Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Mộng Du Tập: Trích Quyển Mười Một


~Trích Quyển Mười Một~
Pháp Ngữ
Đáp Tăng Hải Ấn ở Hồ Châu
       Hỏi:
       Người xưa tuy đã theo “đơn truyền trực chỉ”, lại tu Tịnh Nghiệp mà mong vãng sanh, là vì sau khi ngộ tùy nguyện khởi hạnh, hay là chưa ngộ mà kiêm tu hai hạnh? Nếu kiêm tu thì rớt vào “tâm trộm”, “tâm lối tẻ”, công phu đâu thành một phiến được? Còn như đã ngộ, thì mỗi hạt bụi đều là Hoa Tạng, chốn chốn đều ở Liên-Miêu (đài sen), mười phương không đâu chẳng được. Sao chỉ ưa Tây Phương thôi?
       Đáp:
       Kinh có nói: Tịnh Độ có ba:
       - Thường tịch quang độ
       - Thật báo trang nghiêm độ
       - Phương tiện hữu dư độ
       Như chư Phật, Bồ Tát, chư Tổ từ trước “đơn truyền ngộ tâm” đều hưởng pháp lạc của tự tánh, không có người nào chẳng trở về Thường tịch quang độ. Đó là nghĩa Duy tâm tịnh độ.
       Như tất cả các cõi nước đều là Tịnh độ tức Hoa Tạng Trang Nghiêm Thật Báo Độ, cũng là duy tâm mà hiện. Đối với người cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ còn gọi là Phương Tiện Hữu Dư Độ, là một cõi trong Hoa Tạng Trần Sát vậy. Đây là với người muốn cầu vãng sanh. Luận nói: “Chúng sanh mới học, sợ lòng tin khó thành, ý muốn lui sụt, nên Như Lai có phương tiện thù thắng giữ gìn lòng tin, bảo rằng: chuyên niệm Phật A-Di-Đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, tu căn lành hồi hướng cầu nguyện, sẽ được vãng sanh, thường thấy quy y Phật, do đó trọn không lui sụt”. Đây là người chưa ngộ mà tu. Tức chỉ ý Ngài Vĩnh Minh nói: “Nếu được thấy Di-Đà, lo gì không khai ngộ”, vậy nếu tu gồm luôn hạnh này, như chỗ luận nói: “Nếu quán pháp thân chơn như của Phật kia, thường siêng năng tu tập, rốt cuộc được sanh trụ trong chánh định”. Đây há phải là “tâm trộm” ư? Đó là chưa đạt được ý của niệm Phật, chẳng biết ý của Tịnh Độ. Thì biết người đã ngộ, chẳng đợi cầu mà tự vãng sanh, thì người chưa ngộ cũng chẳng phải là đem “tâm trộm” mà niệm Phật, cũng có thể sanh vậy.
       Hỏi:
       Tham thiền quý ở chỗ một niệm chẳng sanh. Niệm Phật quý ở chỗ tịnh niệm tương tục. Đó là một môn tham cứu niệm Phật, ý tại diệu ngộ mà được vãng sanh. Nay lúc niệm Phật, tuy tâm với Phật phân minh, lúc tham thì cả hai đều ngồi dứt hết. Nên công tham thiền dần dần hơn, niệm Phật dần dần nhỏ nhiệm, lúc khác đâu được vừa ngộ vừa vãng sanh?
       Đáp:
       Tham thiền quý ở một niệm chẳng sanh, đúng rồi! Nếu nói niệm Phật quý ở chỗ tịnh niệm tiếp nhau, tức là đem bốn chữ danh hiệu Phật bỏ vào trong tâm cho là tịnh niệm, mà chẳng biết rằng bốn chữ danh hiệu Phật nối nhau chẳng dứt nghĩa là cột niệm chớ chẳng phải tịnh niệm. Vì người căn tánh bậc trung, hạ chuyên lấy niệm Phật để cầu sanh Tây phương, đó cũng là một phương tiện Tịnh Độ.
       Nay nói tham cứu niệm Phật ý tại diệu ngộ, là đem một tiếng “Phật” làm thoại đầu tham cứu, nghĩa là công án tham thiền “niệm Phật”. Như chư Tổ ngày trước đã dạy người tham thoại đầu với các công án: Cây bách trước sân, ba cân gai, cục cứt khô, con chó không có Phật tánh, buông xuống đi, núi Tu Di, v,v,, tùy ý mà đưa lên thành một tắc, chứa ở trong ngực để âm thầm tham cứu. Chủ yếu mượn tắc này để dứt bặt ý căn, khiến vọng tưởng chẳng khởi, lâu dần thoại đầu thành đắc lực, hốt nhiên “chật” một tiếng như đậu nổ trong tro lạnh, đem hang ổ của nghiệp thức vô minh đập một cái tan thành trăm mảnh, đó là diệu ngộ, tham cứu niệm Phật cũng vậy, chỉ đưa lên một tiếng “Phật” rồi nghi xét xem là ai, thể cứu sâu xa: Phật này từ chỗ nào khởi, người niệm cuối cùng là ai? Cứ thế nghi tới nghi lui, tham rồi lại tham. Lâu dần đắc lực, hốt nhiên liễu ngộ. Đây là công án niệm Phật, xét thực cùng với thoại đầu tham cứu nguyên không có hai kiểu. Rốt cuộc cốt tham đến chỗ một niệm không sanh. Đó là tịnh niệm.
       Chỉ-Quán nói: “nếu tâm dong ruổi tán loạn, phải nên thu nhiếp lại quay về chánh niệm”. Chánh niệm là vô niệm, vô niệm tức là tịnh - niệm. Chỉ cần tịnh niệm này chẳng mờ liền là tương tục, há phải để tiếng niệm Phật không dứt mới cho là tịnh niệm sao? Nếu thế, thì chẳng biết tham thiền cũng chẳng biết niệm Phật. Nếu tham cứu quả đến chỗ tịnh niệm hiện tiền thì Tịnh Độ chẳng cần tìm bên ngoài, lúc đó một niệm tức đến được thượng phẩm thượng sanh, là chỗ đến của hạnh này vậy.
       Hỏi:
       Lý “tức tâm tức Phật! chẳng chạy cầu bên ngoài”, tin được đã thấy được suốt thì liền tùy duyên tiêu nghiệp cũ, chẳng tạo ương mới, hồn nhiên hăng hái để chờ thức cạn tự được, hay lại nên khởi nghi – tình tham cứu tận lực để cầu diệu ngộ?
       Đáp:
       Tin được tức tâm là Phật, chỉ là tin suông. Phải cần thực hành để chứng ngộ. Nếu không hành chứng mà tin rỗng cũng vô ích. Há chỉ lấy chữ “tin” liền cho đó là liễu triệt sao? Cổ nhơn nói: “Trước ngộ sau tu”, đó là sau khi ngộ chính nên tu hành. Cổ Đức nói: “Người học nếu được một niêm, chóng khế hợp với tự tâm, đó là diệu ngộ. Nhưng vẫn còn có chủng tử ác huân tập từ vô lượng kiếp đến nay gọi là hiện nghiệp lưu thức. Sau khi đã ngộ được đạo lý, trong 12 thời, miên miên mật mật trừ sạch hiện nghiệp lưu thức, gọi đó là tu, chẳng phải bỏ cái ngộ này ra ngoài, lại có cái tu.
       Tịnh trừ hiện nghiệp tức là tùy duyên tiêu nghiệp cũ, toàn nhờ vào công của ngộ mới có thể có sức trừ sạch thói ác. Nếu chỉ tin suông, lấy gì để tiêu thói xấu. Chỗ nói nghi tình tham cứu v.v… chính là công phu trừ sạch hiện nghiệp, nếu lúc chưa ngộ phải tham cứu chỗ khởi của nghiệp tập-lưu-thức. Kinh nói: “Ngồi yên lặng trong núi rừng quán tự tâm trôi chảy v.v.”.
Nếu đã ngộ rồi, thì chỗ khởi của thói ác, một phen chiếu đến liền tiêu, tự nhiên như mảnh tuyết trên lửa hồng.
       Ngộ rồi tiêu nghiệp cùng với công phu lúc chưa ngộ, hơn nhau như ngày với kiếp, chẳng thể nói đồng ngày vậy.
       Hỏi:
       Tham thiền tâm có lúc các niệm chẳng sanh. Thoại đầu liền đề chẳng khởi, đè cũng chẳng rơi. Lúc ứng duyên, nếu quản đới (đeo mang) lại bị cổ nhân quở trách, mặc kệ thì chẳng thể tiếp tục, chỉ là động tịnh hai bên, làm sao đưa lên tham cứu để chóng được tương ưng?
       Đáp:
       Khi nói tham thiền tạm có lúc các niệm chẳng sanh, nghĩa là chẳng phải thật chẳng sanh, mà là chỗ thoại đầu đắc lực. Chỗ đắc lực này chẳng thể thường, lâu, đến lúc gặp duyên liền mất, hoặc nếu bị cảnh giới làm dao động, tự nhiên động tĩnh hai bên, nên khởi diệt không dừng vậy. Nếu quả có thể dụng tâm, thì ngay lúc một niệm chưa sanh ra sức, lâu dần sẽ thuần thục, như thế bổn thể của một niệm không sanh hiện tiền, thường quang rõ rệt, sáng tối không dời đổi, động tĩnh nhất như mới làm thành một phiến. Đến đây, ứng duyên chẳng cần quản đới, thuận vật hợp đạo. Há có ý cổ nhơn quở trách cái vô sanh chơn thật sao? Về công phu tham thiền, nếu ngay lúc một niệm chưa sanh mà ra sức đề cứu tự nhiên chóng được tương ưng. Nếu đem tam muội “ánh chớp” (lôi quang) cho là được, thì cuối cùng rơi vào hang của thức tình.
       Hỏi:
Vĩnh Gia nói:
“Ai vô niệm ai vô sanh?”
Vân Cư Tề nói:
“Chẳng dứt phân biệt, chẳng bỏ tướng tâm”. Dường như sau khi ngộ, có tưởng có niệm.
Còn Dũng Tuyền nói: “Chẳng cho tẩu tác”.

Ngưỡng Sơn: “Thiền quỷ bất tri” và Thạch Sương: “một niệm muôn năm” v.v…
Lại hình như sau khi ngộ không có tưởng niệm, chẳng lẽ ứng duyên thì có, lìa duyên thì không? Hai nghĩa có không, mong được giải quyết?

       Đáp:
       Người xưa ngộ tức là vọng tưởng, vọng tưởng tức là ngộ, nguyên không phải là 2 loại. Người mê ngồi trong vọng tưởng nên mong diệu ngộ, toan nói là có cái ngộ riêng.
       Kinh Lăng Già nói: Chư thánh từ trước lần lượt truyền trao, vọng tưởng không có tánh, há có hai sao? Chỉ là lúc mê dùng vọng tưởng, lúc ngộ dùng tự tâm, há có sau khi ngộ lại khởi vọng tưởng sao?
       Hỏi:
       Vĩnh Minh nói: “Trước do nghe, hiểu mà tin rồi sao. Sau lấy vô tư khế đồng (không riêng tư để khế hợp), một lần vào cửa tin, liền lên địa vị Tổ”. Phàm Tổ vị rất sâu, nghe hiểu làm sao có thể lên liền? huống như Vân Môn “đã thấu pháp thân”, hay Động Sơn “tất khiến dứt ý thức” là chứng, chẳng phải hiểu. Chỗ hiểu xưng là Tổ vị này, chắc có nghĩa sâu xa?
       Đáp:
       Kinh có Tin Giải Hạnh Chứng là 4 cửa. Hiểu thì có cái hiểu của giải ngộ và cái hiểu của tri giải. Nếu nghe mà tín nhập là việc của tri giải. Còn như Linh Vân thấy hoa đào, Hương Nghiêm nghe chạm trúc chóng rõ tự tâm, đây là cái hiểu của giải ngộ, một lần hiểu liền suốt được tự tâm, tức đem chữ “hiểu” mửa bỏ, nghĩa là vào cửa này rồi, chẳng còn tri giải liền xưng Tổ vị. Nếu nghe việc trong nhà của người khác, hiểu được rồi cho là mình có, há có thể xưng là Tổ sư ư? Đã thấu nhập pháp thân nếu bóng dáng chẳng quên, chính là rơi vào thức tình, hoàn toàn còn tri giải, thế nên Cổ nhân chẳng quí nó. Nếu chơn thật ngộ không chỉ hiểu mới xưng là Tổ, mà ngay lúc mới phát tâm tức được Bồ đề. Há có thể cùng tri giải đồng sao?
       Hỏi:
       Sơ Tổ dạy Lăng Già để ấn tâm, Hoàng Mai khiến tụng Kim Cang mà kiến tánh, Câu Chi tụng Chuẩn đề, Thủ Sơn trì Pháp Hoa, thì dường như tham thiền chẳng ngại việc trì tụng. Dược – Sơn chẳng cho xem kinh, Triều Châu chẳng thích niệm Phật, cho đến Cao – Phong nói: “Thoại đầu miên mật liền là một quyển kinh không dứt”, lại hình như cấm tuyệt tụng trì, mà quý ở chỗ đưa lên tâm ấn.
Đến sau lấy tham thoại đầu làm chính, kiêm trì Hoa Nghiêm và niệm Phật làm thời khóa. Nay muốn ngưng khóa này, duy tham thoại đầu, chỉ còn nguyện lực, chưa biết được không?
       Đáp:
       Sơ Tổ và Tổ Hoàng Mai lấy Lăng Già và Kim Cang ấn tâm là vì đạo thiền mới đến sợ những học dụng tâm sai lầm, nên lấy kinh ấn cho chính tâm, không đến nỗi lầm lẫn, chẳng phải đem kinh làm cái hiểu của mình.
       Câu Chi trì Chuẩn đề là dùng chú làm thoại đầu tham cứu, cũng theo duyên mà vào. Như Thủ Sơn tụng Pháp Hoa, là sau khi ngộ rồi dùng làm Phật sự, tức chỗ nói “tâm ngộ chuyển Pháp Hoa” chẳng phải lấy tụng kinh làm công hạnh.
       Còn không cho xem kinh niệm Phật chính là sợ người học mê mất tự kỷ, lấy làm pháp thực để hội. Như người tham thiền, lúc chưa ngộ, chẳng ngại trì tụng để mượn pháp lực gia trì, dùng làm trợ hạnh như ba kỳ sám hối. Cổ nhân tất chẳng thể thiếu. Nếu ngộ rồi tụng kinh thì chữ tâm quang, bày lộ đều là diệu hạnh. Há so với bọn noi theo giấy mực, chim xuân kêu ngày sao?
       Hỏi:
       “Chỉ lo không thành Phật, chớ buồn Phật không biết nói”. người xưa dạy thế. Người học đời nay chẳng vụ chân tu mà lo cơ phong, chuyển ngữ, lầm vậy. Nhưng tự biết chưa ngộ, thì tha thiết nhắc nhỏm. Chỉ vì kiến địa chưa sáng sợ là tu mù luyện đui, nên giữa thầy trò, bạn đạo cần hỏi đáp thù xướng. Đây chẳng lẽ hại ư? Hoặc giả sức học chẳng rành thương lượng, tất đợi ngộ rồi mới thốt lời thì kiến địa còn thiếu sót, từ đâu mà khởi hạnh? Huống việc đào luyện lý tánh, quyết trạch đúng sai, như ba lần lên, chín lần trèo, vì một câu mà đi ngàn núi, đều ở khi chưa ngộ?
       Đáp:
       Thời xưa người ngộ tâm gọi là người mắt sáng. Nếu bậc tác gia gặp gỡ, như hai gương chiếu nhau, chẳng câu nệ có lời hay không lời, tự nhiên chạm mắt đạo còn, chẳng cần nhất định phải thù tạc cơ phong, tranh hơn cho là cao. Người học về sau, cuồng vọng ruổi rong, miệng lưỡi lanh lợi, thật chẳng đủ lấy. Nếu là tham học có nghi thì trước người sáng, mắt nên chân thành thỉnh ích, bày lộ bổn tâm. Như thế cũng chẳng phải gặp gỡ qua miệng lưỡi. Đến như rộng tham bậc tri thức, chỉ vì quyết trạch tâm này. Đâu ngại lời nói rơi trên cỏ, quang co, thương lượng bình thực. Mới là bổn sắc của đạo nhân. Nếu vụ cơ phong ứng thù thì là việc đầu cửa cuối song, chẳng phải chơn thật. Người chân tham thực ngộ quyết chẳng rơi vào đây.
       Hỏi:
       Người thấy tự tánh, được tự do đối với sanh tử, làm chủ được, có thể chuyển nghiệp lúc lâm chung. Chư Tổ kia được tự do thì chẳng luận, cao Thảo Đường Thanh, thiền sư Ấn v.v… sao cách lại mê? Há ngộ có cạn sâu, tu tập có nặng nhẹ ư? Hay cũng là đại bi tăng thượng, vốn cao thượng mà dấu vết thấp thỏi nhưng người không tự biết chăng? Không thế thì người học đâu còn tin ở pháp môn kiến tánh được?
       Đáp:
       Cổ nhân nói: Một lần ngộ liền thoát sanh tử, tức là ngộ tự tánh pháp thân. Còn có hạt giống tập khí vô minh nhiều kiếp là nhân khổ sanh tử, chưa chóng hết được, nên phải nhiều kiếp tu hành mới thành Phật đạo. Lại như Bồ Tát Thất Tín, đã ngộ tự tánh, địa vị lên bậc bất thối, lại trải qua 42 vị, dần dần dứt tập khí vô minh, mới thành Phật đạo, há có thể đem cái ngộ của thất tín liền cho là Cứu cánh thoát sanh tử? Thì biết biến dịch sanh tử vẫn cùng với cái khổ nhỏ nhiệm tương ưng. Nên nói: “Bồ Tát có cái mê cách ấm”. Chỗ nói chuyển nghiệp chỉ là đạo lực thù thắng nên có chuyển mà chẳng phải nhất định tiêu được định nghiệp. Thực ngộ có cạn sâu, tập có dày mỏng, nhưng sau khi ngộ, ở trong sanh tử mà chẳng bị sanh tử giam giữ, đến đi tự tại, nên gọi là biến dị sanh tử. Người ngộ tâm này ở trong sanh tử, dù mê cũng dễ giác, ắt chẳng đến nỗi quá điên đảo. Kinh nói: “Một phen thành thể vàng ròng, chẳng trở thành quặng nữa”. Há nên lo lắng sẽ mê lại, mà coi thường pháp môn kiến tánh. Nếu vốn cao mà vết thấp, lại chẳng luận ở đây. Nhưng Phật chẳng thể thoát định nghiệp thì chẳng phải lỗi của ngộ tâm vậy.

Đáp Cấp Gián
Đoạn Huyễn Nhiên
       Hỏi:
       Chân tâm viên diệu, chưa có ai chẳng do ngũ ấm làm chướng sự nhập vào đất Như Lai, chưa có ai chẳng do phá trừ ngũ ấm mà thành. 55 vị trong Lăng Nghiêm thứ lớp rất tường tận. Từ cạn đến sâu, ắt do phá ấm nọ mà sau leo lên địa vị kia, lấy sự phá chướng để đối với thứ bậc. Chư gia hiểu còn chưa được rõ ràng, huống là chỗ học vấn khó nghĩ đến, tìm tòi khó đến được. Chẳng lẽ bỏ qua sao? Kinh nói: “Người thọ ấm dứt rồi, tuy chưa được lậu tận, tâm không còn vướng vào hình tướng, từ thân phàm phu này, trải lên 60 thánh vị của Bồ Tát, có thể thấy phá sắc ấm, chắc chắn ở ba thứ lớp không còn gì nghi nữa. Vả lại tu tập chơn thật, các công tăng tiến đều tại sắc thân mà khởi. Sự phá sắc ấm, nhất nhất đều có thể tỏ ra. Riêng đem thọ, tưởng v.v… nhiếp vào trong 60 vị, vẫn chưa phân biệt chắc chắn. Ma kinh nói: “Lại vì thức ấm nếu hết như trong bình lưu ly sạch sẽ dựng mặt trăng báu”. Như thế là lượt hàng thập tín. Có thể thấy ngũ ấm gồm trong thứ lớp (tu hành) chỉ là vì người sau chưa để ý đến. Ấm kia chưa dứt thì chẳng thể siêu thập tín. Ấm nọ chưa tan thì chẳng thể siêu thập trụ v.v… Đến khi thức ấm tiêu mất, 60 vị thứ mới siêu. Nay nếu nói: “Phá ấm là việc của phá ấm, đâu cần quy hết về 60 vị, vị thứ là riêng của vị thứ, đâu cần quy hết về phá ấm” thì, có hai cửa vậy.
       Lại nữa, trải qua các địa vị mà không cùng nhập vào ngũ ấm, thì trong thứ lớp tu sẽ thiếu công phá ma, thứ lớp chẳng thành thứ lớp. Phá ấm mà không cùng nhập vào tam hiền, thập thánh thì trong phá ấm thiếu vị thứ tu chứng, thì phá ấm chẳng thành phá ấm. Mong thầy mỗi mỗi phân tích giảng rõ mở cái chấp mê của con. Nay bọn cướp tông đoạt án chỉ quý mắt sáng chẳng quý thực hành, bảo là đi trên đảnh Tỳ Lô, còn có ngũ ấm nào? Có thứ lớp nào? Thật là đại vọng ngữ, tai hại vô cùng. Ngay đến Tổ đắc đạo của tông môn cũng nói: “Một xong, tất cả xong, chẳng trải 3 kỳ kiếp”. Nay chẳng bàn về thần thông của thập địa, chỉ như Bồ Tát thập trụ tùy tâm nguyện có thể dạo 10 phương, chỗ đến tùy nguyện, các bậc cao hiền truyền đăng (nhà thiền) có thủ đoạn này không? “Lúc mới phát tâm liền thành chánh giác” e mới thuộc trong sơ càn huệ, chưa chắc là hậu tâm Kim cang càn huệ. Kế đó lại thấy Cổ Sơn chủ, bài văn “thức ấm tan, các căn hỗ dụng” tức Viên giáo trong giới thất tín, tương tợ tư hoặc đã hết, có thể vào Kim Cang càn huệ, từ địa vị tương tợ siêu nhập hậu tâm đẳng giác.
       Thiên Thai nói rõ Viên giáo: “Người lợi căn một đời có thể siêu nhập đến thập địa” cũng phù hợp với ở đây. Vừa nghe văn này bất giác vỗ tay nói: “Thức ấm nếu hết, như thế là siêu thập tín, thập trụ, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác v.v… Chữ “siêu” là chẳng trải qua 55 địa vị vậy. Thế thì từ ba thứ lớp về sau tức phá ngũ ấm. Ấm nếu phá thì 55 địa vị có thể siêu hết chăng? Nếu thế thì ngoài “hành bố” (thứ lớp tu tập) có một loại pháp môn khác, mong Thầy chỉ dạy rõ cho con. Nhà nông mắc hạn mong mưa, một ngày xem như một năm, lần thỉnh ích này, càng thêm thiết tha sâu xa, mong Thầy chớ tiếc sự giúp đỡ quý báu này.
       Vũ Xương Đoạn Nhiên cúi lạy.
       Đáp:
       Đọc đến chỗ hỏi Lăng Nghiêm phá ấm có cạn sâu, cùng 55 vị đối nhau đồng hay khác. Đây là chư Phật và Bồ Tát trụ trong tam-ma-địa (định), cảnh giới thân chứng, chẳng phải phàm tình có thể vọng lường. Nghĩa này chư sư ngày xưa cũng phải nghi đến. Ngay Tông Cảnh tuy nghiên cứu tột cùng tánh tướng, nhưng cũng chưa bàn đến đây. Và người học một cách đại khái nên cũng chưa bàn đến đây. Và người học một cách đại khái nên cũng chưa thể lưu tâm. Riêng tôi (sơn dã), thông suốt nghĩa chỉ ở 3 thứ lớp và văn kết vị, tuy có phát huy một chút, cũng chưa tường sự phối hợp các vị thứ; Như Lai hỏi, v.v… có cái thấy rất sâu! Tôi (sơn dã) thô thiển tối tăm, lại thiền định chưa sâu, ngũ ấm chưa phá, nên cảnh giới trong định đâu dám dối nói. Cư sĩ vì phát mà có tâm thiết tha, ý hỏi thành khẩn, nên tôi chỉ dám y theo thánh ngôn lượng, lược trình bày khái quát.
       Chỗ nói ngũ ấm là tất cả chúng sanh đều chịu cái khổ-cụ (dụng cụ chịu khổ) sanh tử. Đối với bậc tu hành, chưa có ai không phá ngũ ấm mà có thể vượt sanh tử, nên Như Lai ra đời chăm chăm chỉ cốt phá cái dụng cụ ngũ ấm sanh tử của chúng sanh, tức thời giáo một đời đều bàn về phá ấm. Tản mạn trong 5 thời không đâu không thuyết, nhưng chưa có thứ lớp. Duy chỉ có một cuốn kinh Lăng Nghiêm, thâu hết thời giáo một đời, thống nhiếp nhân quả tu chứng mê ngộ, đủ hết hai đường thánh-phàm để tiện cho người tu hành làm một đường Niết bàn môn. Nên vị thứ tu chứng đầu đuôi nêu tường tận. Hơn nữa lại đặc biệt nêu ra cảnh giới phá ấm trong định. Vì kinh này, người chơn thật tu hành chuyên lấy một cửa thiền định thâm nhập mà dùng phá ấm để nghiệm sự cạn sâu. Nên vị thứ chẳng đồng với Hoa Nghiêm, Anh Lạc v.v... thuyết. Vì Hoa Nghiêm tròn đầy biến quả, một vị đầy đủ tất cả vị, tuy bày thứ lớp, chẳng thuyết đoạn chứng, cốt ở chỗ mượn thứ lớp để hiển viên dung. Nên “lúc mới phát tâm liền thành chánh giác”, là lấy quả giác làm nhân tâm. Trong kinh Anh Lạc, tuy vị thứ rành rẽ, mà ý ở chỗ phần đoạn, phần chứng, nên theo kiến-tư, trần sa, vô minh để định thứ lớp tu chứng (hành bố). Như chỗ giải thích của Thiên-Thai, kinh này cùng hai kinh kia rõ ràng không đồng. Riêng theo Lăng Nghiêm Đại định đốn ngộ tiệm tu nên lấy tâm không sanh diệt làm gốc tu nhân. Thì trước ngộ chân tâm diệu viên làm gốc phát tâm, nghĩa là dùng tâm này dứt dần tập khí để định vị thứ cạn sâu. Chính trong Khởi Tín Luận: “phát tâm tu hành lấy ngộ chơn như làm gốc”. Đến chỗ đoạn hoặc, luận lại phần nhiều y theo đoạn chứng của tướng tông, riêng theo lục thô tam tế để định vị thứ. Đây là trước ngộ sau tu. Nên luận lấy phá hoặc để định vị thì dễ rõ. Kinh này lấy phá ấm để định vị thì khó hợp. Vì sao? Nếu theo luận thì Tín vị đoạn chấp thủ, kế danh tự, khởi nghiệp là 3 loại hoặc thô. Tam Hiền đoạn trí tướng, tương tục là hai hoặc: tế trong thô và thô trong tế. Từ sơ địa đến thất địa đoạn Hiện tướng trong tam tế. Bát địa đến Đẳng giác đoạn Chuyên tướng. Kim Cang tối hậu đoạn Nghiệp tướng. Trong kinh này, văn nói rõ về đoạn và chứng. Nay nếu lấy ngũ ấm đối với hoặc, hợp vị thứ cao thấp, thì nghĩa kinh phần lớn chẳng đúng vậy.
       Vì kinh có nói rõ: “lý phải đốn ngộ, nương ngộ đều tiêu”. Đây không trải qua các vị. “Sự phải dần trừ, nhân thứ lớp mà hết”. Đây lại căn cứ theo sự đoạn để xác minh vị. Theo kinh này thì trước ngộ sau tu, chính là phù hợp với nghĩa luận vậy. Nếu theo nghĩa luận, trước đoạn hoặc nghiệp tại Tam hiền, sau đoạn vô minh thì đăng địa, như thế cùng kinh này có khác chút ít. Tường tận văn kinh này trong 3 thứ lớp, tức được vô sanh pháp nhẫn. Từ đây tiệm tu, an lập thánh vị. Nhưng vô sanh pháp nhẫn là đăng địa, đã chứng chơn như bình đẳng, mới được nghĩa này. Ý kinh lấy trong 3 thứ lớp chuyên dùng chơn như làm gốc hạnh. Lại nói:
Ngược dòng toàn nhất
Quốc độ mười phương
Ví như lưu ly
Sáu dụng chẳng hành
Rõ ràng thanh tịnh
Trong đựng trăng báu
(Phản lưu toàn nhất
Thập phương quốc độ
Thí như lưu ly
Lục dụng bất hành
Kiểu nhiên thanh tịnh
Nội hàm bảo nguyệt)
       Đoạn sau văn nói: “Thức ấm nếu hết, như lưu ly sạch, trong đựng trăng báu”. Như thế là vượt thập tín cho đến đẳng giác viên minh nhập vào biển Như Lai Đại Trang Nghiêm. Lấy lời này của Phật làm chứng, thì ở trong 3 thứ lớp đã vượt các vị, ứng với lúc trước chưa đăng vị, đã phá thức ấm, chẳng đợi đến tương tợ tín vị, lại đâu dám vọng đem phá thứ ấm thứ lớp phối hợp các vị sao? Xem kỹ ý Phật, thì chẳng đúng vậy. Nghĩa chính của kinh này phần lớn cùng các kinh không đồng. Vì các kinh tùy thời tùy cơ bàn nghĩa một đoạn trong tu chứng, chỗ phá hoặc cũng tùy cơ mà tùy chỗ nghiêng nặng, tức là thuốc ứng với bịnh trong một lúc. Kinh này gồm hết thời giáo một đời. Không cơ nào chẳng nhiếp, coi trọng chỗ chuyên phá cội gốc sanh tử. Chuyên chỉ tập khí dâm dục là gốc rễ sanh tử. Đại định là dụng cụ phá địch… Nên kinh đặc biệt đưa ra hai loại vô minh phát nghiệp và nhuận sinh, là đem đại định phá ngay 8 thức căn bản vô minh mà dùng định chặt đến cùng. Dù bát thức chưa phá mà kiến-tư hoặc, trần-sa hoặc tự nhiên (nhậm vận) rơi trước. Đến như dùng tâm bất sanh diệt làm gốc tu nhân, chính là dùng tâm Kim cang làm gốc thiền định. Nên kinh nói: “Đây gọi là Diệu Liên Hoa, Kim cang Vương Bảo Giác”. Do đây quán thì lúc mới tu định, ở trong 3 thứ lớp, lấy định nghiên cứu tận cùng đả phá bát thức, thấu suốt tâm địa Kim Cang. Đây là lý tu đốn ngộ, nương ngộ đều tiêu, thì có thể siêu vượt các vị vậy. Nếu nói: “từ đây an lập thánh vị”, thì việc này phải dần trừ, nhân thứ lớp hết, tức là theo sự xâm nhập, đoạn trừ tập khí vô minh nhiều kiếp. Riêng lấy sự dày mỏng, nhẹ nặng, theo địa vị để phán định sâu cạn, cao thấp vậy. Đây là theo đốn ngộ tiệm tu, do phá ấm mà nhập vị, nguyên không có hai đường.
       Nghĩa này chính cùng với Quy Sơn nói: “Nếu người một niệm chóng rõ tự tâm, thì gọi là ngộ, rồi đem chỗ ngộ trừ sạch hiện nghiệp lưu thức, gọi là tu chẳng phải ngoài đây có cái tu khác. Vì chúng sanh theo dòng sanh tử (dòng có bốn loại: dục lưu - hữu lưu - kiến lưu và vô minh lưu), nay trong ba thứ lớp; dục ái khô sạch, căn cảnh chẳng gặp, hiện tiền người gì còn sống sót chẳng sanh lại nữa, tức là đoạn 3 dòng: dục, hữu và kiến.
       Gọi càn huệ địa là bảo càn huệ này chỉ khô sạch hữu, chưa cùng với nước pháp lưu của Như Lai tiếp xúc, tức là dòng vô minh vẫn chưa khô vậy. Dòng vô minh này là dòng vô minh trong tâm Kim Cương. Tông môn xem đó là chơn thường lưu chú.
       Nên văn kết hợp các địa vị của kinh nói: “thì biết mới được sơ càn huệ địa trong tâm Kim Cang”. Đây nói về thứ lớp (tiệm thứ) trước được càn huệ, về sau thẳng đến đẳng giác, lúc đó dòng tập khí vô minh trong tâm Kim Cang mới được khô vậy. Do đây mà quán thì ở trong ba thứ lớp đã phá bát thức, đốn ngộ tự tâm, từ nhập vào tín vị về sau thẳng đến thẳng giác thông đoạn tập khí vô minh, chính là phải dần trừ, do đó từ từ hết. Vì thế vô minh ắt phải trải qua các vị, sau đó mới hết. Vì từ trong cảnh giới chơn tịnh, khi vừa sanh một niệm vô minh, sanh tử liền khởi lên, vô lượng kiếp đến nay khởi hoặc, tạo nghiệp, đều là lỗi của vô minh vọng tưởng. Vì ở trong thời gian dài sanh tử, bao kiếp nhiễm trước ái dục, tập khí sâu dày, nên cần phải dùng tâm Kim Cương lớp lớp mài luyện, mới được trở về tâm địa cội nguồn. Cho nên từ tín vị nói: “Viên diệu mở bày, trung đạo thuần chơn”. Cuối cùng bèn nói: “lớp lớp như thế, đơn, kép có 12 lớp”. Chính là nêu rõ việc đem công phu đại định này làm tiêu mòn tập khí. Lại như kinh nói: “ngũ ấm mỗi mỗi đều lấy vọng tưởng làm gốc”. Nếu lấy phá ấm so với các địa thì kinh ban đầu trong tín văn nói: “Đem tâm này lưu nhập vào trong, tất cả vọng tưởng sẽ diệt hết không sót”. Thế thì đâu thể đem ấm mà nhập vào các vị được? Nếu đem vọng tưởng mà tu thì chẳng gọi là chơn tu. Lại trong 3 thứ lớp, hiện tiền mất hết không sanh lại nữa, thì đây đã ra khỏi 3 cõi sanh tử rồi.
       Văn sau nói thức ấm hết tức siêu mạng trược há chỉ phá thức ấm thôi sao? Thọ là chấp thọ tứ đại có khổ, vui v.v… Nếu thọ ấm chẳng phá, thì chẳng được chánh thọ. Nếu tưởng ấm chưa phá, thì khổ vào Xa-ma-tha (chỉ). Nếu hành ấm chưa phá, thì sanh diệt chẳng dừng, chẳng phải là chánh định. Nếu thức ấm chẳng phá, thì chưa ngộ chơn tâm, khó đứng vào các vị. Do chứng đắc như thế, thì trong 3 thứ lớp đã phá ngũ ấm, quyết chẳng đem ngũ ấm đối chiếu với các vị, thật là rõ ràng, há có thể riêng phá sắc ấm! Do ngũ ấm đều phá, mới gọi là chơn ngộ. Do phá bát thức tiến tu gọi là chơn tu. Đó là phá ngũ ấm mà đốn ngộ lý này. Sau đó đối với các vị, chỉ căn cứ đại định để tiêu ma tập khí vô minh nhiều kiếp. Chính là nói sự phải trừ dần. Đến như 55 vị, các điều công đức, vì trong Như Lai tàng đủ có hằng sa công đức, xứng tánh rồi bị vô minh biến làm hằng sa nghiệp tập sanh tử, nên nay dùng tam muội kim cương như huyễn, mài luyện nghiệp tập (tập khí vọng nghiệp) hóa làm thần thông diệu dụng.
       Vì chỗ hóa cạn nên vị thấp, chỗ hóa sâu nên vị cao.
       Khuê Sơn nói: “Giác tiên tiên phi, danh hậu hậu vị” (biết điều trước, điều trước là sai, gọi sau, sau mới định vị). Lấy đây mà quán đại nghĩa kinh này, chỉ lấy việc quán tâm nghiên cứu kỳ cùng, tiến phá vô minh, theo vị để xác minh sự cạn sâu của chứng nhập, thì chẳng phải phần đoạn, phần chứng có thể so sánh vậy. Do trước phá ấm mà sau nhập vị. Chẳng phải căn cứ phá ngũ ấm để phối hợp với các vị, điều này đã rõ ràng. Đâu thể chấp cứng rằng tùy theo sự phá ấm mà xếp đặt vị thứ được? Nhưng nói “phá ấm” là vị Phật sợ các người tu hành được chút ít cho là đủ, lầm loạn tu tập, nên đặc biệt nêu rõ để ngừa tà lầm. Chẳng phải lấy đây để xác minh vị thứ. Hơn nữa thức ấm chưa phá, dễ rơi vào nhị thừa, điều này thật để biết. Chỉ có Thiền môn đốn ngộ tự tâm, chóng ra khỏi sanh tử thì chẳng rơi vào giai cấp. Như thế trong 3 tiệm thứ (thứ lớp), chóng phá bát thức, tự nhiên siêu vượt các vị. Nhưng Tổ sư tuy nói: “siêu vượt” là chỉ nói pháp thân Phật thôi, chưa hẳn đủ có tướng quang trang nghiêm, thần thông diệu dụng. Nghĩa là chư Phật Như Lai chưa ai không ngộ tự tâm mà thành Phật. Nếu một lần ngộ mà được vô sự ngay, thì chư Phật vì sao lại trải qua 3 đại a-tăng-kỳ kiếp? Nay người ngồi trên bồ đoàn chưa ổn, muốn đem cái thông minh thế trí, ăn trộm công án cổ nhân, tự khoe tri kiến, vọng nói chứng thánh, tự cho siêu Phật vượt Tổ, thật là người tăng thượng mạn, chưa được mà nói được, đọa đại vọng ngữ chẳng đáng sợ? Bọn này há có thể đem phá ấm hay chẳng phá ấm cùng với bậc chơn tu ra so sánh ngang hàng sao? Vừa rồi đi về phía Đông, thấy thiền giả rất nhiều, mà người rơi vào thượng mạn chẳng ít, tôi (sơn dã), đặc biệt nêu phá ấm để ấn chính. Người nghe hổ thẹn mà phục, có thể bẻ gảy cái tà. Thấy cư sĩ (bạch y) bàn thiền, phần nhiều rơi vào bệnh này. Bây giờ nếu chơn thật tu hành, chỉ lấy 3 thứ lớp (giai đoạn) thực hành, chỉ tự tâm, quyết một phen mau ra khỏi sanh tử là việc gấp. Nếu tự tâm một lần sáng, thức ấm phá được thì 4 ấm trước, chẳng đợi phá mà tự phá. Lại như:
Đưa đầu vào kiếm bén
Giống như chém gió xuân
(Tương đầu lâm bạch nhẫn
Nhất tợ trảm xuân phong)
       Há sắc ấm có thể làm ngại được. Lại nói: “Lão tăng hay chuyển 12 thời”. Lại nói: “Thở vào không ở trong ấm giới, thở ra chẳng dính các duyên” há nằm trong thọ, tưởng, hành ấm sao? Lục Tổ lúc lâm chung tự biết chỗ đi, há chẳng phải chỗ đến tùy nguyện sao?
       Như thế thì chẳng phải chỗ cho người nói bừa là chứng thánh, có thể nghĩ tới. Chúng ta chỉ quý tham cứu cho sáng tự tâm, cầu một phen ra khỏi sanh tử, chẳng cần phải bàn luận phá ấm cùng vị thứ có hợp hay chẳng hợp. Đem lý mà suy lường, lấy lời thánh chứng minh. Cái thấy dở tệ của tôi như thế đó, bậc cao minh có gì xin dạy cho.

Tây Đường Quảng Trí
Thỉnh ích giáo thừa, có 6 điều nghi:
1. Hỏi:
Cổ nhân phán giáo nói:
       Song thùy lưỡng tướng
       Nhị thủy đồng thời
       Sơ thuyết Hoa Nghiêm
       Bổn bị đại thừa
       Nhị thừa tuyệt phần
       (Hai lần chỉ dạy – Hai tướng khác nhau – Hai sự bắt đầu một lúc. Đầu tiên thuyết Hoa Nghiêm - Vốn dành cho đại thừa - Nhị thừa chẳng có phần). Lúc chuyển Tứ - Đế tại vườn Lộc Uyển, Thâu Tử (XLP) và Mục Kiền Liên còn chưa bỏ tà xuất gia, cớ sao trong văn kết thúc Hoa Nghiêm có Thinh – văn Xá Lợi Phất v.v... Nếu căn cứ theo văn kết thì nhị thừa được nghe Hoa Nghiêm, cớ sao trách rằng Nhị thừa không phần? Văn nghĩa đều trái nhau, mong Thầy rủ lòng phân tích rõ.
       Đáp:
       Trong kinh nói chư Phật mười phương đồng một thân, một trí huệ như nhau nên trong cõi Phật mười phương chỉ nói pháp Nhất thừa. Do đó trong trường Bồ Đề lúc mới thành chánh giác, Phật liền thuyết Hoa Nghiêm là pháp Nhất thừa tối thượng dành riêng cho chúng sanh đại căn, là nói xứng hợp với thực trí mà thuyết. Đâu dè chúng sanh căn cơ bất nhất. Có cái hiểu trung, liệt, chẳng thấy nghe thì gọi là tuyệt phần. Nên tùy cơ hạ liệt mà Phật cảm hiện hóa thân nhỏ bé, có 8 tướng thành đạo ở Lộc Dã Uyển nói pháp tam thừa. Nghĩa là pháp thân chân thật của Phật giống như hư không, ứng vật hiện hình như trăng trong nước. Vì chỉ tùy cơ cảm nên hiện thân như vậy. Chỗ thuyết pháp là dùng quyền trí phương tiện.
       Trên hội Hoa Nghiêm, trong rừng Thệ Đa, Tượng vương của Văn Thù xoay mình thì Xá Lợi Phất v.v... có 6 ngàn tỳ kheo thành đạo ngay dưới lời. Đó cũng là Bồ Tát địa thượng gọi là Đại A La Hán. Nay Phật đã hiện ứng thân nhỏ bé, thị hiện sanh trong nhân gian mà các ngoại đạo chấp chặt ngã kiến, chưa dễ nhiếp hóa, nên Xá Lợi Phất v.v... cũng tùy hiện tướng Thanh văn, phụ giúp tuyên dương Phật pháp giáo hóa để gây ảnh hưởng đến mọi người. Chỗ nói những người “nội bí ngoại hiện” chẳng phải là thực Thanh văn. Còn trách nhị thừa không có phần là trách Thanh văn thực hành chấp tướng mà Xá Lợi Phất v.v... chịu nghe quở trách. Chính là phương pháp đánh trống thổi tiêu để giáo hóa vậy. Giống như trên sân khấu, mỗi người một vai để diễn tả tình tiết buồn vui, lìa hợp. Đến lúc vãn tuồng thì không dính dáng gì với mình cả. Nên Bồ Tát lợi sanh như đùa chơi vậy: điều hòa mà ứng, ngẫu nhiên mà hợp. Há là pháp thực sao?
       2. Hỏi:
       Trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Nhãn chẳng thấy Phổ Hiền, như thế ba phen nhập định, xem khắp tam thiên đại thiên thế giới cũng chẳng thấy. Liền đến bạch Phật, Phật dạy: “Ông trong tam muội lặng lẽ, khởi niệm sẽ thấy”. Phổ Nhãn vừa khởi một niệm, liền thấy đức Phổ Hiền ở trong hư không.
       Nếu thân Phổ Hiền là nhất chân pháp giới, đáng lẽ ở trong tam muội thấy được, cớ sao lại chẳng thấy. Nếu Phổ Hiền là thân sắc tướng, lúc chưa nhập định phải thấy. Cớ sao Phật dạy khởi niệm mới thấy?
       Đáp:
       Pháp thân vô tướng, dù cho Phổ Nhãn cũng chẳng nhìn thấy. Ở trong định, cầu mà chẳng thấy. Vì pháp thân không có kia, đây để có thể thấy lẫn nhau. Thì biết có thể thấy là cửa thứ hai, nên khởi niệm mới thấy.
       3. Hỏi:
       Trong Khởi Tín Luận:
       “Chân Như huân bên trong nên có vọng tâm, rồi chán khổ sanh tử, mong cầu Niết bàn”. Vọng tâm có 2:
- phàm phu, nhị thừa nương sự-thức huân tu.
- Bồ Tát nương nghiệp-thức huân tu.
Nay người học tham cứu, chỉ nương sự-thức, chẳng thể nương nghiệp-thức. Tham thiền vốn là pháp môn Đại thừa, nếu y sự-thức mà tham thì trở thành hạnh quả phàm phu, nhị thừa. Nếu lúc tham, hai thức cùng dùng thì lại trái lời cổ nhân nói: “lìa tâm, ý, thức mà tham”. Mong thầy rủ lòng khai quyết.
       Đáp:
       Kinh thuyết phàm phu, nhị thừa nương sự thức tu. Bồ Tát nương nghiệp thức tu là căn cứ chỗ nương thức phát tâm thủ chứng vậy. Nay người tham thiền phát tâm, tuy từ sự thức mà dùng chỉ cốt phá ngay thùng sơn nghiệp thức, thấy thẳng một lần hướng thượng trước lúc chưa mê. Chẳng rơi vào hang ổ của hai thức. Nếu được chút ít cho là đủ thì chẳng thể lìa tâm, ý, thức vậy.
       4. Hỏi:
       Cổ nhân nói: “Chẳng quý chỗ thực hành (hành lý) của lông, chỉ quý kiến địa của ông” Lại nói: “Kiến địa chẳng sáng, rơi xuống hầm hố”. Nay các nơi giải nói có hai:
- Thuyết học rộng kinh luận, nương chỗ hiểu gọi là kiến địa.
- Thuyết sau khi ngộ sáng rồi mới là kiến địa.
       Nếu học hiểu là kiến địa, cớ sao tông môn chẳng cho xem kinh? Nếu sau khi ngộ mới là kiến địa thì nay người sơ tâm thực hành lấy pháp nào làm kiến địa để tránh khỏi tai họa rơi hầm?
       Đáp:
       Hiểu là kiến địa có 3 loại chẳng đồng: có học hiểu, có tin hiểu và có ngộ hiểu. Nếu theo lời dạy, hoặc trên công án Tổ sư hiểu được chỗ cứu cánh của Phật Tổ chẳng rơi lối tẻ. Đây gọi là học hiểu nghĩa là nương địa sinh hiểu.
       Lại có người chưa gần ngôn giáo, nhưng chỉ quyết định tin tự tâm, trọn không một vật. Đó là tin hiểu (tín giải).
       Nếu tham cứu, một sáng rõ được bổn hữu đây là ngộ hiểu (ngộ giải).
       Ba cái này đều gọi là kiến địa. Nếu nương theo cái khác mà hiểu đều rơi vào chướng-tri-kiến. Còn tin hiểu như vậy, cũng cần tu tập để đến chỗ thực chứng. Còn ngộ giải tuy một niệm đốn ngộ còn có hoặc chướng vi tế từ vô thủy cũng cần trừ sạch.
       Ba kiến địa này tuy quý, nếu chẳng thực hành, trọn khó được cứu cánh. Nay, cổ nhân quý kiến địa chỉ lấy căn khí làm gốc. Chẳng phải hoàn toàn không thực hành. Lời nói một lần của cổ nhân chẳng thể cho là thực pháp để hội.
       5. Hỏi:
       Cổ nhân nói: Tham cứu ở chỗ bửa củi, gánh nước, hành cước mà tham. Nay người học cốt ở ngồi yên lặng. Công tham có sức. Nếu ở trong 4 oai nghi cùng vật giao tiếp, tâm niệm bay nhảy thì thoại đầu chìm mất. Nếu chỉ tĩnh tọa thì lại trái với sự luyện tập của cổ nhân. Nếu dùng vật giáo tiếp thì trọn ngày tán tâm. Làm sao khiến người học trong nhật dụng, động tĩnh không trái nhau?
       Đáp:
       Cổ nhân hành công phu, cốt ở đi, đứng, nằm, ngồi, trong 4 oai nghi khán giữ, chẳng phải dạy ông ngồi chết khô. Vì mới vào thiền, tâm phần nhiều tán loạn, quấy động, mới phải ngồi yên nhiếp tâm. Kỳ thực cốt đem việc làm trong tĩnh lặng đi vào chỗ động nghiệm xem thế nào? Nếu dụng tâm miên mật tự nhiên động tĩnh như một, làm thành một mảnh. Nay đối cảnh tâm niệm bay nhảy, là đối với thoại đầu toàn không đắc lực. Há là người chân tham sao? Nay chỉ cần thoại đầu đắc lực, chẳng câu nệ động tĩnh, tự nhiên chẳng bị chúng chuyển.
       6. Hỏi:
       Kinh nói: “Tâm, Phật, chúng sinh cả ba không sai khác”. Lại nói: “Cõi Phật đồng, cõi chúng sanh đồng”. Lại nói: “Độ hết chúng sanh mới thành Phật đạo”. Nếu chúng sanh và Phật bình đẳng, Phật không có nghĩa độ sanh. Làm sao độ hết chúng sanh mới thành Phật đạo? Nếu Phật, Bồ Tát độ hết chúng sanh, cõi Phật dường như tăng dần, cõi chúng sanh dường như giảm dần. Làm sao bảo chúng sanh và Phật bình đẳng?
       Đáp:
       Tâm, Phật, chúng sanh xưa nay bình đẳng vì chúng sanh là chúng sanh trong tâm Phật, nên Phật độ chúng sanh của tự tâm. Nếu tướng chúng sanh đã không, tức là độ tận chúng sanh, tức thành Phật của tự tâm. Dù một tâm đều làm chúng sanh, thì chúng sanh tự làm chúng sanh của tự tâm, mà cõi Phật chẳng giảm. Dù cõi chúng sanh hết, chỉ là tiêu hết mỗi mỗi cõi chúng sanh, vì tâm bình đẳng nên Phật cũng chẳng thêm. Phật quán cõi chúng sanh không. Nếu chúng sanh tự tâm chẳng không thì chúng sanh cũng chẳng giảm. Ví như bầu trời mây mù, u ám, hư không cũng chẳng giảm, mây tan sương tiêu, hư không cũng chẳng tiêu, mà thể hư không vẫn lặng lẽ. Thế thì cõi Phật há có tăng giảm sao?

Đáp Đại Khiết
Có 6 câu:
       1. Hỏi:
       Người Trì luật nói: mới học không biết trì luật e cử động sai lầm. Thọ giới có thứ tự quyết không nên mãng liệp. Nhưng trong đây đại, tiểu thừa quyền thực ứng dụng. Tuy căn cơ nhân nơi lợi, độn, tùy cạn sâu không phải là không có tệ đoan, may có nêu ra quỹ tắc để khiến người lanh lợi kính mộ tuân theo, và người độn căn bắt chước hay chăng?
       Đáp:
       Phật thiết giới, bộ Luật ghi đã rõ ràng. Bổn ý vì chúng sanh có tám vạn bốn ngàn phiền não nên đặt 84.000 luật nghi làm thuốc trị bệnh. Muốn khiến bệnh phiền-não tiêu trừ, pháp thân được thanh tịnh. Vì căn cơ có lớn, nhỏ. Nên giới có 3 bậc: Sa Di 10 giới, Tỳ kheo 250 giới, Bồ Tát 10 giới trọng, 48 giới khinh. Vì 2 loại giới Sa Di, Tỳ kheo là nhân sự mà đặt nên gọi là giá giới, nghĩa là ngăn dứt lỗi lầm. Tuy Đại Tiểu Thừa đều tuân theo mà phần nhiều vì Tiểu Thừa chỉ chấp thân không hành; có người có thể chấp tâm chẳng khởi tức là Đại thừa, cũng ở sự tướng mà đặt giới. Đến như kinh Phạm Võng nói giới 10 trọng, 48 khinh, gọi là tánh giới. La Bảo Thân Phật Bổn Sư Lô Xá Na thuyết: pháp môn tâm địa của chư Phật, gọi là Kim Cang bao giới, trao cho Thích Ca Văn Phật lần lượt truyền hóa, nói tánh giới nghĩa là liễu đạt tự tánh thanh tịnh, xưa nay chẳng nhiễm, chóng ngộ pháp thân thanh tịnh sẵn có, tánh tự đầy đủ, nên gọi là giới.
       Kinh nói: “Nếu người thọ giới Phật tức nhập địa vị Phật”. Nên đức Thích Ca trong 49 năm thuyết pháp, chỉ truyền giới-pháp này mà thôi. Cuối cùng niệm hoa chỉ dạy, cũng dạy giới tánh này mà thôi. Chỗ ngộ của Lịch Đại Tổ Sư cũng là viên thành giới quang này mà thôi. Nên quán tất cả chúng sanh, hạt giống Phật tánh xưa nay bình đẳng, vì đông đủ pháp thân bình đẳng. Lấy Phật tánh mà quán chúng sanh thì phàm khởi một niệm sát, đạo, dâm, vọng cho đến nói lỗi của tứ chúng, tự khen mình, chê người, báng Tam Bảo tức đoạn huệ mạng Phật, cùng giết Phật không khác. Nên kê khoa 10 tội nặng. Nếu đem pháp thân bình đẳng mà quán chúng sanh thì không thể sát, đạo, dâm, vọng cho đến hủy báng, vậy là viên mãn đốn giới. Nhưng quan trọng là riêng tại chủng tử Phật tánh tức huệ mạng Phật, do đó chẳng những thượng căn lợi trí có thể thọ mà hoàng hai căn, dâm nam, dâm nữ, cho đến quỷ thần như hiểu lời pháp sư đều kham thọ lãnh. Chỉ cần tin chủng tử Phật tánh của tất cả chúng sanh tức là pháp thân bình đẳng. Nếu có thể quán như thế, thì đối với tất cả việc làm trước mắt hằng ngày, cảnh giới gặp gỡ đều là ánh giới sáng soi. Như thế chẳng những chấp thân chẳng hành mà ở sát, đạo, dâm, vọng, chạm mắt, niệm niệm Phật tánh hiện tiền, ắt chóng hóa thành khối ánh sáng (quang minh tụ), há chỉ chấp tâm chẳng khởi mà thôi ư? Nhưng pháp trì giới tại giá giới đã đành là khó, đầu mối ở giữ gìn 3 nghiệp, chế phục tội lỗi. Chỉ có tánh giới này mới thật khó. Cốt đem một mảnh tâm kim cương giữ gìn chẳng mất. Nếu một niệm mờ mất tức hoàn toàn đọa lạc. Há là việc nhỏ sao? Nên hàng sơ tâm thập tín trong Hoa Nghiêm, trì giới này thuyết phẩm Tịnh Hạnh 120 đại nguyện thì chỗ dùng hằng ngày không rỉ chảy. Còn theo sự tướng đến như sơ tâm thập trụ trì giới có phẩm hạnh quán xét lìa tướng tức là phương pháp trì giới này. Sơ cơ thường trì 2 phẩm kinh này, lâu dần tự nhiên tương ưng.
       Nói “tệ” là tại giá giới có chấp tướng, tức là phần đông ngã mạn tự cao, có cái tệ ghét người huy giới.
       Người trì tánh giới có cái tệ chưa đắc nói đắc, buông lung mặc tình nhận giặc làm con. Trừ hai mối này, chẳng hỏi lợi, độn. Đều gọi là người chân thật giữ giới.
       2. Hỏi:
       Tham thiền nói:
“Giữ luật chẳng bằng tự tánh”, trọn thuộc lầm lẫn. Muốn cầu kiến tánh không gì qua tham cứu, trong đó nghi-ngộ xen nhau, con-giặc khó đoán. Mong rủ lòng xem cho chắc để khỏi đọa hầm mê?
       Đáp:
       Phật dạy sa mon tu tập Giới-Định-Huệ tam học Luật tức là Giới học, tham cứu là Định học. Nhưng trong kinh bày định-học là diệu môn Tam Quán, là đường tắt ngộ tâm. Sau nhân đạo Thiền đến, trong chỗ chỉ thẳng truyền riêng, kiến tánh là thiền mà chẳng nói định. Nhưng thiền tức là định vậy. Ban đầu Đạt Ma dạy Nhị Tổ chỉ là cái “tìm tâm trọn chẳng được” gọi là đốn ngộ. Cho đến Lục Tổ chỉ là dạy người “chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, cái gì là bổn lai diện mục của chính mình?” Tức từ đây cầu ngược lại tự tâm liền là công phu tham cứu. Lúc đầu không có thuyết khán thoại đầu, hạ nghi tình, sau đến Hoàng Bá trở xuống mới dạy người khán thoại đầu, đem một tắc công án của cổ nhân làm bổn tham, truyền nhau làm pháp thực. Kịp đến bây giờ, sư-gia dạy người chỉ tham công án, chẳng cứu xét tự tâm. Nhân đây làm nghi lầm nhiều người. Nên nay người tham thiền tuy đông, chưa có được người chánh tri kiến. Hơn nữa, đem tham-thiền hủy báng kinh là bởi vì chẳng phải chân thật tham thiền vậy. Riêng chẳng biết cổ nhân vì muốn người học có chỗ vào, đặc biệt dùng một lần phương tiện quyền nghi, chỉ cốt cho người biết bổn tâm mình. Phật Tổ há có hai tâm sao? Riêng chẳng biết đề thoại đầu, ngăn dứt ý căn, chẳng cho một niệm sinh diệt trôi chảy là yếu môn nhập định. Mà nay riêng làm cái tưởng kỳ đặc nên phần nhiều tự lầm.
       Nếu nay tham cứu thì không thể không tham thoại đầu, vì sơ tâm tán loạn khó chế phục. Cốt ở đây làm “lỗ mũi”, nên lúc chưa đề tên, phải cần trước hết đem thân tâm trong ngoài nhất tề buông xuống, buông đến chỗ không thể buông; từ đây thong thả, hết sức đề khởi thoại đầu. Nhìn lại chỗ khởi, rốt cuộc là cái gì? Vì chưa thấy rõ tự tâm nên hạ nghi tình: “Thế nào là bổn mạng nguyên thần của chính mình?”. Như thế truy cầu, gọi là tham cứu. Cần niệm niệm chẳng mê, tâm tâm chẳng đổi. Ngày đêm tựa chắc bỏ ngủ quên ăn. Hốt nhiên đậu nổ trong tro lạnh. Bổn thể một niệm hiện tiền. Đó là ngộ bổn tâm mình. Đến đây y nguyên chỉ là người thuở xưa. Lại không có một chỗ kỳ đặc mảy may nào. Nếu được một niệm hoan hỷ mà tự cho là đủ, gọi là nhận giặc làm con, hà huống tạo các thứ tri kiến, nói kệ, nói tụng làm của lạ ư? Cần thiết chẳng nên rơi vào lưới ma này.
       3. Hỏi:
       Công án nói:
       Thoại đầu phá nát rồi thì 1700 cát đằng (công án) chẻ dễ như phá tre. Nhưng một tắc nếu sai lầm thì một loạt mây mù nổi dậy từ những cái phá nát trước, mới tin đó là cửa quỷ. Nếu chẳng biết cái tệ này mà đùa bỡn tinh hồn thì tam đồ ẩn sẵn vậy.
       Đáp:
       Người học quả có thể thấy rõ tự tâm, đến đất chẳng nghi thì cùng mười phương chư Phật, lịch đại Tổ Sư chung lỗ mũi thở ra. Lại nói cái gì là công án với chẳng công án? Việc này chẳng phải việc trên phần người sơ cơ. Hãy để riêng đó, chẳng cần để ý.
       4. Hỏi:
       Ấn giáo nói: Người chẳng hướng trên kinh ấn chứng, thì chẳng được chánh tri kiến. Đây là lời dạy cũ của Hòa Thượng. Nhưng đường nghĩa giải là tập khí cũ, tập khí cũ khó tiêu, như dầu vào trong bún, nếu vạn nhất trong chỗ ấn có một tơ ý thức, thì người ngộ chuyển rơi vào ấm ma, rồi phát tà kiến, làm hại chẳng nhỏ. Mong chỉ bảo chỗ thắc mắc.
       Đáp:
       Lão nhân tầm thường muốn người tu hành dùng giáo (kinh) ấn tâm. Nghĩa là vì chỗ thấy, chỗ biết của mình một bề không người sáng suốt chỉ dạy tà chánh, muốn đem kinh Phật ấn chính. Như trong kinh Lăng Nghiêm, Lăng Già, Viên Giác đều thuyết công phu thiền định là cốt yếu của ngộ tâm. Đem tự tâm đối chiếu xem. Như chỗ Phật nói ra chẳng bằng Phật không nói. Nên nói: “Lấy Thánh giáo làm gương sáng chiếu soi tự tâm, chẳng phải đem câu lời huyền diệu trong trở lại cho là cái hiểu của mình. Như chỗ hiểu của ông, chính là chẳng biết chỗ rơi của thoại đầu. Đến như chúng ta, các thứ bịnh tâm, chỉ có Phật mới bày tỏ hầu hết: như trạng thái thăng trầm 7 thứ, hình thức của 50 loại ấm ma trong kinh Lăng Nghiêm, Tà kiến của ngoại đạo nhị thừa trong kinh Lăng Già, Phật nói chẳng phải ít mà đâu biết sợ, còn theo ư? Ta nói ấn tâm là chỗ này vậy. Chỉ cốt lấy kinh chiếu tâm, chẳng ở nghĩa lộ (theo đường nghĩa giải). Chẳng phải chỗ nghĩa lộ đến, các thứ tập khí xưa lại chẳng chỉ ở nghĩa lộ vậy.
       5. Hỏi:
       Xiển giáo nói: Pháp bố thí thì lớn, pháp cúng dường thì cao nhất. Do ngộ ấn giáo, tức ấn xiển giáo, tợ hồ khế hợp tri kiến Phật, chuyển Pháp luân lớn, nhưng ngộ chẳng phải chân ngộ. Do ấn tự tin, ấn chẳng phải chân ấn, do xiển dương (suy-diễn) tự gánh vác, xóa sạch các chú cước, riêng khoe cái sáng của mình. Là sư-tử hay là chồn cáo: dễ đổi với việc tự quấy động. Là xiển dương, là báng dèm: khó đối với sự tự tri. Mong rủ lòng phân định rõ. Xin vâng làm quy củ mãi.
       Đáp:
       Làm đệ tử Phật, nhớ ơn Phật khó đền, chỉ có thay Phật truyền bá giáo pháp là người chơn thật báo ơn. Nên chư sư ngày xưa hoằng pháp có 3 loại chẳng đồng:
       + Tự ngộ bổn tánh, khéo khế hợp tâm Phật. Đối với lời dạy của Phật như từ trong ngực của mình lưu xuất. Tứ biện tài vô ngại. Hơn nữa, thâm nhập biển kinh, sóng bủa mông mênh, như các đại Tổ Sư Thiên Thai, Thanh Lương, Khuê Phong vậy.
       + Tuy chưa ngộ tự tâm, y lời Phật dạy ấn định tự tâm, rộng dò biển giáo, như chỗ hiểu mà thuyết, chẳng lầm ý Phật. Đây tuy chưa vượt khỏi ngôn tượng mà chẳng dám vọng đem cái thấy của mình nói bừa, y theo giáo phô diễn, là như chư đại pháp sư từ trước.
       + Có chủng tử Bát Nhã huân tập sẵn có như có công phu thiền định, tự sáng tâm mình, khéo khế hợp ý Phật, chỉ chưa kinh nghiệm (quảng thiệp) nhiều, nghe nhiều, mà chính kiên chẳng lầm.
       Tuy có cái lỗi lấy cạn làm sâu mà không có tội hủy báng pháp. Chỗ hoằng dương đều lấy pháp thí làm tâm, chẳng cầu danh lợi cung kính của thế gian như là các lão Ôn Lăng, Tịch Âm vậy.
Đây đều là cái lớn của pháp thí. Còn có người thông minh lợi căn, chỉ cậy cái thấy của mình là được, bài xích cổ kim, rộng miệng bàn ngang, chỉ dùng hoằng pháp làm lợi, đây chẳng người phá hoại Phật pháp, còn làm người sau lầm đọa. Như thế há có thể xứng là xiển dương Phật pháp sao? Đây rõ-ràng dễ thấy, chẳng hỏi cũng có thể biết.
       6. Hỏi:
       Tụng Cổ nói: Cổ nhân ngộ rồi, tụng cổ như vẽ vời hư không, không rơi vào sắc tướng. Nay người ngộ chưa thể triệt, vội dễ dàng tụng cổ, buông câu nghĩ thơ, cơ giống như hài hước, cho là lời ngộ, cảnh ngộ, như nem nướng đút miệng người. Một lần chuyển thân đọa vào loài hồ, điềm nhiên không biết sợ. Đây là lưu lệ thời mạt pháp. Chúng con dễ mắc vào hầm này. Mong ban lời khuyên ngăn, khắp nơi nhờ ơn sâu.
       Đáp:
       Tụng Cổ từ trước đã có. Chẳng qua phát huy chỗ cổ nhân nêu sơ lược để dạy thi thiết (công việc tỉ mỉ) của môn đình. Vì làm sáng tỏ đại cơ đại dụng, và ra tay tha, bắt, giết chết, cứu sống. Chẳng phải lo nói cho đã miệng (thỉ khẩu túng tình), lờ mờ mà được. Tụng này, người xưa xiển dương giáo pháp có hai việc đều chẳng phải chỗ người sơ cơ nóng nảy làm. Đâu cần chuẩn bị. Cổ Đức nói: “Chỉ được liễu ngộ tự tâm, chẳng lo chẳng biết nói pháp”. Như thế thì người sơ tâm chỉ lấy việc tham cứu tâm, cầu sáng đại sự của mình là cấp thiết, không nên ôm cái thấy này vậy. Chúng ta nếu có thể liễu ngộ tự tâm, dù chẳng xiển dương giáo pháp, chẳng tụng cổ cũng là chơn thật xuất gia, chẳng phụ mặc áo cà sa vậy.

Không có nhận xét nào: