức, nghĩa là vì mê Như Lai tàng gọi là A-lại-da thức, nương thức Lại da này đầy đủ 3 phần, biến ra căn, thân và khí giới, tất cả đất đai sông núi, chúng sanh, thế giới. Đó là pháp giả, là cảnh giả, chỉ có thức biến, như bóng trong gương, như trăng đáy nước, tuy có mà chẳng thực, nên gọi là giả.
       Hỏi:
       Nhưng Phật vì sao mà quán giả?
       Đáp:
       Do trước, người Nhị thừa chấp Niết Bàn cho là có thực, rơi vào thiên không, nên Phật thuyết Bát Nhã là Chân Không. Để phá cái kiến chấp có, nên quán thực tướng Bát Nhã Chân Không. Lại có một loại Bồ Tát ưa cái không tăng thắng, chấp chỉ riêng không mà không nhập vào cái có (thiệp hữu), chẳng chịu độ sanh. Nên Phật thuyết tất cả chúng sanh, thân, tâm, thế giới đều chỉ có thức biến hiện, toàn là pháp giả, dùng pháp môn duy thức này hội Có-Không; ngài muốn hiển bày cái Có-tức-Không, cái Không-tức-Có, quán thẳng duy thức để chứng Chơn Như. Đây là pháp môn dạy Bồ Tát, trước ra khỏi Không nhập vào Giả để độ sanh. Nên một môn quán này, có kinh Giải Thâm Mật v.v... Lúc thuyết kinh dành cho Bồ Tát đại căn, đã có thể tin nhận. Còn Nhị Thừa tiểu căn, rốt cuộc chẳng dám vào cõi tục lợi sanh. Vì thế Phật thuyết kinh Duy Ma, đem cư sĩ Tịnh Danh để thị hiện việc ở thế tục có vợ con, quyến thuộc, tạm mượn nhân duyên thăm bịnh cùng Văn Thù đối đáp pháp môn bất nhị, quở trách Nhị thừa để kích phát tâm nhập tục độ sanh.
       Kinh này gọi là chê thiên, trách tiểu, khen đại, tán viên. Vì tiểu thừa chẳng nghĩ lường pháp môn, cứ khư khư cái thấy nhỏ hẹp của nhị thừa. Ở đây Phật rất mực từ bi vì người căn cơ nhỏ hẹp, dùng các thứ phương tiện quyền xảo, ý muốn dẫn họ vào đại thừa. Như thế thì biết việc Bồ Tát vào tục lợi sanh, chẳng phải người căn cơ thấp thỏi có thể kham được. Công giáo-hóa hơn 40 năm của Phật còn phí phương tiện thần lực như thế. Còn như hiện nay, người đang ở trong biển khổ ngũ trược, phiền não, sanh tử, miệng miệng nói không, đàm thiền, thuyết đạo, tự động cho một việc hướng thượng là trách nhiệm của mình, chê bai chánh pháp, chẳng sợ nhân quả, chẳng biết thương mình, vọng tự dối gạt như thế sao? Vì xem phương tiện quyền xảo của Phật khi lợi sanh, đã khổ tâm biết bao, chẳng dám dễ dàng nói dạy người một chữ thành Phật. Người đời hễ nói thì siêu Phật, vượt Tổ. Như thế thì chẳng phải vọng hay sao? Chẳng đáng sợ sao?
       Phật ra đời thuyết pháp 49 năm, kinh điển gần một đại tạng, đầu đuôi chỉ nói rõ tám chữ “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” từ đầu đến đây, đã trải 40 năm mới thuyết rõ ra được ý nghĩa của một câu “vạn pháp duy thức”. Vẫn còn chưa dám hiển thị ý chỉ duy tâm. Vì duy tâm là cực tắc của vạn pháp. Từ trước đến nay, các đại đệ tử đã nghe pháp môn duy thức, nên từ đây về sau, Phật bèn thuyết kinh Lăng Già để hiển thị pháp môn “tam giới duy tâm”, muốn người ngộ ngay một tâm này, để làm cực tắc. Nên thâu hai “Không Giả” trước, dứt hết hai đế, quay về một tâm. Sau đó viên mãn một tâm, tiêu dung vào trung đạo là lý cứu cánh. Nên kinh Lăng Già nói: “Tịch tịch là nhất tâm”, nhất tâm gọi là Như Lai tàng nghĩa là tàng thức. Tức là Như Lai tàng không phải không, không phải có, chỉ thẳng một tâm lìa danh dứt tướng, tuyệt hẳn thánh phàm, chẳng thuộc giai cấp tu chứng. Chóng quán tàng tánh gọi là cảnh giới Tự Giác Thánh Trí, lìa ngay tất cả vọng tâm phan duyên. Nếu rõ vọng tưởng không có tánh tức ngộ vô sanh. Đó là pháp môn đốn giáo. Tổ sư Đạt Ma truyền cho Nhị Tổ là đại sư Huệ Khả, lấy kinh này làm tâm ấn. Vì thế kinh này dành riêng cho người căn cơ thượng thượng, người Nhị thừa không có phần. Dưới cửa Tổ sư, người mới học tham thiền cần phải lìa tâm-ý-thức mà tham, lìa cảnh giới vọng tưởng mà cầu, ra khỏi đường phàm thánh mà học. Đó là thuần lấy kinh này làm tông cực. Kinh này là thuyết cực tắc của một tâm. Phật đã hơn 49 năm dùng nhiều phương tiện khai thị, trải qua bao nhiêu pháp môn, nay mới thuyết kinh này. Người tiểu căn còn chẳng có phần, mà tăng tục bây giờ giáo nhãn chưa sáng, chẳng biết đường tu hành, mù đui chẳng biết vọng tưởng phan duyên trong tâm của mình hoàn toàn không biết nó khởi diệt bao nhiêu; ngày đêm chưa hề có một niệm thanh lương, mà lấy một việc hướng thượng lìa tâm-ý-thức cho là trách nhiệm của mình, thoại đầu cũng chưa từng mộng thấy mà mở lớn miệng thuyết thiền Tâm tự dối như thế sao? Có thể nói là người rất không biết hổ thẹn, chẳng đáng sợ sao? Chẳng những người đời vô tri nói bậy mà ngay kẻ hậu học, tăng đồ trong pháp môn ta cũng hoàn toàn chưa hề nghe pháp môn Phật dạy tu tâm, hoàn toàn không có chánh kiến công phu dụng tâm. Chỉ có mấy giờ vọng tưởng, hoàn toàn không có chánh kiến, liền xưng ngộ đạo, tự cho là đủ. Thế thì ai dối? Ai lầm? Xin can! Xin can! Cẩn thận! Cẩn thận!
       Sau 40 năm này Phật mới dạy pháp môn Nhất tâm, đủ thấy pháp chẳng dễ nói, chẳng dễ tu, chẳng dễ ngộ.
       Đức Thế Tôn đặc biệt vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời, một đại sự nghĩa là tri kiến Phật của chúng sanh. Vì chúng sanh vốn đủ tri kiến Phật mà nay mê đi trở thành tri kiến vọng tưởng sanh tử, nhiều kiếp đến nay mê đi mà chẳng biết, ví như gã cùng tử ôm hạt châu làm ăn mày uổng chịu cực khổ. Vì vậy Phật hưng đồng thể đại bi, đặc biệt ra đời để khai thị cho chúng sanh, biết mình có tri kiến Phật sẵn có khiến cho ngộ nhập được. Ví như chỉ cho cùng tử hạt châu nằm trong chéo áo, khiến cho y biết được lấy dùng. Nhưng tri kiến Phật tức là Nhất tâm mà kinh Lăng Già thuyết, gọi là Tự Giác Thánh Trí vậy. Phật một bề không dám nói liền, vì quán chúng sanh căn cơ ám độn, không kham nhận pháp này. Nên Phật lặng thinh không lo nói vội điều cốt yếu. Cho đến 40 năm sau, dùng nhiều cách đào thải, căn cơ dần dần thuần thục, việc hóa duyên sắp xong, nên Ngài thuyết kinh Lăng Già, dạy pháp môn nhất tâm để hiển lý cứu cánh. Sau đó Ngài thuyết kinh Pháp Hoa, chỉ dạy thực tướng các pháp, để hiển sự cứu cánh. Đây là thứ lớp Phật thuyết pháp, do sự-lý rốt ráo mới biết được cực tắc của một tâm. Vì vậy các người Nhị thừa đến lúc này mới tin tâm Phật quyết định, không còn nghi, cũng ngộ được Phật tánh sẵn có của mỗi người, chắc chắn chẳng mất, ví như cùng tử lâu ngày bỏ trốn qua nước khác, nay mới trở về gặp cha, cũng tin gia nghiệp của cha đều là của mình. Thân tâm đều tin nhận, có thể kham nối nghiệp nhà, nên được trưởng giả giao phó tài sản cho. Người ta thường nói một kinh Pháp Hoa này như ông trưởng giả viết chúc thư giao phó việc nhà, chính là bổn hoài cứu cánh của Phật lúc lợi sanh. Vì thế Phật bảo các đệ tử, thọ ký cho từng người, tương lai nhất định thành Phật. Lại nói: “Phàm có người nghe pháp, tất cả đều thành Phật”. Một đại sự nhân duyên này của Phật đã xong, gọi là chung giáo, chẳng bao lâu Ngài nhập Niết Bàn. Nhưng ở một thời Pháp Hoa, bổn hoài của Phật xuất thế lợi sanh đã tận. Đến kinh Niết Bàn thì hiển nghĩa Phật tánh, để thâu những cơ chưa hết của Pháp Hoa, và phá cái nghi chưa hết của các đệ tử đến trước, vì Phật thuyết pháp ai đến nghe cũng thành Phật. Đây thì Ngài sợ đệ tử trước đã nghe người Xiển đề không có lòng tin, không cho thành Phật. Nghe điều này sẽ sanh nghi. Vì thế Phật thuyết kinh này, bảo Xiển đề cũng có Phật tánh, mượn hình ảnh đồ tể Quảng Ngạch buông dao đồ tể liền thành Phật. Đến đây tin chắc, phàm người có biết cuối cùng sẽ thành Phật, quyết định không nghi. Như thế mới hết ý nghĩa một phen xuất thế của Như Lai, công việc giáo hóa lợi ích chúng sanh đến đây đã xong. Nên bây giờ nhập Niết Bàn. Như trên đã nói, quy tắc Phật ra đời một đời thủy chung hóa độ chúng sanh, pháp môn thứ tự tu nhân, tuy quán chúng sanh sẵn có Phật tánh, ai ai cũng đầy đủ, không ai không mong thành Phật. Nhưng vì chướng phiền não dày, căn tội nghiệp sâu, Phật chẳng kham dạy ngay đại pháp. Nên ngài đem pháp Nhất thừa phân biệt nói thành ba. Đây là lý do thiết lập nhất thừa và tam thừa. Vì thế trước kinh Lăng Già là quyền giáo tam thừa còn Pháp Hoa, Lăng Già là thực giáo nhất thừa. Nên các nhà Thiên Thai phán định là giáo khai quyền hiển thực. Như thế thì biết 40 năm đầu Phật thuyết quyền giáo vì căn cơ chẳng đồng vậy.
       Như trên đã nói, đốn, tiệm chẳng phải một, để thông suốt giáo nghĩa. Nhưng kinh Lăng Già chỉ ngay một tâm là Như Lai Thanh Tịnh thiền, thì giáo há chẳng phải là thiền tông chăng?
       Đến như Thế Tôn tự nói:
       - “Ta suốt 49 năm không hề nói một chữ”! Rồi cuối cùng đưa cành hoa lên dạy chúng. Cả trăm vạn người đều mờ mịt không hiểu, chỉ có một mình Ca Diếp mỉm cười. Thế Tôn bèn nói:
       - Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn - Diệu Tâm nay giao cho ông.
       Đó là ý chỉ truyền riêng ngoài giáo, từ đây truyền đến A-Nan, cho đến 28 Tổ phương Tây, 6 tổ Đông Độ, Đạt Ma từ Ấn Độ sang được coi là Thiền Tông “chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật” gọi là pháp môn truyền riêng. Nên từ Tào Khê về sau hai phái, năm tông, truyền đăng ghi 1700 người, đều là bậc đại sĩ ngộ tâm. Hễ có ngôn cú thì gọi là công án, vì thiền vốn ly ngôn, chỉ để lại một lời, nửa câu làm chứng cứ ấn tâm, như văn thư ở công đình tại thế gian, chẳng phải muốn người cho đây là pháp thực, đem miệng tai mà truyền bá, cho là tri kiến huyền diệu của chính mình.
       Sự nghiệp của Phật đã nói xong một đại tạng giáo, đến như pháp môn nhất tâm không đầy đủ sao mà phải đưa cành hoa lên để làm tâm yếu? Đó là vì ý chỉ nhất tâm lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên. Vì từ trước, người nghe tuy ngộ bổn tâm nhưng chưa có thể lìa tướng nên cuối cùng mượn cành hoa đưa lên để trừ dẹp tập khí chấp ngôn thuyết, tức là trị bệnh chấp danh ngôn, lấy đây làm cây gậy vàng. Người đời nay chẳng biết ý chỉ giáo thiền một tâm là phương tiện hóa độ chúng sanh của Phật, mỗi người vọng chấp một mối cho là đúng đắn, nên chấp giáo không phải thiền, chấp thiền không phải giáo. Người chấp giáo không phải thiền, dĩ nhiên đi lầm lẫn mà người chấp thiền không phải giáo lại còn lầm quá xa! Vì người chấp thiền là chấp cái ngu của mình, vọng nhận cái thấy của mình đó là tự lầm, lại phỉ báng kinh đại thừa liễu nghĩa cho là văn tự, đến nỗi cứu cánh chẳng thành, thật là người đáng thương. Tôi xem đời mạt pháp này, các nơi giảng đã ít, không có bậc tông tượng cho nên người ít tuổi lanh lợi, không có nghe nhiều, không trí huệ. Dù có người có chí hướng thượng lại không có chí quyết định lâu bền, vì không có bậc trí thức mắt sáng, chỉ có theo đời lừa dối đến nỗi lạc lầm rất nhiều. Đây thật là đáng vì họ mà rơi lệ! Rồi lại có tăng đồ tự cho mình ngộ đạo, cuống hoặc ngu phu thế tục, tham cầu sự cúng dường có ai qui y thì liền khai thị tham thiền làm một đường hướng thượng, có ai tin mình dù họ thoại đầu chưa thuần thục, vọng tưởng tung hoành như nước sôi, cũng ấn chính cho; cho là có chỗ ngộ nhập, đến nỗi làm rơi vào tà kiến. tai hại quá nhiều như thế, không thể không biết sợ hãi mà tự răn mình. Theo ngu kiến của tôi, thì không phải không cần tham thiền, chỉ nói là tham thiền không được chơn thật, lại không có chí quyết định lâu xa, vọng tự cho là ngộ, làm lầm người rất nhiều. Theo ngu ý của tôi thì nếu như xem kinh giáo mà chẳng thể tham thiền và người tham thiền mà không quyết định thì đều không bằng chuyên tâm tu tịnh nghiệp, chẳng để qua suông một đời. Người trí có thể tự xem, xin mọi người tự suy nghĩ may ra không tự lừa dối mình.
       Trộm xem các bậc đại sĩ đại phu, tể quan tham thiền liễu ngộ từ xưa chẳng phải ít ỏi rõ ràng trong Truyền Đăng có ghi không phải là một người. Trong hàng tể quan đời nay, người có chí ngoại hộ pháp môn, phần đông lấy tham thiền làm đường hướng thượng. Đây không phải là tầm thường, chắc chắn đã được nói đến. Bởi vì xưa có bậc theo pháp môn tham thiền mà chưa được đại ngộ triệt rồi phát nguyện hộ trì Phật pháp, cũng có các Tổ sư có nguyện lực lớn độ sanh va Bồ tát thị hiện cứu thế, cũng có người khi xưa làm tăng mà tham cứu chưa thấu triệt, do tập khí dẫn dắt, nên nay ra đời, tuy ở trong trần lao tục đế mà chỗ học tập ngày xưa, chủng tử Bát Nhã một niệm quang minh thấu lộ, chẳng thể ém đi, nên phát ra sự nghiệp văn chương công danh; để làm người ngoại hộ. Pháp môn có các phương tiện, tác dụng chẳng đồng và cửa hạnh cũng không phải chỉ có một thứ, có người chuyên hướng thượng, có người chuyên công hạnh. Các Tổ sư cũng kiến lập tam-bảo chứng nguyện hộ pháp, có người chỉ lo sanh tử của chính mình, có người cốt làm người trung hiếu, các thứ hạnh đều là Bồ tát đạo, chẳng nên đem chỉ một hạnh môn trong tăng đoàn mà nhìn, thì chỉ là người trong hàng ngũ tăng già mà không biết hai tông giáo - thiền, cũng có người khổ hạnh đầu đà, cũng có người chuyên tu tịnh nghiệp, cũng có người chân thật theo hạnh môn cũng có người tùy duyên làm Phật sự để trợ dương pháp môn, cũng có người trì tụng, viết chép kinh điển để cầu hạnh môn. Tất cả đều ở trong ánh bạch – hào của Phật. Các thứ nhân duyên vì cầu Phật đạo cũng chẳng thể đem vơ cả nắm. Nên trong hàng tể quan, phàm người có tham tâm hộ pháp, chỉ giữ một hạnh của tăng là được, cũng chẳng cần quyết định ai ai cũng tham thiền mới là chánh hạnh. Vì tham thiền tuy hay, kỳ thực chẳng phải người tiểu căn có thể hành được.
       Lúc Phật ở đời, trời người có cả trăm vạn mà chỉ có một mình Ca Diếp, Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang chỉ được Nhị Tổ; ở Hoàng Mai hơn 700 người chỉ một mình Lục Tổ được ấn tâm. Há phải việc nhỏ sao? Nếu người trong tăng chúng chỉ có một hạnh, khả dĩ là việc chính của pháp môn, khả dĩ giáo hóa chúng sanh, tức là Bồ Tát. Nên nói “Các thứ hạnh đều là Bồ tát đạo”. Nếu có thể giữ một việc đã vượt khỏi bọn cơm cháo tầm thường, bỏ trôi thời gian gấp vạn vạn lần rồi. Nghĩa là trong cái dở giữ cái hay thì không phải là người bỏ đi, trong cái hay giữ cái dở thì không là phải người toàn vẹn. Từ xưa cả thế và xuất thế gian, người toàn vẹn rất khó được.
       Như trên tôi đã dài dòng nói về thứ lớp nghi thức của Phật dùng hóa độ chúng sanh. Phật há không muốn người chóng ngộ tự tâm ngay đó thành Phật? Nhưng chỉ vì chúng sanh căn độn, chẳng thể không dùng quyền tạm để tiếp dẫn.
       Cổ nhân nói: “Tăng đồ chẳng thể liễu ngộ tự tâm mà lưu tâm ở giáo pháp thì cũng không bỏ phí thời giờ”. Tôi thì bảo tăng đồ bây giờ dù chẳng thể tham thiền, xem kinh, cũng có thể năng trì giới, tụng kinh, làm phước, hộ pháp, cũng có thể nói hơn bọn ma tầm thường vạn vạn lần.
       Ở trong hàng cư sĩ, nếu người hay trì trai niệm Phật, trợ lực hoàng dương tam bảo, đều là hạnh chơn thật. Đó là chỗ mong mỏi của chư Phật, xin các bậc đại sĩ cao minh các nơi nên tự tin điều này. Cẩn thận chớ cho những lời của tôi là hư vọng.


Mộng Du Tập: Trích Quyển Ba Mươi Bảy


~Trích Quyển Ba Mươi Bảy~
Duy Tâm Kệ
Tịnh diệu bất tư nghì
Viên mãn chơn thật tâm
Quảng đại cụ oai thần
Biến hiện vô lượng sự
Kỳ thể ly chư cấu
Bất xả nhiễm tịnh duyên
Thế dữ xuất thế gian
Thành tựu chúng thiện nghiệp
Chúng nghiệp như không hoa
Bổn lai vô sở hữu
Dĩ vô sở hữu cố
Cố thuyết tức chơn thường
Thiện đạt nghiệp tánh không
Bất vi huyễn kỹ hoặc
Bất trước diệc bất yểm
Như lý đế thực quán.
Khởi xứ tức vô sanh
Đương niệm tự không tịnh
Liễu vô tiền hậu tế
Nhất niệm nhược Tu Di
Động tĩnh bình đẳng như
Cảnh giới phong bất động
Tịch diệt diệu thường lạc
Thanh tịnh nhược liên hoa
Thâm nhập trần lao nê
Bất nhiễm thế gian cấu
Hoài thử như ý châu
Tùy cầu vô sở pháp
Thần quang chiếu ám minh
Phổ giác chư hàm thức
Dịch:
Tịnh diệu chẳng nghĩ nghì
Viên mãn tâm chơn thật
Rộng lớn đủ oai thần
Biến hiện việc vô lượng
Thể này lìa các cấu
Chẳng bỏ duyên nhiễm tịnh
Thế và xuất thế gian
Thành tựu các nghiệp thiện
Các thiện như không hoa
Xưa nay vốn chẳng có
Vì không có gì cả
Nên nói là chân thường.
Khéo đạt nghiệp tánh không
Khéo huyễn chẳng thể hoặc
Chẳng đắm cũng chẳng chán
Như lý quán thật kỹ.
Chỗ khởi tức vô sanh
Ngay niệm tử không tịch
Trọn không mê trước sau
Một niệm như Tu Di.
Động tĩnh như bình đẳng
Gió cảnh giới chẳng động
Tịch diệt vui thường diệu
Thanh tịnh như hoa sen
Vào sâu bùn trần lao
Chẳng nhiễm bợn thế gian.
Ôm châu như ý này
Tùy chỗ cầu chẳng thiếu
Thần quang chiếu tăm tối
Giác khắp các hàm thức

Cư Sơn Kệ
Tá vấn sơn trung nhân
Sơn cư hữu hà thú?
Nhật bão tam đốn chúc
Trường thân lưỡng cước thùy
Bàn thạch tác thiền sàng
Vân hà vi cái bị
Vi phong súy u tùng
Phát minh Tây lai ý
Bát lạc vân lý hoa
Quát trừ nhãn trung ế
Nhất niệm tuyệt trung biên
Liễu vô tiền hậu tế
Giác lai song nhãn không
Hồi thị mộng trung sự
Lao lộc thủy để nguyệt
Khước phiên thành độn trệ
Phàm thánh nhất tề phao
Phương thoát nương sanh lụy
Nhất vật bất tương lai
Du thị đệ nhị nghĩa
Thấu xuất vô sự quan
Thủy toại cư sơn kế
Dịch:
Tạm hỏi người trong núi
Ở núi có gì vui?
Ngày no ba bữa cháo
Duỗi dài hai chân ngủ
Đá tảng làm giường thiền
Ráng mây làm mền đắp.
Gió nhẹ thổi rặng tùng
Tổ sáng ý Tây sang
Khoác rụng hoa trong mây
Lột hết mây trong mắt
Một niệm dứt các bên
Rõ không còn sau trước.
Tỉnh lại hai mắt trơ
Nhìn lại việc trong mộng
Mò vớt trăng trong nước
Trở lại thành trì độn.
Ném cả phàm lẫn thánh
Mới rời khỏi khố mẹ
Một vật cũng chẳng đem
Vẫn là nghĩa thứ hai
Thấu qua cửa vô sự
Mới xong kế ở núi.

Thị Niệm Phật
Niệm Phật bổn vi siêu sanh tử
Tiên tu yếu thức sanh tử tâm
Si ái tiện thị sanh tử căn
Bất bạt kỳ căn nan giải thoát
Si ái tức thị niệm Phật tâm
Tức tương niệm Phật đoạn si ái
Si ái nhược năng niệm niệm đoạn
Tâm tâm Di Đà toàn thân hiện
Tức thử tiện thị chân tinh tấn
Bất khả nhất niệm tạm vong khước
Tịnh Độ tựu tại Tịnh Tâm trung
Bất đắc hướng ngoại biệt tầm mích
Dịch:
Niệm Phật vốn vì siêu sanh tử
Trước phải cần biết tâm tử sanh.
Si ái chính là rễ tư sanh
Không nhổ rễ này khó giải thoát
Si ái tức là tâm niệm Phật
Tức đem niệm Phật dứt si ái
Si ái nếu hay niệm niệm đoạn
Tâm tâm Di Đà toàn thân hiện.
Đây tức chính là chân tinh tấn
Chẳng thể tạm quên trong một niệm.
Tịnh Độ ở ngay trong tâm tịnh
Chẳng được tìm kiếm ở bên ngoài.

Dạy Thiền Nhân Đại Trạch
Vạn lý vi thùy lai
Lai phục vi để sự?
Ngoa lý mô chỉ đầu
Nguyên bất tại biệt xứ
Nhược hướng ngoại biên tầm
Tẩu tận thiên nhai lộ
Lai lai khứ phục lai
Thử pháp nguyên vô trụ
Thí vấn Tào Khê tăng
Bồ Đề khả hữu thọ?
Nhược bất đắc nhất chi
Uổng phí mại đơn bố
Dịch:
Vạn dặm đến là ai?
Đến để vì việc gì?
Trong giầy mò mấy ngón
Vốn không ở chỗ khác.
Nếu tìm ở bên ngoài
Chạy đến tận chân trời
Cứ chạy đi chạy lại
Pháp này vốn không trụ.
Thử hỏi tăng Tào Khê
Bồ Đề có cây chứ?
Nếu chẳng được một cành
Uổng phí sắm hành lý

Quán Thân
Thị thân như thủy bào
Sạ hiện diệc bất cữu
Si nhi dĩ vi châu
Thủ chi bất doanh thử
Huống phục ư thủ trung
Đa tham vi tội tẩu
Duy tại trí nhãn quan
Tất cánh hà sỡ hữu
Dịch:
Thân này như bọt nước
Chợt hiện cũng chẳng bền
Trẻ thơ cho là ngọc
Bắt tay chẳng đầy tay
Huống là ở trong đó
Tham lam làm nguồn tội
Chỉ dung mắt trí xem
Rốt cuộc làm gì có.

Quán Tâm
Thử tâm bổn vô hình
Thị chi bất khả kiến
Khởi diệt liễu vô đoan
Tấn nhược không trung điện
Vọng tưởng trục trần lao
Khát lộc bôn dương diệm
Kham ta kim cổ nhân
Đô áp lương vi tiện.
Dịch:
Tâm này vốn không sanh
Chỉ thì chẳng thể thấy
Khởi diệt không đầu mối
Mau như chớp trong không
Vọng tưởng theo trần lao
Nai khát đuổi sóng nắng
Đáng than người kim cổ
Đều ép lành làm tiện.

Dạy Cư - Sĩ Lục Nhất
Thế sự hốt như mộng
Nhân tình không như vân
Tuy tri trần thị lý
Tâm tĩnh tức ly quần
Tích cận ninh vi tục
Tâm không khởi tại gia
Đản khán ô trọc thủy
Trạm trạm xuất liên hoa
Dịch:
Sự đời thoáng như mộng
Tình người rỗng như mây
Tuy biết trong chợ trần
Tâm tĩnh liền lìa xa
Dấu gần đâu trái tục
Tâm không há ở nhà
Chỉ xem nước dơ bẩn
Lóng lặng mọc hoa sen.

Dạy Thiền Nhân Quý Ở Kim-Sơn
“Bạch phát sầu nan giải”
Hồng trần lộ bất thông
Thân cư nhân cảnh nội
Tâm tại vạn sơn trung
“Nhật nhật trần lao lý”
Triêu triêu ái ố trường
Bất tri nhân thậm sự
Chuyên nhất vị tha mang
Khổ hải thâm vô đế
Phù sinh sự hữu nhai
Bất tri tam giới nội
Hà xứ thị quy gia.
Dịch:
Tóc trắng sầu khó mờ
Bụi trần đường chẳng thông
Thân ở trong cảnh người
Tâm năm sâu vạn núi
Ngày ngày trong trần lao
Sớm sớm chốn thương ghét
Chẳng biết bởi việc gì
Cứ vì nó bận rộn
Biển khổ sâu không đáy
Việc phù sinh có bỏ
Chẳng biết trong ba cõi
Nơi nào là quê nhà

Núi Bồ Đề
Bất đáo Bồ Đề sơn
An thức Bồ Đề cảnh
Độc hữu sơn trung nhân
Vong ngôn tâm tự tỉnh
Khả tích thanh lương tâm địa
Vô đoan bính xuất tham sân
Thích lịch tâm trung hỏa khởi
Thiêu tàn tự tánh thiên chân
Dịch:
Chẳng đến núi Bồ Đề
Sao biết cảnh Bồ Đề
Riêng có người trong núi
Quên lời tâm tự xét
Đáng thương tâm địa thanh lương
Vô cớ tham sân xuất hiện
Sấm chớp trong tâm nổi lửa
Đốt tiêu tự tánh thiên chân.

Mộng Du Tập: Trích Quyển Mười Hai


~Trích Quyển Mười Hai~
Pháp Ngữ Tịch Chiếu Khải Công
Thỉnh Ích 8 Tắc
       1. Hỏi:
       Kinh nói: “Huệ thanh tịnh vô ngại đều do thiền định sanh”. Tại sao Nam Nhạc bảo Mã Tổ rằng:
       Nếu học đạo tọa thiền, thì thiền chẳng phải là ngồi, nằm. Nếu học làm Phật, thì Phật chẳng phải là tướng định. Ở nơi pháp vô trụ, chẳng nên thủ, xả?
       Hai thuyết này dường như có một đúng, một sai.
       Đáp:
       Dưới cửa Tổ Sư, chẳng luận ngồi thiền hay làm Phật, chỉ quý kiến tánh. Nếu thấy tự tánh, rõ ràng phân minh thì không có thủ, xả. Vừa có thủ xả liền rơi vào đúng sai.
       2. Hỏi:
       Kinh Viên Giác nói: “Tứ đại của ta bây giờ nghĩa là các thứ cứng, ướt, ấm, động, mỗi thứ hoàn lại cho đất, nước, lửa, gió. Thế thì khi tứ đại mỗi thứ chia lìa, vọng thân này sẽ ở chỗ nào? Chưa rõ thân này lúc chưa chết, mỗi thứ có lìa không? Hay đợi chết rồi mỗi thứ mới lìa?
       Đáp:
       Cốt lúc chưa chết vứt xuống được, lúc sắp chết chẳng bị nó làm lụy. Đợi đến lúc chết muốn lìa thì khó rất khó như rùa sống lột mai. Người xưa nói: “lúc nhàn làm, để lúc vội dùng” chính là đây vậy.
       3. Hỏi:
       Kinh Lăng Nghiêm nói: “Anan bạch Phật rằng:
       - Từ đâu nhiếp phục gốc phát tâm để nhập tri kiến Phật?
       Phật bảo:
       - Các ông muốn vào tri kiến Phật, phải nên quán kỹ: nhân địa phát tâm cùng với quả địa giác ngộ là đồng hay khác? Nếu nơi nhân địa đem tâm sanh diệt làm gốc tu nhân mà cầu Phật thừa bất sanh bất diệt, thì không thể được?
Chưa rõ hiện giờ cái tâm muốn ra khỏi sanh tử tham thiền học đạo, có phải là tâm sanh diệt không?
       Đáp:
       Người học tham thiền, trước hết đoạn tâm sanh diệt, đến lúc phát minh thì thấy được tánh chẳng sanh diệt. Nếu dùng tâm sanh diệt để tham thì chỉ là theo vọng tưởng lưu chuyển chứ chẳng phải là tham cứu.
       4. Hỏi:
       Thiền sư Bách-trượng Hoài Hải nói:
Tham kiến thiện tri thức, tìm cầu một chút hiểu biết là ma thiện tri thức, vì việc đó sanh ngữ kiến vậy.
       Nếu phát 4 thệ nguyện lớn, nguyện độ tất cả chúng sanh rồi mới thành Phật thì đó là ma Bồ Tát pháp trí, vì thề nguyện chẳng xả vậy.
       Nếu trì trai giới, tu thiền, học huệ là thiện căn hữu lậu, thì dù có ngồi đạo tràng thành Đẳng chánh giác, độ người như số cát sông Hằng, tận chứng quả Phật Bích Chi đó là ma thiện căn, do khởi tham đắm vậy.
       Nếu ở các pháp đều không tham nhiễm chỉ còn thiền lý, thiền định rất sâu, lại không tăng tiến, đó là ma tam muội, do đam mê nghiền ngẫm lâu dài.
       Nay người tham thiền học đạo làm sao khởi được ma này để vào đường tu hành chân chánh?
       Đáp:
       Các người tu hành chỉ vì chẳng quên tâm, kiến nên động theo lưới ma. Nếu tâm, kiến tiêu mất thì Phật cũng chẳng lập.
       5. Hỏi:
       Phá 4 đại, 5 ấm, có trước sau chăng?
       Đáp:
       Kinh nói: 5 ấm phá từ từ, ắt phá sắc ấm trước. Nếu tham thiền đánh bể thùng sơn thì phá thức ấm trước. Thức ấm đã phá thì 4 đại không chỗ nương. Nên như cắt nước, thổi ánh sáng. Trọn không chạm nhau.
       6. Hỏi:
       Bốn câu kinh Kim Cang, xưa nay chưa có ai nói rõ. Hoặc chỉ sắc, thanh, hương v.v... là bốn câu. Hoặc chỉ mắt, tai, mũi, lưỡi là 4 câu, hoặc chỉ các tướng chẳng phải tướng v.v..., hoặc chỉ có đế, không đế v.v... Đến Thiên Thân thì nói: “Ta lên Đâu Suất Đà Thiên, thỉnh hỏi Đức Từ Thị, thì Ngài bảo là không ngã tướng, không nhân tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng”. Lục Tổ thì nói là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đại Sĩ Song Lâm lại nói: “Trong kinh trì 4 câu, nên phải không rời thân, người ngu xem tợ mộng, người trí chỉ thấy chân”. Từ xưa đến nay chẳng hề có lời nhất định là sao?
       Đáp:
       Phật nói Bát Nhã như các thứ cỏ trên núi Tuyết, cái nào cũng là thuốc. Cần đến liền dùng, nhất định trừ hết bịnh. Nên cổ nhân đưa ra điều gì là bốn câu, mỗi đều là một cọng cỏ của núi Tuyết vậy.
       7. Hỏi:
       Cổ nhân nói: “Thuần thanh tuyệt điểm” vẫn là chân thường lưu chú. Dù được “Không một pháp xứng tình” vẫn bị Ngưỡng Sơn kiểm điểm. Dù được “Khắp thân là chiếu”, vẫn ở chỗ rũ tay của con nhà nạp tăng. Dù được “ở mé Oai Âm trước bảy Phật tiến thủ”, vẫn là hội ở lời nói. Nay người học, quả thật có đến cảnh giới này chăng?
       Đáp:
       Cổ nhân chỉ dạy, chỉ vì sợ người lạc ở giữa đường, người học dù đến đây, cũng là việc ở giữa đường, huống là chưa đến đây, mà mở miệng nói Thiền, đều là tâm lừa dối.
       8. Hỏi:
       Đại Sư Viên Ngộ nói: “Có Tổ về sau, chỉ cốt truyền riêng chỉ thẳng, lấy lời đuổi lời, dùng cơ đoạt cơ, đem dụng phá dụng. Do đó có sự phân chia chi phái, mỗi phái chuyên chiếm môn phong. Phải là người có căn khí hướng thượng, có chí thiệu long thánh chủng, sau đó thâm nhập được vào chỗ uyên áo, mới có thể được ấn chứng.” Điều này phải được xem là quý báu, sâu kín, chớ cho là dễ dàng. Nay thấy người học, phần đông chẳng xét căn khí của mình, liền muốn tham cứu việc hướng thượng. Quả thật không cần luật căn khí chăng?
       Đáp:
       Tổ sư chọn người luận căn khi tức như trong kinh Phật luận về chủng tánh. Nếu chẳng phải chủng tánh loại này, rốt cuộc cũng chỉ là dính da, bám xương. Nay người căn khí chẳng trong sạch, nhất định không được dự phần vào việc này. Nếu ai chịu lưu tâm đến việc này, từ đây chẳng lui sụt, lâu dần có thể thăng tiến. Đây là người thuộc hạng bất định tánh.

Am Vương Giới Chu Bạch Dân
Thỉnh ích
       1. Hỏi:
       Phật nói đến đốn giáo, tiệm giáo. Thiền mở đốn môn, tiệm môn. Hai giáo, hai môn là đồng hay khác?
       Đáp:
       Phật tổ ra đời, vốn không pháp có thể thuyết. Nhưng pháp vốn không thuyết, thì đâu có đốn, tiệm mà sai biệt? Nói đốn tiệm là chỉ vì căn cơ mà bày, chẳng liên can đến pháp.
       Giáo có đốn tiệm là như Phật Tỳ Lô Giá Na lúc mới thành chánh giác, tại đạo tràng Bồ Đề nói Kinh Hoa Nghiêm, chóng chỉ pháp môn tâm địa pháp giới bình đẳng. Chỉ thẳng không sót. Như mặt trời vừa mọc trước chiếu núi cao. Sau những nhà phán giáo gọi là pháp môn viên đốn. Đây là đốn pháp của Phật chỉ dành cho một loại chúng sanh đại căn địa thượng, trong đó có bốn mươi hai thứ lớp. Đây là tiệm trong đốn vậy.
       Ngoài ra, những người căn cơ hạ-liệt tại tòa như mù, như điếc, tuyệt nhiên không có phần. Đó là pháp tuy lớn mà nhiếp cơ chẳng rộng. Tức chỗ Kinh nói: “Chỉ có một cửa mà lại nhỏ hẹp”. Như thế, há Phật thuyết pháp riêng cho một người sao? Do đó Phật hiện Ứng Hóa Thân thuyết pháp ba thừa tùy theo ba căn cơ mở bày. Ban đầu từ tiệm tu chứng, nghĩa là tiệm giáo vậy.
       Sau đến Lăng-Già, Pháp-Hoa, Niết-bàn chóng chỉ chủng tử Phật tánh. Đó là do tiệm mà đến đốn vậy. Đây là sự phân đốn tiệm của Giáo.
       Còn cửa Thiền, các kinh đều nói trong lục độ của Bồ Tát có hai độ là Thiền định và trí huệ. Bồ tát phán giáo căn cứ hai độ mà khai mở hai môn Chỉ Quán làm gốc tu hành. Đây là ở trong giáo dùng đốn mà tiệm tu, ở thiền là tiệm trong đốn. Thiền Đạt Ma là nhân Thế Tôn sau cùng đưa cành hoa, Ca Diếp “phá nhan vi tiếu” (tươi mặt mỉm cười). Phật bèn dạy đó là chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm. Rồi thành ý chỉ giáo ngoại biệt truyền. Tại Tây-Vức truyền đến 28 đời, rồi Đạt Ma qua Tàu truyền sáu lần, đến Tào Khê trở xuống, Truyền Đăng có ghi các Tổ là thiền “Truyền riêng chỉ thẳng một tâm”. Thiền trong lục độ chẳng thể so với đây được. Vì đây riêng dạy một tâm, lại không pháp khác. Ngay đó chóng thấy tự tâm, chẳng thuộc nhân quả tu chứng mê ngộ. Đặc biệt hiển bày chỗ Phật chưa xuất thế, đây là một đường hướng thượng gọi là đại thừa đốn giáo. Đó là đốn của thiền.
       Đến như lịch đại tổ sư, đốn ngộ tâm này, tuy ngay một lời, một câu, một gậy, một hét, liễu ngộ thẳng tắt, cũng do nhiều đời tu tập, gốc Bát Nhã sâu, lúc nhân duyên đến, ngày nay thành thục. Cũng có người đời này tham cứu, công phu hai ba mươi năm, sau đó được ngộ. Như vậy, tuy đốn cũng từ tiệm mà thành. Như Quy Sơn nói: “Người học nếu có thể một niệm liễu ngộ tâm mình thì gọi là ngộ. Nhưng còn vô minh từ vô thủy trôi chảy nhỏ nhiệm, đem cái ngộ trừ sạch hiện nghiệp lưu thức, thì gọi là tu. Chẳng phải ngoài đây ra lại có cái tu khác. Lấy đây mà quán thì trong đốn chưa từng có không tiệm. Tôi thường xem Lăng Già, phân bốn môn đốn tiệm:
       1/ Đốn đốn
       2/ Đốn tiệm
       3/ Tiệm đốn
       4/ Tiệm tiệm
       Nên biết việc này chẳng thể chấp cứng mà luận. Tuy đốn ngộ mà chẳng bỏ tiệm tu. Tâm Phật và tổ vốn không hai vậy.
       2. Hỏi:
       Phật thuyết các kinh đều luận đàm xứng tánh, toàn là ý chỉ liễu nghĩa. Tại sao nói Đạt Ma từng khen Lăng Già rằng: “Kinh này là tâm yếu của ta”. Đến Hoàng Mai thì chỉ dùng Kim Cang. Còn các kinh khác có sai biệt gì không?
       Đáp:
       Phật thuyết các kinh đại thừa, tuy là bàn về liễu nghĩa xứng tánh nhưng là dựng lập cửa giáo hóa chẳng lìa mê ngộ, tánh tướng đối đãi. Cốt yếu phản vọng về chân, đều có sự hòa hội mới hiển nhất chân. Đến kinh Lăng Già chỉ thẳng một tâm, tuy có chân vọng mà dạy thức tàng tức Như Lai tàng, chẳng cần hòa hội. Riêng hiển bày cảnh giới Tự Giác Thánh Trí. Nếu rõ vọng tưởng từ tâm hiện, không có tự tánh, tức là Thánh Trí chẳng cần chuyển nữa. Nghĩa là lối tu hành này chỉ quán ngay tự tâm lưu trú, vọng tưởng hiện lượng, mau đạt được tự tâm, cũng chẳng lập địa vị, lập giai cấp; nên nhà phán giáo gọi là pháp môn đốn giáo. Cho nên Đạt Ma lấy kinh này làm tâm ấn, để dạy yếu quyết thiền tông, vì kinh này khó rõ, hạng hiểu kém khó thâm nhập nên truyền đến Hoàng Mai thì lấy kinh Kim Cang ấn tâm.
       Kinh Kim Cang là một trong tám bộ Bát Nhã, văn có 600 quyển, chỉ riêng quyển này hợp tâm ấn Tổ Sư. Lấy Bát Nhã làm cửa đầu tiên vào đại thừa. Chính như Lăng Nghiêm nói: “Bồ Tát dùng tâm bất sanh diệt làm gốc tu nhân” mà Bát Nhã là Thực Trí căn bản của Phật, chính là tâm bất sanh diệt vậy. Kinh Kim Cang lấy vô trụ làm tông, dứt nghi làm dụng. Vì nhị thừa vọng khởi các thứ trụ-trước chúng sanh kiến, Phật kiến, Pháp kiến lớp lớp khởi nghi kinh này nhổ hết gốc nghi, đến thẳng đất chẳng nghi, tri kiến tiêu vong, chẳng lập một pháp, đuổi hết tâm trụ trước. Chính là cùng với thủ đoạn gỡ niêm tháo chốt của Tông môn tương đồng. Chặt đứt ý lời, phân biệt, chính là chỗ Tông môn chẳng cho nghĩ suy, chẳng mắc tư duy, thức-tình khô sạch, thấu pháp thân hướng thượng. Hoàng Mai lấy đây ấn tâm là có lý do vậy. Các kinh khác đều còn chỗ bám, kinh này cắt đứt, tham thiền rõ điều này thì dễ vào vậy.
       3. Hỏi:
       Nếu có Như Lai thiền Tổ Sư thiền, hai thứ thiền này quả thật đồng hay khác? Hương Nghiêm chạm trúc có tỉnh, trình kệ: “Năm ngoái nghèo chưa thật nghèo” với Ngưỡng Sơn, Sơn bảo: “Mừng cho Sư huynh hội được Như Lai thiền, còn Tổ Sư thiền chưa từng mộng thấy”. Dựa vào lời này thì thấy có Như Lai thiền, Tổ Sư thiền khác. Nếu từ Ca-Diếp truyền đến Sơ Tổ Tây lai, Tổ Tổ truyền nhau và Thủy Tổ các tông tức là Phật Thích Ca thì làm sao khác được?
       Đáp:
       Như Lai thiền và Tổ Sư thiền xưa nay không hai. Nhưng Như Lai thiền là trong mê nói ngộ, cốt tu rồi sau nhập vào (chơn tánh). Tổ sư thiền một lần chẳng thuộc mê ngộ, chẳng nhờ tu tập, cốt người ngay đó chóng rõ tự tâm. Phàm rơi vào cửa mê ngộ tức là nghĩa thứ hai. Do đó Cổ Đức nói: “Tu hành thì chẳng phải không, mà nhiễm ô sao được?” Thế nên một đường hướng thượng của tông môn phải là “một cá nhân” mới được. Trong kinh Lăng Già nói 4 loại thiền, thì thiền tối thượng nhất thừa, tức Tổ Sư thiền, kỳ thực vốn không có khác.
       Nếu căn khí bất tịnh, vọng khoe tri-kiến thông minh để hội Tổ Sư thiền, như thế thì ngay cả Như Lai thiền cũng chưa hề mộng đến. Ví như người nghèo vọng xưng đế vương tự rước tôi tru lục, không đáng sợ sao? Không đáng sợ sao?

Dạy Tiêu Huyền Phố Tông Bá
       (Thiên Khải Quý Hợi mùa đông, ngày 6-10 từ đây tuyệt bút).
       Nhập đạo, trước cần liễu ngộ tâm thể của đương nhân, xưa nay quang minh quảng đại, bao gồm tất cả, thanh tịnh tràn đầy, thánh phàm chẳng lập. Chẳng bị thân tâm thế giới làm trở ngại. Đây tức là một đường hướng thượng. Tâm ấn của Tổ Sư chỉ thế mà thôi. Đã có thể ngộ suốt tâm này, thì ở chỗ ứng duyên hằng ngày tất cả cảnh giới như hình hiện trong gương, đến không chỗ dính mắc, đi không vết tích. Thế thì tất cả chỗ hành động đều từ trong mé thực chơn tâm lưu xuất. Mỗi sự nghiệp đều chân thật bất hủ, chẳng những cùng trời trăng đua ánh sáng mà đối với người mê khư khư kia, vọng tưởng làm những sự dối trá, há có thể so sánh ư? Một đoạn ánh-sáng này, người người đầy đủ, vốn không kém thiếu, chỉ có ngã kiến kiên cố, hễ có làm gì ắt cho là công của mình, chấp chỗ thấy là đúng, phải trái xen lẫn, trọn không có luận nhất định. Sở dĩ như thế vì không có tâm của bậc đại công khoáng đạt mà muốn xây dựng sự nghiệp ngàn thu bất hủ, thật khó vậy.
       Lại,
       Tâm thể chúng ta xưa nay tròn đầy sáng suốt. Mà nay chẳng thể đốn ngộ, chẳng được thọ dụng hiện tiền bởi vì các thứ phiền não tham, sân, si, ái từ vô lượng kiếp đến nay ngăn che tự tâm. Do đó công tiệm tu chẳng thể thiếu.
       Quy Sơn nói: “Người học có thể một niệm chóng ngộ tự tâm, nếu đem chỗ ngộ trừ sạch hiện nghiệp lưu thức, thì gọi là tu, chẳng phải ngoài đây có cái tu khác”. Nếu người học đạo chỉ cần đốn ngộ liền xong, toan bảo không công có thể dụng, vậy thì tập khí ẩn sâu, gặp cảnh lén phát, để lâu sẽ trôi vào cõi ma. Nhưng công tiệm tu cũng chẳng phải có thứ lớp, chỉ trong nhật dụng nhắm chỗ chưa khởi tâm động niệm, đứng vững gót chân phản quán nội chiếu. Ở chỗ một niệm khởi nên truy xét một niệm này từ chỗ nào khởi, truy đến chỗ một niệm sanh vốn tự sanh thì tất cả vọng tưởng, tình lự ngay đó băng tiêu. Nhưng kỵ nhất là không có sức dũng mãnh, chẳng thể nắm chẹt cổ họng, bất giác tương tục thì trôi đi mà chẳng quay lại được.

Dạy Chu Tử Dần
       Hôm nay trong núi đại chúng kiết chế, Hải Ấn chiếm tòa thuyết kinh Pháp Hoa. Lúc đó túc hạ cầm thư đến, lại có quả đẹp, đủ đoán túc hạ là người trong pháp hội, là người trước được đạo quả. Đây chẳng phải bói mò. Thư trước nói rằng: Nhật nghiệp chính chắn như vậy chẳng sai, cũng có thể dần dần vào pháp môn bất nhị. Nếu trong đó hằng ngày niệm niệm đều là tâm hạnh sanh diệt, đâu thể “tịch diệt vi lạc”. Nếu muốn thọ dụng được tâm địa, lại phải nhắm lúc đọc sách, viết văn đã xong, chỗ các thứ ứng duyên, ngay đó thực sự dũng mãnh phản quán nội chiếu, quán mọi thứ tâm tác động sanh diệt, rốt cuộc từ chỗ nào khởi, rồi bây giờ diệt đi về đâu? Như thế quán cho thật sâu, lâu dần nhập vào chỗ nhỏ nhiệm kín đáo. Ở trong đây, nơi tất cả tập khí ngầm ngầm trôi chảy, nơi phiền não vô cớ nổi lên, nên thực sự nhìn xem cho chắc, xem chúng rốt cuộc là vật gì, từ chỗ nào khởi diệt, truy lùng đến chỗ quét sạch dấu vết, như trong nồi nước sôi nhỏ một cụm tuyết vậy. Như thế hằng ngày niệm niệm chẳng được lơi lỏng. Ngay lúc đó mảy may một tâm niệm lười biếng, giải đãi, cầu an, mưu cầu khoái hoạt, hưởng thụ phát sanh, thì đây chính là gốc bệnh phát tác, liền nhắm ngay đây mà dựng lông mày một cách mãnh liệt, chẳng thể bị chúng cột trói cứng. Vừa thấy bị cột trói, cần nhất là không nên để nó lôi đi. Rất kỵ! Rất kỵ! Mau dùng một tiếng Bồ tát hoặc một tiếng Phật dựa vào cho chắc, vật lộn với nó. Khi gặp các thứ ác tập nổi lên, liền hết sức đem thoại đầu này mà đề khởi. Hướng vào hư không quét một trận, chẳng kể là ma, là Phật, là tập khí phiền não, là thiện ác suy lường, tất cả tình trần nhất tề đốn dứt, như là chém cuộn chỉ rối. Hạ công phu như thế thì chẳng ngại đọc sách, chẳng ngại viết văn. Khi đọc sách, hãy xem việc đọc sách này nhắm chỗ nào gởi gấm. Viết văn, hãy xem văn này từ đâu chạy ra? Cũng chẳng ngại tiếp đãi khách khứa, uống trà, ăn cơm, đại tiện, tiểu tiện. Tất cả chỗ không để lọt đường tơ kẻ tóc, nên như thế mà an tâm. Lại cùng với chỗ Vĩnh Gia nói:
Khéo khéo lúc dụng tâm
Khéo khéo không dụng tâm
Không tâm khéo khéo dụng
Thường dụng khéo khéo không.
       Là một loại hay chẳng phải một loại?
       Chẳng biết túc hạ có thể tin lão Hải Ấn này không dối gạt chăng? Thỉnh tự thử xem! Túc hạ nếu thấy tin chẳng lầm, mới biết Trang Tử tâm trai 3 tháng, thật là đáng buồn cười. Một bộ kinh Viên Giác, túc hạ đọc thuộc, mỗi ngày từ sáng đến chiều lấy làm công khóa, đợi đến mùa xuân gặp mặt sẽ cùng nhau quyết trạch. Tâm thường viết thư cho túc hạ, chẳng khỏi có vương chút tình thức, tự thẹn vì túc hạ chưa triệt, chẳng phải không triệt mà sợ túc hạ lòng tin chưa triệt. Nay thấy túc hạ lòng tin dần tăng, ngày càng thanh tịnh. Lúc này nếu không khoét tấm lòng son đưa túc hạ thì đến lúc nào mới triệt. Nếu túc hạ lần lửa chẳng chịu triệt thì Hải Ấn tự triệt vậy. Thế nào? Thế nào? Nhân thế đáng thương! Tuy nói đáng thương nhưng ngóng tâm túc hạ lại càng đáng thương hơn!
       Lại,
       Thư đến thưa hỏi thật là tha thiết. Vì túc hạ chưa được rõ hai chữ “không huyễn” nên đối với tâm cảnh đều bị ngăn ngại, do đó công phu khó làm. Nay vì túc hạ nói phá để rõ ràng không còn nghi lo nữa.
       Chỗ nói “không” không phải là cái không trống rỗng. Chính như tục ngữ nói: “Bên cạnh như không người”, há bên cạnh thực không có người sao? Nhưng mà trong mắt coi như không có người vậy. Nói là “huyễn” chẳng phải là cái huyễn biến hóa quái dị, mà có nghĩa là có mà không thật. Giống như người làm trò ở chợ lấy trong ống đồng ra khá nhiều nhân vật, nhưng trong ống này vốn không có. Do vốn không có nên vốn không. Vì thế nói: ví như huyễn hóa chẳng phải không có người huyễn hóa, mà người huyễn hóa chẳng phải người thật, người chẳng phải thật, không phải là không sao? Phật nói chữ “không” nghĩa là phá cái chấp trước của người đời cho là thật có. Chẳng phải nghĩa đoạn diệt tuyệt không có gì. Lại sợ người đời chìm trong đoạn diệt, Ngài lại nói chữ “huyễn” để trừ cái thấy đoạn diệt. Thế nên tất cả thân tâm, các pháp nhân “huyễn” nên “không”, do “không” nên nói “như huyễn”, hỗ tương mà quán thì chóng thấy chỗ kỳ diệu. Nói “không” tức huyễn có, nên quán không gọi là chân không. Nói “có” là vốn không mà huyễn có, gọi là diệu hữu. Do chân không nên tâm không phải là đoạn diệt, do diệu-hữu nên cảnh là vô sanh, cảnh đã vô sanh thì tâm nắm bắt cái gì? Tâm đã chẳng phải đoạn thì vọng niệm chẳng còn, vậy đem tâm nào chấp cảnh? Cảnh vốn là huyễn thì lấy cảnh nào lôi tâm? Vậy chỉ cần tâm không giữ cảnh mà tâm chẳng phải đoạn diệt. Cảnh chẳng phải lôi tâm mà cảnh tự như như, chỗ nào chẳng vui? Đây là chỗ nói: “Tâm vốn không sanh, do cảnh mà có. Cảnh trước mắt nếu không thì tâm cũng không”. Nếu chỉ xem thấu như huyễn, chẳng thực thì gọi là như không; linh tâm riêng chiếu, vọng tâm chóng dứt cũng gọi là không. Chỗ này là không vọng tâm, đâu phải là tuyệt hẳn không có chân tâm! Thế nào là vọng tâm? Là người chấp cảnh chẳng biến đổi vậy. Thế nào là chân tâm? Là chẳng giữ tướng thân, tâm, cảnh giới, liễu liễu thường tri, linh nhiên tịch chiếu vậy.
       Dụng tâm như thế có gì chướng ngại? Nên nói: “Tự tâm chấp giữ tự tâm, chẳng phải huyễn mà thành pháp huyễn”. Không chấp giữ, không phi huyễn. Phi huyễn còn chẳng sanh, pháp huyễn làm sao lập?
Chính là chỗ nói:
       Cảnh duyên không tốt xấu
       Tốt xấu khởi nơi tâm
       Tâm nếu không gượng gọi
       Yêu ghét do đâu khởi?
       Đó là “Nếu tình không gá vật, vật há làm ngại người”. Vật đã chẳng thể làm chướng ngại người, người chẳng lẽ ngại với vật sao? Người đời sở dĩ chẳng được tự tại chỉ vì không đạt tâm cảnh vô sanh, như huyễn không thực. Nếu đạt rõ được một niệm vô sanh như huyễn thì tất cả tình trạng khổ vui, lo lắng, được mất, yêu ghét, lấy bỏ, ngay đó ngói bể băng tiêu. Nên nói: “Biết huyễn tức lìa, chẳng tạo phương tiện, lìa huyễn tức giác, cũng không thứ lớp”. Đây là “một niệm chóng đến nhà Phật”, chẳng phải lời nói suông. Túc hạ nếu quán chỗ tất cả vọng niệm khởi diệt, chỗ tất cả cảnh giới khởi diệt, đều là huyễn hóa không thật thì tâm tự nhiên chẳng bôn ba theo cảnh, cảnh tự nhiên chẳng lôi kéo tâm. Qua lại ứng duyên, thì một niệm rỗng sáng, rỡ ràng riêng chiếu. Chiếu soi thân tâm hiện tiền như huyễn như hóa, như trăng trong nước, như bóng trong gương, như mây trong không, như sóng nắng ngựa hoang. Nên như thế nắm chắc, con mắt Kim Cang chớ động nữa. Mặc kệ tất cả cảnh giới, chạm tới liền tiêu, dù cho có vọng tâm nào, nhìn tới liền diệt. Dụng tâm như thế lại có vọng tâm nào quấy nhiễu? Lại có cảnh vọng nào có thể chạm đến tâm? Đây xét rõ lời nói, thật là Hải Ấn cực lực vì túc hạ hết mình thố lộ, trình bày triệt để cặn kẽ, túc hạ chớ hoài nghi nữa. Cần chớ nên nghĩ trước tính sau, các thứ suy lường đều là ác giác, ác tập, đều là nhân duyên chướng đạo. Nếu được như lời nói này của lão nhân thì trước mắt đã là người cực lạc, thư tay mà trách bút bất giác viết lan man tâm lão bà như vậy, lôi thôi thế đó. Trân trọng.
       Lại,
       Một lần xa cách mới đó đã vài tháng. Thời gian chóng vánh, ngày tháng dối người. Mỗi lần nghe túc hạ tinh tấn gấp bội, tôi vui sướng ngập long. Ban đầu ý định tôn nhân đi rồi, ắt được vào núi gặp gỡ một phen, cùng nhau ấn chứng công phu đã qua để quyết trạch. Đây tưởng là chân thật, bất giác như các việc mộng. Đáng cười đạo nhân cũng rơi vào tình kiến như thế.
       Thứ đến nói: nhân ngồi để mong được tĩnh lặng, nhân tĩnh lặng để cầu tâm. Đây là cửa ban đầu vào đạo thích đáng nhất. Nhưng trong khi ngồi mà chưa sáng được chỗ ách yếu, do đó ngồi lâu mệt mỏi. Vì chẳng đạt sự thần diệu của tâm thể nên tĩnh lặng lâu lại muốn được nghe tiếng rồi lại nổi nghi như không có chỗ quay về. Bởi vì tâm năng cầu mà chưa được bí quyết, do đó một niệm cầu, giác trở lại thì mệt nhọc. Đó là đem tâm tìm tâm. Đúng như con nai khát nước đuổi theo song nắng.
       Truyện nói: “Biết dừng, sau có định”. Vì tâm túc hạ chưa biết dừng nên chẳng được định. Vì theo sự đòi hỏi nên có điều mục trị tâm như: 4 điều chớ làm, 3 điều tĩnh yếu. Dẫn tâm này mà vào, giữ tâm này mà định. Đây là chỗ tinh-tâm-khổ-thiết của túc hạ, nên bỉ nhân rất mong mỏi ở túc hạ. Nay đã nhận được tự tâm, lại trở lại giữ bí mật, tiếc rẽ ư? Hơn nữa, sợ túc hạ mới vào trong Phật pháp của ta, chưa được nghe nhiều đến nỗi phần nhiều chuyển lấy thói quen thấy nghe ngày cũ mà hiểu danh ngôn, khiến đã ban cho thuốc Cam lộ chẳng thể dùng để được công hiệu cải lão hoàn đồng. Pháp môn dạy người của Phật Tổ từ xưa tuy có nhiều đường chẳng ngoài tam học Giới Định Huệ, nghĩa là nhân giới sanh định, nhân định phát huệ. Tiết mục rõ ràng, Kinh chẳng qua Lăng Nghiêm. Đến như lời Tổ không gì bằng một cuốn Vĩnh Gia Tập. Túc hạ nên đọc thuộc, nghiền ngẫm, trong đó có yếu quyết nhập định dụng tâm. Như nói:
Khéo khéo lúc dụng tâm
Khéo khéo không tâm dụng
Không tâm khéo khéo dụng
Thường dụng khéo khéo không
Lại như:
Vọng tâm chi hậu tịch tịch
Linh tri chi tánh lịch lịch
Vô ký hôn muội chiêu chiêu
Khế bổn chân không đích đích
(Sau vọng tâm nên lặng lặng
Tánh linh tri thường rõ ràng
Vô ký mơ màng phải tỉnh sáng
Khế hợp chân không luôn đúng đắn)
       Đây là thần phù của sự dụng tâm. Như 4 điều chớ làm, 3 điều tỉnh xét chính là giới, trong đây đủ hết. Kỳ thực công phu tu tâm chẳng ra khỏi 3 món chỉ, quán, đẳng trì (thiền). Trong tập này, xa-ma-tha là chỉ, bà-xá-na là quán, ưu-tất-xoa là chỉ quán song vận tức định huệ đẳng trì.
       Hãy khuyên tròn những chỗ bế tắc trong tập, lặng hơi ngưng thần, nếu chẳng hiểu đừng hiềm gởi thư hỏi hoài. Đến chỗ chỉ quán thẳng tắt, cho viết lại một tờ để bù vào chỗ thiếu hôm nay.
       Lại,
       Một đoạn nhân duyên này là việc rất dễ mà rất khó. Vì vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp tạp nhiễm lưu chuyển, tập khí sâu lại dày. Hôm nay được một niệm phát lòng tin, mới trong sớm chiều mà muốn cạn dòng dài muôn kiếp. Phương thế này thật chẳng dễ dàng. Ngay một niệm tâm hồi đầu này cũng rất khó phát. Đây là hạt mầm linh minh do căn lành nhiều kiếp, gặp lúc nảy mầm bây giờ mới nhú lên, rồi nở hoa phô bày thực sự. Toàn do Toàn do luôn luôn tài bồi chăm sóc. Nếu không thì sẽ khô cháy ngay. Gặp cảnh gặp duyên dùng sự xử sự, lâu dần thuần thục. Lại thêm công chỉ quán thì có thể dần dần giải thoát. Nhưng vì chúng ta vốn tự giải thoát, do đó nếu phiền não, không giải thoát thì chẳng phải lỗi của pháp mà là tự tâm trói buộc vậy. Bởi do xưa nay thế tình nồng hậu, tập nhiễm chín muồi, chỗ quen thì khó quên, nên chạm đến liền phát. Vì thế nói: “Ta chưa thấy người mến đức bằng mến sắc”. Nếu đem kia đổi đây thì chỗ sống tự chín, chỗ chín tự sống. Sống thì lợt lạt, lợt lạt thì xa, xa thì đạm bạc, đạm bạc thì quên, quên thì chẳng cần cầu thoát mà tự chẳng trói buộc. Cứ thế mãi thì tâm này được định, muôn ngàn trạng thái trước mắt xem như hoa đốm hư không, như trăng đáy nước, như sóng nắng, sông băng, vốn không thể buộc ràng, lại còn cầu thoát gì nữa? Túc hạ nói: Lời “vật bất thiên” của Triệu Công được đắc lực. Đây trừ phi túc hạ là bậc đại căn khí, còn không thì chẳng thể nhập vào cửa cổng của lão này. Riêng câu “nhật nguyệt lệ thiên” chẳng thấu triệt, thì biết về Triệu Công chẳng suốt, chẳng suốt thì chẳng phải đắc lực thật. Lời này lão nhân nghi đến mất năm, rốt cuộc ở trong tâm ta riêng tự tỉnh. Từ đó về sau, chỗ ứng duyên đắc lực phần nhiều nhờ lời lão này. Túc hạ vừa ra cửa đã thấy tin, thật chẳng phải là duyên nhỏ, lão nhân chẳng tiếc vì túc hạ nói phá. Lại sợ túc hạ ngày sau sẽ mắng lão tăng. Túc hạ nếu đem câu này đặt vào lòng, ở tất cả chỗ động tác làm việc, tất cả chỗ thanh sắc tài lợi, tất cả chỗ cảnh duyên nghịch thuận, tất cả chỗ mừng, giận, buồn, vui, tất cả chỗ yêu ghét, lấy bỏ. Hễ gặp cảnh lưu động liền lấy ấn này, ấn một ấn, ấn đứng xem nó thế nào là chỗ chẳng dời (chẳng đổi)? Thế nào là chỗ thường tĩnh lặng? Thế nào là chỗ chẳng trôi chảy? Thế nào chỗ chẳng động? Thế nào là chỗ chẳng khắp? Như thế khán qua khán lại, đột nhiên bùng vỡ, khán thấu lời này thì mới biết lão nhân chẳng dối túc hạ, mới tin bổn chân chẳng tự lừa dối vậy.

Dạy Hoàng Duy Hằng
       Túc hạ tuy nói: “Hướng về đạo mà trong đây mắt mũi chưa được sáng suốt, thường đem thế pháp, Phật pháp, cùng Tông với Giáo chẳng khỏi cho là hai, thì tất cả ghét – thương, nghịch thuận, lấy bỏ, tốt xấu, bần cùng, thịnh đạt, động tĩnh v.v… ắt là điều bị chia hai.” Hải Ấn luôn luôn vì túc hạ nói Phật Tổ nguyên không có pháp thực cho người. Nhưng chỉ vì người mà nói rõ việc sẵn có của mỗi người”. Tông Cảnh nói: “Lấy nhất tâm làm tông, chiếu vạn pháp làm gương”. Chỉ do chúng ta không thể biết nhất tâm nên Phật thuyết giáo để chỉ. Chúng ta chẳng thể thấy tự tâm nên Tổ mượn thiền để dạy. Cả hai đều bất đắc dĩ. Nay túc hạ nói: “Tập theo giáo, tinh thần chẳng khỏi mệt mỏi, theo tông như cỡi thuận gió”. Đây là túc hạ tập khí Bát-nhã nhiều đời sâu dày. Đại khái như thế. Đối với Hải Ấn tôi, cả hai đều hư dối, đều không nói khó dễ. Nếu túc hạ không đạt được tự tâm thì tông là giải, tà nhiễm, đều rơi vào hang ổ của thức tình, mà giáo cũng là vọng tri, vọng kiến, lạc vào ngôn thuyết nói năng cả, chẳng phải chỗ cứu cánh chơn thật. Riêng chẳng biết kinh giáo là mắt Phật, thiền là tâm Phật, cả hai chẳng phải hai, há có kia đây. Hải Ấn tôi dạy người xem kinh tham thiền đều chẳng phải thuộc loại tri kiến này. Túc hạ hôm nay hiểu như thế, chẳng những cô phụ Hải Ấn cũng lại cô phụ tánh linh của mình. Từng nhớ khi có người hỏi rằng: “Cổ nhân lúc đói ăn cơm, lúc mệt đi ngủ đều là đạo. Người thời nay đói ăn mệt ngủ vì sao chẳng phải đạo?” Thì đáp rằng: “Cổ nhân ăn cơm chỉ là ăn cơm, đi ngủ chỉ là đi ngủ. Do đó là đạo. Người nay ăn cơm chẳng chịu ăn cơm, đi ngủ chẳng lo đi ngủ, suy tính lung tung, do đó trái đạo”. Từ đấy mà xem, túc hạ hằng ngày chỉ đem lông mày vén lên, quát một tiếng khiến thần kinh quỷ sợ, thiên ma vỡ mật, âm quỷ hồn tiêu, một hét hét lui, được bổn địa tĩnh tĩnh lặng lặng, tấc tơ chẳng khoác, trần trùng trục, sạch bon bon. Theo gia phong này cần đọc sách cứ đọc sách, không đọc thì gấp bỏ một bên, chẳng cho đeo một chữ. Muốn làm văn thì làm văn, chẳng làm thì dẹp một bên, chẳng cho nghĩ tính loạn xạ. Cho đến uống trà ăn cơm, cần ngủ cứ ngủ, cần đại tiện tiểu tiện, cứ đại tiện tiểu tiện, chạm đến liền xong, chẳng cho sau đó nghĩ lường giống như hồn quỷ vất vơ. Tuy khô khô sạch sạch, trong trong, trắng trắng, cũng chẳng cho ngồi trong chỗ khô sạch trong trắng. Như thế “đơn đao trực nhập”, một niệm thẳng đến trước thì đọc sách thấy cổ nhân, làm văn cũng chỉ nhắm từ trong lòng mình phát ra miệng, không có trước sau, lúc hàm súc (giấu cái đẹp bên trong) liền là thổ lộ, lúc thổ lộ cũng là lúc hàm súc. Như thế chẳng bị chỗ động, tĩnh, sáng, tối… chuyển, chẳng bị các thứ khéo léo dời đổi. Đó là bậc đại nhân đĩnh đạc, là vị khó lường. Túc hạ tin không? Nếu quả thấy tin được thì khởi lên nhắm đây mà vào.
       Trân trọng, trân trọng.

Dạy Cư Sĩ Mã
       Người học đạo điều quan trọng nhất: tâm sanh tử phải tha thiết. Thứ nhì: biết thân là gốc khổ, tâm là gốc vọng tưởng tạo nghiệp. Thứ ba: chân thật khán phá, công danh, phú quý, thanh, sắc, tài lợi ở đời đều là hư dối chẳng thực. Thứ tư: sợ đời này tạo ác nghiệp tương lai sẽ đọa địa ngục, chịu các thứ khổ không người cứu giúp. Thứ năm: biết mạng căn hiện tại chỉ trong khoảng một hơi thở này. Nếu hơi thở này dứt thì muốn cầu việc tham thiền, học đạo, làm phước như ngày nay trọn chẳng thể cầu được nữa, huống là hưởng phú quý ư? Người học đạo nếu có được 5 tâm này, giờ giờ khắc khắc ôm ấp trong lòng thì tự nhiên lãnh đạm trước tất cả cảnh giới phù hoa, tâm địa tự nhiên trong sạch, đem chỗ học từ trước, bao nhiêu tri kiến, học vấn, miệng lưỡi khéo léo, tất cả buông hết, phát tâm bồ đề, dứt hẳn rượu thịt, chẳng tham, chẳng yêu, trì giới, tu phước, tạo các công đức để làm căn bản tải đạo. Luôn luôn đọc kinh điển đại thừa, trợ phát tự tâm, mở tri kiến Phật, mới có thể quán. Chỉ quán tâm này, quảng đại tròn sáng, thanh tịnh rỗng lặng, một pháp không thể được, vọng niệm vốn không, cũng không sanh diệt, mà căn thân này, tất cả động tác như người huyễn, nguyên không tâm thức. Tất cả cảnh giới trước mắt giống như hoa đốm giữa hư không, chợt khởi chợt diệt, xưa nay chẳng có. Duy chỉ một niệm viên minh, rõ ràng chẳng mờ. Niệm này cũng không, đó là chánh niệm. dụng tâm như thế, trong 12 thời, động tĩnh, nhàn rỗi bận rộn, đều đều như chẳng động; nghịch thuận, tốt xấu, oán thân đều bình đẳng. Tùy thuận thế duyên, làm các công đức, một việc, một pháp đều thành tịnh hạnh viên diệu. Hành như thế gọi là Bồ Tát hạnh. Đạo nhân nếu như thế dụng tâm có thể nói chẳng ra khỏi trần lao mà làm Phật sự, hiện thân Tể quan mà thuyết pháp, nghĩa là báo được ân Phật, báo được ơn nước. Ông bẩm tánh lanh sáng, phát tâm hướng về đạo nên tôi đặc biệt chỉ dạy như thế. Xin tặng cho hiệu là cư sĩ Tịnh Diệu. Nếu ông không phụ tánh linh của mình thì chớ quên lời này.
       Trân trọng.

Dạy Vương – Sinh
       Cầu thọ giới, đổi tên tự
       Vương Sinh tên Đình Tá, tự là Tử Chiêm. Ý của Sinh cho tên mình tục và tự thì phạm đến người xưa, thỉnh huyễn nhân đổi tên mới. Huyễn nhân vui vẻ bảo ông rằng:
       Lạ thay cho tư chất của ông! Truyện có nói: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân” (Nếu ngày đổi mới, ngày ngày đổi mới, ngày càng thêm mới). Nay chí nguyện của ông là bỏ cái cũ, nên ta sẽ làm mới hết. Không những mới cái tên của ông mà mới luôn tâm ông. Tên là khách của thực, tâm là thực của đức. Nếu chẳng nghĩ đến thực mà mong tên rỗng thì chẳng phải đức vậy. Do đây mà quán, chẳng những ông tục ở tên mà còn tục ở tâm, nghĩa là người tục chẳng phải ở áo mão, lời nói, dung mạo mà là thói quen nhiễm ô ở tánh đức vậy. Tánh đức chúng ta vốn sáng, do ngày ngày nhiễm tham dục, do mắt chạy theo sắc tà, tai theo tiếng dâm, mũi theo mùi hôi, lưỡi theo vị bậy, than theo xúc chạm hư vọng, tâm theo nghĩ tà. Sáu cái chen lẫn, chìm đắm mê mờ trong đó, nung đúc dần dần nhiễm quen thói thành tánh, cho là có sẵn, là cố nhiên, cho nên rong ruổi mãi trong cảnh hôn mê. Tánh đức vốn sáng, trở thành vật khác. Đâu biết cái ta cố nhiên này có phải là chính ta xưa cũ không? Thánh nhân thương xót chỗ này, nên ban nước giới để tẩy rửa. Hơn nữa, giới chẳng phải là vật gì khác mà chính là trí quang sẵn có của tự tâm, tức nhà nho gọi là minh đức. Nay người này trí quang chẳng sáng nên minh đức ngày càng mờ. Nay minh đức trở về với thiên nhân, ắt phải sáng trí quang mà phá mờ tối, mờ tối bị phá, bổn thể hiện, trí quang sáng, thì các chướng tiêu. Đức Phật chúng ta sở dĩ cấm sát sanh để thành tựu nhân, cấm trộm cắp để thành tựu nghĩa, cấm tà dâm để lập lễ, cấm nói dối để đôn đốc tín, cấm uống rượu để sáng trí. Ngũ giới đủ thì đủ ngũ thường, bớt lục tình thì tam nghiệp trong sạch. Đây nghĩa là rửa sạch tập nhiễm cũ, tiến đến ngày càng mới, bỏ cái ta xưa cũ mà tạo sự chuyển hóa mới. Nên huyễn nhân cũng đổi tên là Ngôn, tự là Tử Luân, đem danh tự này mà phụng trì giới Phật như theo mệnh vua vậy. Ông hãy cố gắng.

Dạy Chu Tử Tiềm
       Năm màu khiến mắt người mù, năm âm khiến tai người điếc, năm vị khiến miệng người lầm, rong ruổi săn bắn khiến tâm người phát cuồng. Đây là giới của Lão Tử. Không phải lễ chớ nhìn, không phải lễ chớ nghe, không phải lễ chớ nói, không phải lễ chớ động. Lại nói “lúc nhỏ, khí huyết chưa ổn định thì phải giữ gìn ngăn cấm sắc. Đến trưởng thành khí huyết mới cứng chắc thì răn giữ chỗ tranh đầu. Kịp đến già, máu huyết đã suy, ngăn ngừa chỗ sở đắc”. Đây là giới của Khổng Tử.
       Chẳng giết, chẳng trộm, chẳng dâm, chẳng vọng ngôn ỷ ngữ, không 2 lưỡi, ác khẩu, chẳng tham sân si. Đây là giới của Phật. Ôi! Vì tánh chúng ta vốn tự lanh sáng, trong sạch, chỉ vì tập nhiễm vấy bẩn. Ngày càng chìm đắm trong mê mờ chẳng tỉnh. Chỉ trong khoảng mắt, tai, miệng, mũi, thân tâm cùng thanh, sắc, hương, vị, xúc, pháp, đối đãi nhau, dính khắn, buộc ràng, dẫn dắt tâm tranh đấu. Mê hoài chẳng quay trở lại. Nên thánh nhân bi mẫn đặt ra giới - luật, muốn đem trừ tập nhiễm cũ, đoạn dứt trần tập mà hồi phục chân tâm thanh tịnh của mình. Do đây mà quán, giới tại ta mà đủ tại tâm, tu cho thân là nghĩa đạo chẳng xa người. Nên nói: “Thánh cách xa rồi ư? Theo đây tức là thần”. Chúng ta muốn đến nguồn của đại đạo, chỉ ở chỗ thuần cẩn phụng trì theo đây mà thôi. Chu Tử tuổi trẻ có chí tha thiết hướng thượng chú tâm về đây, nên tôi nhân đó viết thư này mà dạy.

Dạy Sa Di Tổ Định
       Ông thường thấy chợ búa ở đời bày bán la liệt thịt chặt, nấu, mà người đi qua, không mấy ai không trố mắt nhìn thèm nhỏ rãi và đều muốn nếm một miếng. Đây là tình thường. Mỗi lần thấy đồ đệ ta xưng là Sa Môn, Thích Tử, thân ở rừng Chiên Đàn, chân đạp đất Thanh Lương, trải qua chợ Đại Pháp bày diệu vị Cam Lồ đề hồ, mà lại coi khinh như thuốc độc, không đáng thương sao?
       Tuy nhiên vì chưa biết nếm qua nên khiến cho biết, há chịu thua cái tình thèm thịt sao? Đức Phật chúng ta đầu tiên ra đời liền đem Ba-la-đề-mộc-xoa để dạy người. Đây là đem cam lồ bày ở khắp đường, mong mỏi người người nếm đến, để đồng vào làng bất tử. Có mấy người đi qua mà chịu nếm? Tôi tùy duyên vào thành Vương Xá, dừng ở vườn rừng đấng Từ Thị, vừa mở chợ Cam Lồ có Sa Di Tổ Định, từ Ngô Hưng đến tham vấn cõi Phật trang nghiêm, pháp môn tối thượng. Nhân đó chỉ vào trong rừng, thì được nếm pháp vị Cam lồ này. Nói là pháp Cam Lồ tức là 4 giới trong căn bản.
       Than ôi! Người ta chìm đắm miệt mài đã lâu trong trường sanh tử, tạo xong khổ-cụ giường đồng đều nương 4 cái dâm, sát, đạo, vọng mà lập. Cho đến Tịnh Độ Trang Nghiêm của chư Phật cũng đều từ chỗ đoạn 4 cái này mà thànhh tựu. Nên nói: đoạn hẳn tâm dâm, mới thành Phật đạo v.v… Nay Sa Di toan bỏ ngói gạch làm tòng lâm. Chuyển đất dơ thành tịnh độ, nếu chẳng lật phá 4 căn làm 4 mặt hồ thanh lương, há có thể biến 3 độc thành 3 loại giải thoát ư? Thế nên Lão nhân Hải Ấn khen rằng: Phật tử nếu muốn thành tựu pháp môn công đức vô tận, phải nên khéo léo học Ba-la-đề-mộc-xoa này là đệ nhất nghĩa đế. Tất cả pháp môn đều từ đây mà vào.

Dạy Ngô Công Mẫn
       Không Sanh hỏi Phật “Làm thế nào an trụ? Làm thế nào hàng phục được tâm?” Phật đáp: “Nên như thế trụ, như thế hàng phục tâm”. Lại nói: “Nên không chỗ trụ mà sanh tâm”. Lại nói: “Tin tâm thanh tịnh tức sanh thực tướng”. Nhưng thực tướng không có tướng thì ở đâu có sanh? Bởi vì sanh tức vô sanh, thì trụ vốn không trụ. Tin tâm như thế thì ngũ uẩn thanh lương, một niệm chóng không, các vọng diệt hết, hàng phục như thế thì không phải hàng phục mà thật là hàng phục. Công Mẫn tin tâm rất thuần nhất, theo tôi xin thọ giới Bồ Tát. Lại hỏi phương pháp gìn giữ tâm. Tôi bảo cho phương pháp điều phục như thế. Lại đổi tên tự là Điều Phục. Còn như tướng tức vô tướng thì chẳng thể đem vô tướng làm vô tướng. Nên lại đặt đó làm định khóa, hằng ngày chẳng đổi, lâu dần thuần nhất, dứt hết các tướng, chóng khế hợp vô sanh. Tức là chỗ nói lòng tin thanh tịnh liền sanh thực tướng.

Dạy Hai Ông Trừng Và Hoành
       Ngữ nói: “Quân tử bên trong chẳng hậu trọng thì ngoài chẳng có uy. Sự học thì chẳng bền chắc”. Lại nói: “Trong không chủ chẳng lập, ngoài không chính chẳng hành”. Lời này tuy nhỏ có thể lấy để dụ việc lớn. Đó là Đạo học Thánh hiền, thế và xuất thế, chẳng có ai chẳng tụ chính tâm, thành ý, tu thân, mà đến được chỗ vật trí tri”, “minh tâm kiến tánh”. Nên Khổng tử vì Nhân lấy 3 điều tỉnh xét, 4 điều chớ làm, làm đầu. Đức Phật chế tâm lấy tam nghiệp, thất giác chi làm gốc. Xem khắp nhân vật xưa nay từ trên xuống dưới, người thành bậc đại khí mở mang nghiệp lớn, ánh sáng chiếu khắp vũ trụ, rỡ ràng làm sư phạm cho người, chưa có ai chẳng do đây mà đến đó, do thô mà đến chỗ cực kỳ tinh tế, do gần mà đến chỗ rất xa. Nay, người học phần đông lấy tai miệng cho là thực học. Cho cái thấy của mình là chân tham. Cho bàn luận phù phiếm là thuận vật. Cho phóng túng là thích tình. Cho sự xuôi theo là dung chúng. Lấy buông lung làm dưỡng khí, cho ăn no ở yên là điều thân, cho duyên tưởng là chính tâm, cho thúc liễm là khô hình, cho đoan trang là ngạo nghễ, cho khắc niệm là tự làm khổ, cho tinh trì là làm duyên, làm bộ. Cho đạo nghiệp là vật lâu dài, cho thân thể là kim cương, cho sanh tử việc thừa. Thân chẳng lập, tâm chẳng tham cứu, đạo nghiệp chẳng thành, học vấn chẳng tinh. Đây là lý do mà đời càng xuống thấp, đạo càng suy vi, tâm ngày càng mờ mịt, chí ngày càng tiêu mất, thói quen ngày càng tệ hại, hạnh thì ngày càng thiển bạc. Kinh điển ngày càng suy đồi, Phật pháp ngày càng hủy diệt. Đuổi gió bắt bóng, người hậu học không nơi nương tựa, mong thấy thực chất trong sạch hoàn toàn trong sự tu của chúng ta có thể được sao?
       Khổng Tử nói: “Thánh nhân ngộ bất đắc nhi kiến chi hỹ. Đắc kiến hữu hằng gia. Tư khả hỹ” (Bậc Thánh nhân ta chẳng làm được mà có thể thấy được. Thấy được người bền bỉ, hằng không thay đổi thì có thể thành thánh nhân vậy). Cho nên mộng của Chu Công, lời than của Phụng Điểu, quân tử có chí há cứ thả lỏng lòng mình ư? Hai ông cố gắng lên!

Dạy Giang Ngô Dư
       Cùng túc hạ mỏi miệng đã 10 năm. Như dạy người uống rượu phải chừa rượu, phải nghiêm trang. Không được không nghiêm trang cung kính. Nói chung sự cung kính đó là thái độ của người say. Nay đọc thư tay của túc hạ, vừa hốt nhiên từ trong mộng say thức dậy. Khiến người động lòng thương sót, rồi mừng rỡ hoan hỉ. Vì ở đời đều say, nếu mọi người đều như túc hạ thì chẳng quý một mình tôi tỉnh. Thường bảo Tô Tử là gã lưỡi dầy một miệng, ông ta mong cầu phú quý, hăng hái không ai bằng, mỗi lần lười biếng, treo tóc lên xà nhà, đâm đùi để đối trị cho tròn chí nguyện. Huống giá trị của bậc thánh hiền xuất thế một người được vô thượng diệu đạo mà đem bao nhiêu vàng ra so sánh cho được? Việt Vương gặp cái nhục Cối Kê, chí muốn báo thù Vua Ngô, bèn nằm gai nếm mật hơn 12 năm, mới xong nghiệp bá. Vậy mà tham ái nhiều kiếp há ngang với thù Ngô? Bị giam hãm tối tăm trong sanh tử, khốn nhục hình hài há ngang với cái nhục Cối Kê? Nếu túc hạ chẳng ôm mối hận, nghiến răng mà quên tâm nằm gai nếm mật, chẳng thể cột tóc sà nhà, đâm đùi cho đau, thì lấy gì để đền đáp cái chí ban đầu? Rửa cái nhục lớn được? Được nghe, trên cùng lập đức, kế đó lập công, sau nữa lập danh. Túc hạ thật có thể đem cái trên cùng tự khích lệ thì nghèo mà có thể vui. Ngoài ra có gì chạm đến tâm? Khổng Tử nói: “Kẻ sĩ để chí nơi đạo mà còn hổ thẹn, ăn không ngon, mặc không đẹp thì chưa đủ cùng họ bàn luận”. Cổ nhân cũng nói: “Nếu có được cái vui đạo nghĩa thì hình hài có thể gạt ra ngoài”. Hình hài đã gạt ta ngoài thì ngoài việc này còn gì nữa. Vậy còn gì có thể chạm đến tâm, lo lắng, mà không khoáng đạt ư? Mong túc hạ cố gắng lên.

Dạy Vương - Mục – Trương Và
Chu - Thế - Phụ
       Người ta thường bảo: “Trời sinh muôn vật chỉ có người là tối linh” Đây là Cổ Ngữ vậy. Tôi cho đó không đúng. Sao vậy? Vì người cùng muôn vật đều đầy đủ tánh linh giác; tánh này chia đồng đều mọi vật, đâu từng có gián cách giữa người và vật. Rốt cuộc sở dĩ khác với vật vì vật có đủ mà chẳng biết. Người thì biết cái đủ này. Người biết vốn đủ mà sống trọn vẹn là thánh, biết nên sống trọn vẹn mà chẳng thể chóng trọn vẹn là hiền. Người biết mà chịu mong cho trọn vẹn là trí. Người biết mà chẳng chịu quay trở lại mong cầu là ngu. Biết mà không chân thật, mong cầu thái quá gọi là cuồng. Biết mà chẳng sáng, chấp một giới hạn cho là tất đáng gọi là hẹp hòi nóng nẩy. Đến như người chẳng biết mà vọng cầu gọi là quái, cùng bọn chẳng biết mà chẳng cầu là vật mà thôi. Than ôi! Đấy là người cùng vật khác nhau, chỉ ở chỗ biết cùng chẳng biết, cầu cùng chẳng cầu. Tuy cách nhau hào ly mà được và mất xa nhau vạn dặm. Trộm xem Tam Tề Quân tử ai chẳng lòng bực bội, miệng tấm tức, miệt thị ngàn xưa, phỉ nhổ công danh. Tuy sự nghiệp như Y, Chu vẫn chẳng đủ xem. Kịp khi hỏi đến tâm tánh thì trố mắt ngậm miệng. Bàn về cái diệu của tâm thì đều cười cợt vỗ tay, đến lúc nói về Phật thì ngó mông lung chẳng đoái hoài. Ôi! Biết có tâm mà không biết có Phật, thì giống như biết hai lần năm mà chẳng biết mười. Thế nên đạo thuật chẳng sáng, mà bậc anh minh hào kiệt cũng chẳng khỏi bị vùi lấp ở đây. Đây chẳng phải lỗi của biết mà kỳ thực là lỗi của không biết. Lại chẳng phải lỗi của không biết, kỳ thực là lỗi của không tin tâm. Tôi trộm nghĩ không phải thật không tin tâm mà vì chưa có người đem chân tâm mà nói cho biết. Nếu như sớm chiều đem chân tâm thật ngữ huân tập, đào luyện dần dần quen thuộc. Tuy chẳng thể tự tin, cũng sẽ theo đó biến đổi. Quân tử ở đời thấy nghe là chuyện thường của tai mắt, thì sự thông minh trời ban cũng sẽ cùng sự thấy nghe mà biến đổi. Nên nói: tập tục dời đổi con người, người hiền cũng không thoát khỏi. Lời đó đáng sợ thay! Than ôi! Tiếng than đêm dài vì ai mà nổi lên. Tôi nay để thân ở biển đông, núi trống đầm lớn, xông vào hiểm trở, đạp vào chỗ cơ nguy cũng đến mấy lần, suýt chẳng thoát khỏi miệng hùm; người biết ta bảo tâm ta lo, người không biết ta bảo ta mong cầu điều gì. Đây sở dĩ ôm lời than đêm dài mà nuốt nước mắt cùng biển động đua chảy. Tuy nhiên một lần khói bay, đại địa mùa xuân bừng dậy, một chiếc lá lìa cành, mà khắp trời thu đến. Vì cảm chẳng sâu nên ứng chẳng tới. Sang năm mới, đất này có 2, 3 quân tử đủ cốt trượng phu, thấy tin tự tâm mồ hôi tuôn thấm 2 nách, mà diệu Dương Hòa sắp thấy. Tôi đem xương hóa sóng dài, có gì ăn năn? Vương Sinh Mục Trương, Chu Sinh Thế Phụ, ngày Đông Quý Tỵ, đến thưa hỏi Hải Ấn, đạo vị thiên nhiên này, đại khái không có mảy may khư khư tục tập. Tôi thầm than: “Đây là những nam tử kỳ khôi”. Tuy nhiên Mục Trương, Mục Trương! Thế Phụ, Thế Phụ! Đã biết cái “bổn hữu” mà chịu tìm cầu, thì tôi cũng mong mỏi ở hai ông. Chẳng mong ông làm Phật mà mong hiện thân Tể Quan, Cư sĩ thuyết pháp, sẽ thấy cội rễ Bát-nhã sâu dày; tập tục nồng hậu, chăm chỉ chuyển hóa. Những người non yếu cõi này, như người hoặc vật đều được dựng lập, đều được dạy dỗ để sanh về làng Cực Lặc. Ông hãy cố gắng! Ông hãy cố gắng! Vì đâu mà xưng là quân tử?

Dạy Đỗ Sinh
       Khổng Tử nói: “Chỗ ba quân có thể đoạt chức nguyên soái, còn kẻ thất phu chẳng thể đoạt chí của hắn”. Lại nói “Ẩn cư để cầu chí, quả có thể cầu sao?” Kha Chi (Mạnh tử) nói rằng: “Giữ cái chí, đừng làm bạo cái khí”. Đây là thánh hiền dạy người, phơi bày hết gan mật. Phàm châu chấu nổi giận giơ càng chống lại bánh xe, cái chí này quả bằng thế sao? Tôi thường xem người học ở đời, người thì nói có chí ở công danh, hoặc có chí ở phú quý, hoặc nói có chí ở trung hiếu. Nêu lên điều gì cũng hay đẹp, kịp đến vừa gặp vũ nhục, lo lắng, hoạn nạn, đói rét, nghèo, bệnh, những chuyễn chẳng vừa lòng thì khí tiêu thần tan, thở than khốn khổ không xiết, vừa gặp kẻ ngỗ nghịch thì phẫn hận chẳng kể đến thân, tửu sắc dâm đãng thì vui đến quên đời. Thế nên tôi thường nói rằng: “Cái chí chưa thấy như lời dạy của Khổng Tử, là chẳng thể đoạt, như lời dạy của Mạnh Tử là gìn giữ nó”. Đây cũng không khác, vì ẩn cư chưa từng cầu vậy. Than ôi! Vũ nhục, ưu hoạn, đói lạnh, nghèo bệnh, ngang ngược, tửu sắc chẳng lớn đối với bánh xe, mà người chẳng phải nhỏ đối với châu chấu nhưng trọn không có một phen phẫn nộ để chống cự. Đây là vì cớ sao? Người học tìm hiểu sâu chỗ này thì mới có thể đem “chí” mà nói với họ.