+ Kế tiếp gặp Đức Vân Tỳ Kheo, sau khi đi vòng chậm rãi đi Kinh hành ở đỉnh núi, toát ra đức hạnh cao cả như ngọn núi cao vời Ngài đang sống. Nhằm nhắc nhở chúng ta sơ tâm học Đạo cần phải tìm một người đức hạnh để nương theo. Bước đầu tu tập mà không gần gũi người đức hạnh, thì sau này dù giỏi cách mấy cũng không dùng được. Vì “Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không giá trị”.
+ Rời Đức Vân, đồng tử đến tham vấn Tỳ Kheo Hải Vân . Nơi đây Ngài dạy đồng tử ngồi trên bờ biển quán sát chúng sanh, tức quán chiếu căn cơ chúng sanh trong biển sanh tử, trong sáu nẻo luân hồi, thấy rõ cạm bẫy của cuộc đời để đi vào đời không bị vướng mắc. Đến chỗ Thiện Trụ Tỳ Kheo học về pháp vô ngại, trụ tâm ở ngoài vòng phân biệt của phàm phu.
Đây là giai đoạn tu chùa, trang bị tâm thật an định, trí tuệ cao và đức hạnh lớn, đầy đủ ba tư cách này mới dám dấn thân vào đời.
+ Đồng Tử tiếp tục tham vấn với Y Sư Di Già và trưởng giả giải thoát. Gặp Di Già tại chợ lục đạo hay là cuộc đời. Tu trong chùa là tu lý thuyết Kinh điển, cần phải tiếp cận cuộc đời cho lý sự viên dung. Ở đời ta có dịp quan sát cách đối xử của mọi người để tích lũy những Kinh nghiệm, tăng bản lĩnh, từ đó việc đem đạo vào đời dễ dàng hơn. Nhờ quán sát biết ai căn cơ Thanh Văn thì dạy pháp Thanh Văn, ai căn cơ Đại Thừa thì truyền Đại Thừa giáo, do đó ta mới dễ thành công.
+ Di Già dạy đồng tử tất cả kinh nghiệm ở đời và khuyên gặp Trưởng giả giải thoát để học về pháp xả tránh sự trói buộc của các pháp thế gian.Trưởng giả giàu là nhờ thiện phước, lại không bị của cải ràng buộc thì phải là bậc trí tuệ, làm chủ và chuyển được vật. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bị vật chuyển là vô minh, chuyển được vật tức là Như Lai”. Giải thoát còn hàm nghĩa: “Bỏ tất cả mà được tất cả”.
Các vị thầy của Thiện Tài từ bước khởi đầu cho đến giờ không có vị nào muốn giữ chân Thiện Tài, mà còn bảo Thiện Tài tiếp tục học con đường riêng để tiến xa hơn. Điều này đã làm nổi bật tư tưởng Đại Thừa Phật Giáo. Dạy người để giúp người ngày một tiến lên, không phải bắt họ phải lệ thuộc mình, từ đó chính chúng ta cũng được giải thoát tự tại. Sau khi thọ học trưởng giả giải thoát, Thiện Tài nghe lời chỉ dạy của trưởng giả đã tiếp tục đến cầu đạo với
+ Hải Tràng Tỳ Kheo tiêu biểu cho mẫu Tỳ Kheo Bồ Tát giới vào đời độ sanh, giải thoát ngay trong trần thế. Thiện Tài đến đúng lúc Hải Tràng đang nhập thiền định, Thiện Tài kiên trì đứng chờ, nhưng càng chờ thì ông càng nhập thiền lâu hơn, chịu đựng đến sáu tháng chợt bừng ngộ, sáu tháng mà Thiện Tài cố công mài dũa hay nói cách khác đó là để Hải Tràng luyện tập cho Thiện Tài tu thiền định. Cách truyền đăng tiếp tâm này cũng được Đạt Ma tổ sư thể hiện qua chín năm ngồi quay mặt vô vách tạo thành sức thu hút Ngài Huệ Khả cao độ đến mức ông đứng ngoài vách băng giá ngập đến đầu gối mà không hay biết.
+ Kế tiếp gặp Đức Vân Tỳ Kheo, sau khi đi vòng chậm rãi đi Kinh hành ở đỉnh núi, toát ra đức hạnh cao cả như ngọn núi cao vời Ngài đang sống. Nhằm nhắc nhở chúng ta sơ tâm học Đạo cần phải tìm một người đức hạnh để nương theo. Bước đầu tu tập mà không gần gũi người đức hạnh, thì sau này dù giỏi cách mấy cũng không dùng được. Vì “Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không giá trị”.
+ Rời Đức Vân, đồng tử đến tham vấn Tỳ Kheo Hải Vân . Nơi đây Ngài dạy đồng tử ngồi trên bờ biển quán sát chúng sanh, tức quán chiếu căn cơ chúng sanh trong biển sanh tử, trong sáu nẻo luân hồi, thấy rõ cạm bẫy của cuộc đời để đi vào đời không bị vướng mắc. Đến chỗ Thiện Trụ Tỳ Kheo học về pháp vô ngại, trụ tâm ở ngoài vòng phân biệt của phàm phu.
Đây là giai đoạn tu chùa, trang bị tâm thật an định, trí tuệ cao và đức hạnh lớn, đầy đủ ba tư cách này mới dám dấn thân vào đời.
+ Đồng Tử tiếp tục tham vấn với Y Sư Di Già và trưởng giả giải thoát. Gặp Di Già tại chợ lục đạo hay là cuộc đời. Tu trong chùa là tu lý thuyết Kinh điển, cần phải tiếp cận cuộc đời cho lý sự viên dung. Ở đời ta có dịp quan sát cách đối xử của mọi người để tích lũy những Kinh nghiệm, tăng bản lĩnh, từ đó việc đem đạo vào đời dễ dàng hơn. Nhờ quán sát biết ai căn cơ Thanh Văn thì dạy pháp Thanh Văn, ai căn cơ Đại Thừa thì truyền Đại Thừa giáo, do đó ta mới dễ thành công.
+ Di Già dạy đồng tử tất cả kinh nghiệm ở đời và khuyên gặp Trưởng giả giải thoát để học về pháp xả tránh sự trói buộc của các pháp thế gian.Trưởng giả giàu là nhờ thiện phước, lại không bị của cải ràng buộc thì phải là bậc trí tuệ, làm chủ và chuyển được vật. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bị vật chuyển là vô minh, chuyển được vật tức là Như Lai”. Giải thoát còn hàm nghĩa: “Bỏ tất cả mà được tất cả”.
Các vị thầy của Thiện Tài từ bước khởi đầu cho đến giờ không có vị nào muốn giữ chân Thiện Tài, mà còn bảo Thiện Tài tiếp tục học con đường riêng để tiến xa hơn. Điều này đã làm nổi bật tư tưởng Đại Thừa Phật Giáo. Dạy người để giúp người ngày một tiến lên, không phải bắt họ phải lệ thuộc mình, từ đó chính chúng ta cũng được giải thoát tự tại. Sau khi thọ học trưởng giả giải thoát, Thiện Tài nghe lời chỉ dạy của trưởng giả đã tiếp tục đến cầu đạo với
+ Hải Tràng Tỳ Kheo tiêu biểu cho mẫu Tỳ Kheo Bồ Tát giới vào đời độ sanh, giải thoát ngay trong trần thế. Thiện Tài đến đúng lúc Hải Tràng đang nhập thiền định, Thiện Tài kiên trì đứng chờ, nhưng càng chờ thì ông càng nhập thiền lâu hơn, chịu đựng đến sáu tháng chợt bừng ngộ, sáu tháng mà Thiện Tài cố công mài dũa hay nói cách khác đó là để Hải Tràng luyện tập cho Thiện Tài tu thiền định. Cách truyền đăng tiếp tâm này cũng được Đạt Ma tổ sư thể hiện qua chín năm ngồi quay mặt vô vách tạo thành sức thu hút Ngài Huệ Khả cao độ đến mức ông đứng ngoài vách băng giá ngập đến đầu gối mà không hay biết.
+ Trên bước đường cầu đạo, ngoài các vị Tỳ Kheo phạm hạnh, sáng suốt như Đức Vân, Hải Vân, Thiện Trụ, Hải Tràng, Thiện Tài còn tu học với hàng cư sĩ như Di Già và Trưởng Giả giải thoát là mẫu người buôn bán, giàu có nhưng ung dung tự tại, sống đức hạnh mang lợi ích đến cho người.
Những nhân vật kiểu mẫu trên mà Kinh Hoa Nghiêm đưa ra nhằm nói lên tinh thần Phật Giáo chẳng những không tiêu cực, yếm thế mà trái lại luôn mang lợi lạc cho đời. Tiến xa hơn nữa để vượt khỏi cố chấp về giới tính nhân vật kế tiếp là
+ Hưu Xá Ưu Bà Di
+ cho đến học với tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa dạy pháp môn lục độ và Thắng Nhiệt Bà Là Môn. Sự kiện này cho ta thấy tâm bình đẳng đã phát triển cao nên Đồng Tử vượt qua cái nhìn đố kỵ đối với ngoại đạo, sẵn sàng tham học với bất cứ ai, không đóng khuôn cố định như trong Kinh Pháp Hoa, Ngài Xá Lợi Phất nói người nữ có năm điều chướng ngại không thể thành Phật. Đức Phật xoá bỏ hoàn toàn cố chấp bằng cách đưa ra hình ảnh Long Nữ tám tuổi thành Phật tức khắc. Đến đây thấy rõ mối quan hệ quan trọng giữa Pháp Hoa và Hoa Nghiêm. Kinh Pháp Hoa nhờ Kinh Hoa Nghiêm giải thích làm sáng tỏ nghĩa hơn.
Rời Hưu Xã Ưu Bà Di đến học với
+ tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa và sống với ngoại đạo, những vị này nổi bật về đạo đức và trí tuệ. Ngoại đạo, cũng có người sáng suốt, như một đạo sư Ấn Độ nói: “Thượng Đế là sự phóng chiếu của tâm linh. Cho nên đối với người, Thượng Đế là một người toàn năng. Còn đối với con ếch Thượng Đế là một con ếch lớn hơn”
+ Bà La Môn Thắng Nhiệt bảo Đồng Tử trèo lên núi đao, nhảy vào hầm lửa để Bồ Tát Hạnh được thành tựu. Thiện Tài chùng bước nhưng được các vị Thiện Thần khuyên bảo. Cũng vậy, trên bước đường tu tập nhiều lúc chúng ta mỏi mệt chán nản nhưng nhờ gặp được Thiện Tri Thức làm cho chúng ta tinh tấn để vươn lên.
Đến đây Đồng Tử đã thành tựu một số điều cơ bản của một vị Bồ Tát như Phát Bồ Đề tâm, nương tựa Như Lai làm thanh tịnh ngũ uẩn thân, dấn thân vào đời tức vào chúng sanh thân, tu học Tỳ Kheo Đức Vân, hình thành Thanh Văn thân đi tiếp tục học với Tỳ Kheo Hải Vân.
+ Rồi từ đạo vào đời học với Y Sư Di Già,
+ Trưởng giả Giải Thoát,
+ kế đến học với Thiện Trụ Tỳ Kheo là từ đời trở về đạo để thấy đạo và đời không hai, tự nâng mình lên thành Tỳ Kheo Bồ Tát.
Lần lượt Đồng Tử chứng đắc pháp không, như mộng huyễn, pháp xả để bố thí, pháp hành vô hành và phá được ngã chấp tức là thành tựu Duyên Giác thân. Như vậy Đồng Tử đã hình thành được tam thừa giáo nơi bản tâm mình ở bước đầu tu học.
Rời Bà La Môn Thắng Nhiệt đến học với
+ Từ Hạnh Đồng Tử dạy pháp môn Bát Nhã, phá triệt mọi nhận thức mê mờ của ý thức về thực tại. Đây là tư tưởng tích cực nhập thế, giúp hành giả không khiếp sợ những khổ đau của cuộc đời và khi hành giả đã thấm nhuần tư tưởng “Chân không diệu hữu” thì sẵn sàng nhập vào cuộc đời để thiết lập cõi Tịnh Độ.
+ Thiện Tài tiếp tục lên đường học với Đồng Tử Tự Tại chủ dạy về pháp môn ngũ Kinh và Ưu Bà Di Cụ Túc dạy về pháp môn lục độ để tôi luyện cho mình thêm vững chí để dấn thân cứu đời bằng việc làm cụ thể.
+ Thiện Tài học với Bất Động Ưu Bà Di rồi tiến qua học với
+ Biến Hành Ngoại Đạo nay đến với
+ trưởng giả Ưu Bát La Hoa. Quá trình tu học này thể hiện ý nghĩa khi gặp hoàn cảnh động thì phải trụ tâm bất động để không bị đời làm ô nhiễm.
Rời Ưu Bát La Hoa đến gặp
+ thuyền trưởng Bà Thi La biết đủ các thời tiết nước lên xuống. Nhưng bên trong là Bồ Tát có khả năng lái thuyền Bát Nhã, dùng trí tuệ đặc thù hướng dẫn người phát huy tri thức đạo đức, ra khỏi biển sanh tử.
Đến đây chúng ta thấy Đồng Tử đã trưởng thành về mặt tâm linh, trí tuệ và tri kiến. Tuy nhiên phải cọ sát với thực tế để kiểm tra và thúc liễm thân tâm, cho nên Đồng Tử đến gặp
+ Bà Tu Mật, là một kỷ nữ chuyên mê hoặc lòng người. Đây là cảnh đọa lạc, bùn nhơ thay vì tiếp tục vào cảnh giới thánh thiện. Thường tình các vị Bồ Tát trước khi hành đạo đã được tôi luyện trong khó khăn. Thật vậy, con người nếu đã trải qua bao thử thách, sóng gió của cuộc đời thì cho dù gặp nghịch cảnh nào cũng dễ dàng vượt qua. Vì đã được tôi luyện trong mọi hoàn cảnh nên người luôn thấu hiểu và cảm thông nổi khổ đau của tha nhân. Như Chúa Jésus nếu không bị đóng đinh trên cây thập giá thì không được tôn xưng là Chúa. Còn Đức Phật của chúng ta nếu Ngài chưa từng trải qua cảnh đói rét, mưa nắng dãi dầu trong nhiều kiếp tu hành quyết không thể thành Phật được.
Rời Bà Tu Mật, Đồng Tử tiếp tục vượt qua nhiều thành còn lại, còn học với nhiều Thiện Tri Thức trong thời gian gần hai mươi năm. Tóc xanh giờ đã bạc, cơ thể hao gầy nhưng nơi tâm như núi, trí tuệ như trăng, cuối cùng Đồng Tử gặp
+ Đức Sanh Đồng Nữ và
+ Hữu Đức Đồng Nam để học pháp Huyễn Trụ chuẩn bị cho lần buông xả rốt sau để bước vào Tỳ Lô Giá Na Lâu Các. Gặp lại Đồng Nam Hữu Đức và Đồng Nữ Đức Sanh hay là gặp lại chính mình trong hồi ngây thơ, chưa nhiễm bụi trần như “Anh Nhi Hạnh” mà Thiền Tông chủ trương. Chi tiết Đồng Tử Thiện Tài râu tóc đã bạc mà lễ lạy, cung kính chấp tay chứng tỏ Thiện Tài đã đi sâu vào “Bình đẳng tánh trí”. Tinh thần vô ngã đã nâng tâm cầu đạo của Đồng Tử lên cao hơn bao giờ hết. Già mà tâm hồn tươi trẻ phải là người đã sạch phiền não, không còn chạy theo ngũ dục thế gian. Một người như thế mới gặp lại chính mình thời ngây thơ của mình mà Kinh miêu tả là gặp Đồng Nữ Đức Sanh, là sanh ra được tất cả đức hạnh. Mọi người có đức hạnh và giúp người tạo được đức hạnh thì người đó hành được Bồ Tát đạo. Chính yếu tố này,
+ Đồng Tử Thiện Tài mới gặp được Bồ Tát Di Lặc.
Thiện Tài đi qua một vòng thế giới sanh diệt, tiếp xúc với mọi giới xong, Thiện Tài được trí tuệ Văn Thù soi sáng dẫn đến gặp
+ Bồ Tát Quan Âm. Bấy giờ tâm hành giả mở rộng mới bắt gặp được tâm hồn rộng lớn của Quan Âm, đó chính là tâm đại từ đại bi rộng lớn của Ngài. Nhờ kết hợp với lòng đại bi của Quan Âm và trí tuệ của Văn Thù, Thiện Tài mới diện kiến được người thừa
+k ế Đức Phật Thích Ca là ngài Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc giữ tạng báu của Như Lai mới đủ tư cách mở cửa Tỳ Lô Giá Na Lâu Các cho Thiện Tài vào đảnh lễ Đức Phật Pháp Thân Thường Trú. Đồng Tử đi một vòng cuộc đời, khi trở lại vẫn thấy mình là Đồng Tử. Điều này chứng tỏ rằng Thiện Tài đã hình thành được Như Lai thân “Vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ, cố danh Như Lai”.
Đã chuẩn bị đầy đủ tất cả hiểu biết về các pháp và tự thân mình đã đạt đến vô ngã. Thiện Tài đã đến trước tòa lâu các nhập quán trí, suy tư về đại lâu các và nói kệ tán thán đức Bồ Tát Di Lặc thì đức Di Lặc và quyến thuộc từ nơi khác đến, tán dương công đức Thiện Tài. Nghe kệ, Thiện Tài vui mừng đến toàn thân rởn ốc và rơi lệ nghẹn ngào. Do sức tưởng niệm Đức Văn Thù đến, hoa anh lạc và báu vật đầy đủ hai tay, rãi lên cúng dường Di Lặc Bồ Tát. Kế đến, Thiện Tài thắc mắc về việc thọ ký một đời thành vô thượng chánh giác và tiếp tục nêu lên câu hỏi học Bồ Tát hạnh và tu Bồ Tát đạo. Di Lặc Bồ Tát đáp xong rồi khuyên Thiện Tài nên vào lâu các Tỳ Lô Giá Na để quán sát hiểu rõ được Bồ Tát hạnh và thành tựu vô lượng công đức. Thiện Tài cầu xin mở cửa, Bồ Tát Di Lặc liền khảy móng tay thành tiếng thì cửa mở. Đồng Tử bước vào cửa liền đóng lại. Đến đây Thiện Tài đã được nhập vào Pháp Giới. Đó là điều cần yếu cho người tu tập chúng ta ngày nay.
Sau khi học nghĩa “Huyễn Trụ” Đồng Tử dùng quán trí để tẩy sạch thân tâm lần chót. Kế đó suy tư về đại lâu các là nơi ở của các bậc giác ngộ trọn vẹn, đầy đủ những đức tính thù thắng và lầm tưởng là Di Lặc ở trong đó nên nói kệ tán thán.
Chi tiết “Bồ Tát Di Lặc từ nơi khác đến” nói lên sự sai lầm của Thiện Tài đồng thời phủ nhận toàn bộ suy tưởng của Thiện Tài đây là một sự “ngỡ ngàng” một “cú sốc” thật cần thiết để phá bỏ “Kiến, văn, giác, tri” mà Thiện Tài học bỏi bấy lâu nay.
Nghe kệ, Thiện tài vui mừng đến toàn thân rởn ốc, rơi lệ, nghẹn ngào. Đã từng học pháp huyễn trụ và nhận ra sự sai lầm của mình như trên thì kệ tán dương của Bồ Tát Di Lặc cũng chỉ là hư huyễn thôi, cho nên Thiện Tài không chạy theo “Kiến, văn, giác, tri”, đạt đến tâm bất động và trí Văn Thù xuất hiện nên mừng đến toàn thân rởn ốc, rơi lệ nghẹn ngào. Đây là cảnh giới giác ngộ chứ không phải mừng vì được khen.
“Hoa anh lạc và vật báu hiện đầy cả hai tay” nói lên sự giác ngộ thật sự mà hoa anh lạc và vật báu là bằng chứng cụ thể.
“Bồ Tát khuyên Đồng Tử vào lâu các Tỳ Lô Giá Na quan sát học hiểu Bồ Tát hạnh và thành tựu vô lượng công đức”. Chứng tỏ rằng những gì Bồ Tát Di Lặc nói về Bồ Tát hạnh cũng chỉ là ngôn ngữ. Muốn hiểu rõ phải thâm nhập pháp giới bằng sự thực chứng mới được.
“Thiện Tài cầu xin mở cửa” tức nhờ chỉ phương pháp, nghĩa là còn tìm cầu nương tựa bên ngoài.
“Bồ Tát Di Lặc liền khảy móng tay thành tiếng, cửa mở Đồng Tử bước vào, cửa đóng lại” .
“Khảy móng tay thành tiếng” có giá trị như tiếng hét của Lâm Tế, gậy đập của Đức Sơn, tiếng đá chạm trúc như trường hợp Ngài Hương Nghiêm đã khiến tâm vọng cầu vi tế còn sót lại trong tâm đồng tử dứt bặt, liền nhập vào cảnh giới vô phân biệt trí vào lâu các Tỳ Lô Giá Na hay Phật tính, không còn trở lại phàm phu nữa. Đây là “Việc đáng làm đã làm xong, không còn trở lại thế gian nữa” (Kinh A Hàm).
Gặp Bồ Tát Di Lặc và thâm nhập Tỳ Lô Giá Na rồi. Đồng Tử Thiện Tài chấm dứt giai đoạn một, khác với Văn Thù ở giai đoạn hai. Giai đoạn một hành giả gặp Văn Thù sử dụng trí tuệ căn bản để soi rọi vào giáo lý Phật, vào cuộc sống bản thân và xã hội. Nhưng giai đoạn hai, hành giả cũng gặp Văn Thù để trang bị cho mình trí tuệ vô lậu thấy biết diễn tiến sự vật bằng sự trực giác của bản tâm thanh tịnh. Cho nên Đồng Tử Thiện Tài khi an trụ nơi Phật tánh rồi vẫn thấy cảnh giới của đời thường, những vật dụng của thế gian như lầu các, tràng phan, lôỉng, châu, ngọc, lưới, lục lạc, hoa, lư hương, các loại tượng, chim, hoa sen, cây cối, nhà cửa. Nhờ có trí vô phân biệt chiếu đến nên đều bình đẳng và đẹp rực rỡ khác với cái nhìn do trí phân biệt ban đầu.
Ban đầu Thiện Tài được Văn Thù đưa vào pháp giới gặp Đức Vân Tỳ Kheo và cuối cùng Văn Thù xoa đảnh Thiện Tài nhập pháp giới để gặp Bồ Tát Phổ Hiền. Ở đây Đồng Tử Thiện Tài thấy nơi tự tâm mình mười cảnh giới, từ địa ngục cho đến cõi Phật, tất cả mọi phiền não chướng ngại đều biến mất chỉ còn nhất niệm, tâm trùm khắp và mình có mặt khắp mọi nơi. Đây cũng chính là hư không thân hay thế giới Thường Tịch Quang mà Đồng Tử chứng được.
Tóm lại: Để nhập vào pháp giới, Thiện Tài Đồng Tử phát tâm Bồ Đề, an trú với Đức Như Lai. Kế đến xuất gia học đạo với vị thầy xuất gia rồi dấn thân trong thế giới hiện tượng để học hỏi 53 vị Thiện Tri Thức gồm đủ mọi thành phần xã hội, học đủ tất cả về sắc pháp, tâm pháp và phương pháp hành Bồ Tát đạo.
Thiện Tài Đồng Tử đã lần lượt đi sâu vào thế giới hiện tượng, tâm thức, lại cọ sát thực tế kiểm nghiệm chứng đắc của mình đạt đến vô ngã, trí tuệ phát sinh. Tuy nhiên đây chỉ là cái hiểu trên lý tính, cần phải xả bỏ sạch các tri kiến để thâm nhập vào pháp giới.
Thế giới quan của chư Phật và Bồ Tát được kết tinh bằng trí tuệ và đạo đức, nó nằm trong lòng cuộc đời, một thực tại đầy sống động và mầu nhiệm vô cùng. Từ trong thế gian giới ta tìm được cái xuất thế gian và nhập pháp giới chính là nhập vào cuộc đời, tìm ra được giải thoát ngay trong cuộc đời, tìm cái cao quý trong cái bình thường. Đức Phật trở thành bậc phi thường và Thiện Tài là người nối tiếp bước chân Phật đã tìm được cái phi thường đó. Thiện Tài xứng đáng là bậc “Chân tu thực học. Nhân Thiên Sư Phạm”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét