Thứ Hai, 13 tháng 5, 2024

Hoa Nghiêm- Bài 42- Tinh thần cầu học của Thiện Tài Đồng Tử:Văn - Tư - Tu. -“Lý sự viên dung”, “Tri hành hợp nhất”

Thiện Tài Đồng Tử tiêu biểu cho Bồ Đề trí giác hay Bồ Đề tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc giáo hóa của Chư Phật. Vì Bồ Đề tâm là đối tượng chính để Phật thị hiện khai thị, khơi dậy tiềm năng giác ngộ sẵn có trong mỗi con người.

Thiện Tài là một Phật tử tha thiết đi tìm chân lý, là một thực thể tuyệt đối, tuy thường hằng nhưng đa dạng, tuy chói sáng nhưng ảo diệu lung linh. Vì thế đề tránh đi lỗi lầm của “người mù sờ voi” mà Thiện Tài đã không quản khó nhọc gian lao đi hỏi đạo khắp nơi.
Suốt mấy mươi năm lặn lội chân trời góc bể tìm thiện tri thức để học hỏi pháp môn tu Bồ Tát Đạo và Bồ Tát Hạnh, Thiện Tài đã thực hành đầy đủ ba phương pháp Văn - Tư - Tu.
Lãnh hội những lời kim ngọc của các bậc thiện tri thức là Văn.
Nghe xong lại lên đường, trên quãng đường dài, thuận tiện cho Thiện Tài có đủ thời gian chiêm nghiệm những bài học đã qua, ngõ hầu thâm đạt ý nghĩa sâu xa là Tư.
Đồng Tử lắm lúc gian nan lại thêm những cảnh trạng bày ra trước mắt, khi ở chốn hoang vu lâm sơn, khi ở chốn phồn hoa đô hội nhiều sự phân biệt hơn thua tranh giành cấu xé lẫn nhau, tiếp xúc đủ hạng người trong xã hội, việc đối đãi qua lại lắm lúc Thiện tài cảm thấy chán nản mệt mỏi buồn thảm. Nhưng khi ấy Thiện Tài vội định tâm không để thất tình lục dục chi phối. Thiện Tài quán cuộc đời qua các pháp môn đã học để chặn đứng những ý nghĩ đen tối của mình đó là Tu.
Chính nhờ thực hành nhuần nhuyễn phương pháp Văn - Tư - Tu. Thiện Tài đã nắm được chìa khóa mở được ngôi nhà chánh pháp. Nhờ quá trình tu học hoàn mãn, Thiện Tài đã thể nhập đến chỗ “Lý sự viên dung”, “Tri hành hợp nhất” từ lúc nào không hay biết.
Trong quá trình tu học, Thiện Tài biết kết duyên với các bậc Thiện Tri Thức, những người thông đạt giáo lý, có trình độ tu chứng đắc các pháp môn Tam Muội, giải thoát thiền định, trí tuệ. Đó là những người đã trợ giúp cho mầm giác ngộ của Thiện Tài được tăng trưởng. Cho nên Thiện Tri Thức là yếu tố thứ hai sau yếu tố tiên quyết của Bồ Đề Tâm là người trợ duyên đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo tri thức cho Thiện Tài Đồng Tử. Họ là những người có Kinh nghiệm đi trước chỉ phương cho hành giả đi đến đích. Như người leo núi phải hỏi những người đang xuống núi. Hơn nữa, Thiện Tri Thức là người tạo môi trường tốt đẹp để hành giả tiến tu.
Thiện Tài Đồng Tử là người có ý chí nghị lực phi thường và những đức tính sáng ngời về phương diện tinh thần nên Thiện Tài có đủ khả năng vượt qua mọi gian lao thử thách, những cám dỗ của cuộc đời và những chúng sanh cang cường.
Thiện Tài học đạo với tinh thần khiêm cung tự hạ:
“Ai cũng có thể là thầy ta” với tâm niệm tha thiết cầu tiến, Thiện Tài học đạo với đủ mọi thành phần trong xã hội. Với ai, Thiện Tài cũng một lòng kính cẩn ngưỡng mộ, từ các đồng tử cho đến trưởng lão … người nào cũng có cái hay để Thiện Tài học hỏi. Dù ở giai cấp nào, nam nữ, thương gia, thuyền chủ, kỹ nữ … cho đến các bậc quyền quý cao sang như quốc vương, trưởng giả… ai cũng có thể dạy cho Thiện Tài những bài học vô giá.
Tinh thần cầu học của Thiện Tài Đồng Tử trong Kinh Hoa Nghiêm giống Bồ Tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa.
Trên tinh thần toàn diện đó, Hoa Nghiêm đúc kết những tinh hoa của cuộc đời để lập thành mẫu người lý tưởng là Thiện Tài có đầy đủ Kinh nghiệm thiện xảo về cuộc đời để nhập thế hành đạo Bồ Tát, như vậy mới đem lại lợi ích thiết thực hơn.
Học đạo với tinh thần không chấp :
Khác hẳn với chúng ta, Thiện Tài không bao giờ đặt ra khuôn mẫu cố định về Thiện Tri Thức. Còn chúng ta luôn nghĩ rằng Thiện Tri Thức là những người phải học cao đức rộng, tinh thông tam tạng. Thiện Tài quan niệm Thiện Tri Thức rất rộng rãi, ai là người tỉnh thức chỉ bảo cho mình đều là thiện hữu cả. Tuy nhiên người học Phật phải luôn cảnh giác nếu không khéo sẽ tự đồng hóa mình với ngoại đạo nên Phật dạy: “Y pháp bất y nhân” .
Cho nên khi bái kiến Bà La Môn Thắng Nhiệt ở nước Y Sa Na vị này bảo Thiện Tài trèo lên núi đao, nhảy xuống hầm lửa đỏ, hay lúc gặp quốc vương Vô Túc đang tra tấn tội nhân “Tiếng la dậy đất, tiếng kêu thấu trời” và đầy những cực hình hung tợn … thử hỏi gặp những người và cảnh như thế Thiện Tài làm sao không cảnh giác cho được? Còn khi đến nhà kỷ nữ Bà Tu Mật Đa, một giai nhân tuyệt sắc, Thiện Tài phải cố gắng giữ lòng, đầy đủ oai nghi giới hạnh mới học được pháp môn “ly tham dục tế”.
Đại thừa chủ trương “Phật Pháp là bất định pháp” cho nên ngoài việc bất định khuôn mẫu Thiện Tri Thức mà những pháp học cũng đều mang tính bất định pháp. Vì pháp môn nào cũng hàm ẩn chân lý giải thoát cả, tư tưởng này phá bỏ những cố chấp theo một chiều của những người tu tiểu thừa khép kín trong giáo lý nguyên thủy. Thiện Tài Đồng Tử học đạo như con ong bay đi khắp nơi để hút chất ngọt trong các nhụy hoa tinh luyện thành thứ mật thơm quý. Cũng vậy, Thiện Tài biết dung hợp các môn phái dù là không môn, hữu môn, Pháp tánh, Pháp tướng hoặc Thiền hay Tịnh, Hiển hay Mật, Tiểu Thừa hay Đại Thừa, tất cả đều tương dung tương nhiếp trong ánh sáng chan hòa của Phật Pháp, nên Thiện Tài đã lần lượt học các pháp môn một cách thông đạt.
Thiện Tài phát Bồ Đề Tâm cốt để “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” là chí nguyện của một vị Bồ Tát nên Thiện Tài vừa trau dồi trí tuệ vừa mở rộng tâm bi, đồng thời học đủ vạn hạnh của một vị Bồ Tát như: lục độ, tứ nhiếp pháp, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, lục thông, ngũ minh … Có khi một pháp môn mà Thiện Tài phải học nhiều lần với nhiều vị thầy khác nhau.
Về giáo dục tri thức để đào tạo Ngũ Minh cho một vị Tu Sĩ là một hệ thống giáo dục tốt đẹp của Phật giáo trong bất cứ thời đại nào, ở bất cứ nền văn hóa nào....
+ Ba vị Bồ Tát sau cùng là Di Lặc, Văn Thù và Phổ Hiền là những vị Bồ Tát thượng thủ thừa hành Phật ấn chứng cho vị “Tân Bồ tát” chính là Thiện Tài Đồng Tử. Đến đây Thiện Tài Đồng Tử cảm thấy sung sướng vì “Công viên quả mãn” cả một đời hy sinh cho lý tưởng giác ngộ được thành công tốt đẹp.
Tinh thần cầu học của Thiện Tài được Kinh Hoa Nghiêm ghi nhận một cách rất tỉ mỉ và logic từ sự đến lý, từ tướng đến tánh trong một hệ thống phân tầng từ thấp đến cao, từ thế gian đến xuất thế gian. Qua đó ta thấy việc giáo hóa hay mục đích khai thị giác tâm cho chúng sanh và tính giác ngộ tự nguyện của con người có sự thông nhiếp với nhau gọi là “tâm cảm tâm” . Thiện Tài được Bồ Tát Văn Thù khai tâm qua lời thuyết pháp mà sanh niềm tin gọi là “tùng Phật khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh”.
Cho nên phải biết người đó từ trong Phật pháp mà sanh ra và kết tinh thành con người sống động, đầy đủ Bồ Tát hạnh làm lợi lạc cho đời. Đây chính là hình ảnh cao quý cho những hành giả có tâm nguyện Đại Thừa. Thật đúng là :
Hoa lòng đã sớm nở rồi
Thì hoa Bát Nhã kịp thời nở đơm
Gió làn hương dịu mát thơm
Mới hay thịnh đức, chứa dồn từ lâu.
(Văn thơ Phật giáo – nhiều tác giả)
Ý nghĩa tìm cầu Năm Mươi Ba vị Thiện Tri Thức:

Không có nhận xét nào: