Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2020

Tông Chỉ Phái Lâm Tế

 

Tông Chỉ Phái Lâm Tế

Việt dịch:  Thích Đồng Tiến - Thích Chúc Hiền
Thiền sư Phần Dương Thiện Chiêu dạy chúng rằng: 
Bậc thánh xưa nói: Một câu có đủ Tam huyền[1], trong mỗi Huyền cần đầy đủ Tam yếu. Thế nào là câu Tam huyền, Tam yếu? Hãy mau chóng lãnh hội, mỗi mỗi tự suy ngẫm đã được thỏa ñaùng hay chưa? Các bậc cổ đức đi hành cước[2], khi nghe một nhân duyên[3] mà chưa tỏ ngộ thì ăn không ngon, ngủ không yên, khẩn cấp giải quyết. Đâu thể cho là việc nhỏ? Vì thế Đức Phật xuất hiện ở thế gian là vì một Đại sự nhân duyên[4]. Xét ra những bậc cổ đức từ xưa đến nay, hành cước không phải để du sơn, ngoạn thủy; không phải để ngắm những cảnh xa hoa ở đô thị; không phải vì miếng cơm, manh áo mà đều vì chưa tỏ ngộ tâm Thánh. Sở dĩ họ dong ruổi hành cước là vì giải quyết những chỗ sâu kín, xiển dương giáo pháp, thưa hỏi bậc tiền bối, gần gũi bậc cao đức; vì giữ gìn đèn Phật tâm, nối tiếp giống Phật tổ, hưng thịnh giòng Thánh, tiếp dẫn người sau, tự lợi lợi người mà không quên hành nghi của chư tổ. Như ngày nay có ai thương lượng chăng? Nếu có, hãy bước ra cùng đại chúng thương lượng!
Vị tăng hỏi: Thế nào là câu tiếp dẫn người sơ cơ?
Đáp: Ông là vị tăng hành cước.
Lại hỏi: Thế nào là câu phân biệt nạp tăng?
Đáp: Mặt trời mọc ở hướng tây vào giờ mão.
Hỏi tiếp: Thế nào là câu Chính lệnh hành[5]?
Đáp: Nghìn dặm mang đến để trình mặt mũi xưa nay.
Hỏi: Thế nào là câu thành lập trời đất?
Đáp: Lúa Bắc-cu-lô châu, người ăn thì không giận cũng không vui.
Sư nói: Chỉ đem bốn chuyển ngữ[6] này mà nghiệm nạp tăng trong thiên hạ. Cho nên, vừa thấy ông đưa ra thì đã biết rồi.
Tăng hỏi: Thế nào là chỗ dụng công của người học?
Đáp: Gia Châu đánh pho tượng lớn.
Hỏi: Thế nào là chỗ chuyển thân của người học?
Đáp: Thiểm Phủ tắm trâu sắt.
Hỏi: Thế nào là chỗ thân thiết của người học?
Đáp: Tây Hà vờn sư tử.
Sư nói: Nếu người nào lãnh hội ba câu này thì đã phân biệt được Tam huyền. Lại còn có Tam yếu, cần phải biết rõ, không nên bỏ qua. Sư tụng kệ:
Tam huyền Tam yếu thật khó phân
Được ý quên lời đạo dễ gần
Một câu thấu suốt trùm vạn tượng
Tiết trùng dương[7]đến cúc tươi nhuần.
Lãnh hội chăng? Nếu lãnh hội được thì không phải là nạp tăng nóng tính. Còn về nhân duyên Tam huyền, Ông lãnh hội được chăng? Chỉ cần lãnh hội được ý chỉ của người xưa thì tự tâm sáng tỏ, lại được biến thông cùng khắp, tự tại thọ dụng vô cùng, đó gọi là tự thọ dụng thân Phật, không cần người khác dạy mà cũng biết kế sống nhà mình[8]. Do đó ngài Nam Tuyền nói: “Vương lão sư[9] hơn 80 tuổi mới hiểu kế sống”
Tăng hỏi tiếp: Người xưa 80 tuổi mới hiểu kế sống, nhưng chưa biết tạo kế sống gì?
Đáp: Hai con trâu đực, hai sừng không cong.
Lại nói: Nếu muốn tỏ ngộ việc này, chỉ cần đạt chỉ thú Tam huyền, lúc ấy thọ dụng tự tại, nhà mình khóai lạc, sung sướng một đời. Bậc đại trượng phu chớ tự cô phụ, gặp việc không thông, không ích lợi gì cho người. Ta nói cho ông và mọi người nghe:
Huyền thứ nhất:
Pháp giới rộng vô biên,
Sum la và vạn tượng
Đều hiện đủ trong gương.
Huyền thứ hai:
Thích-ca hỏi A-nan,
A-nan theo việc đáp,
Bình bát thể vuông tròn.
Huyền thứ ba:
Chỉ hiện trước vua xưa,
Ngoài tứ cú bách phi[10],
Lư Thị [11]hỏi Phong Can[12].
Sư nói: “Đây là bài tụng về Tam huyền. Còn thế nào là ý thú Tam huyền? Dầu cho ông phân biệt rõ ràng đi nữa, cùng chỉ hiểu một cách sai lầm, không căn cứ. Ta từng gần gũi hòa thượng và đã nghe dạy: “Ví như dùng lời hư dối, lừa gạt người khác, có ngày ăn gậy sắt, chớ bảo rằng ta không nói trước”.
Lại nhân việc hái hoa cúc, Sư bảo chúng rằng: “Hoa vàng khắp đất, nhụy ngọc rợp trời, mặt trời trên không, càn khôn sáng rực, mây giăng làm mưa, lộ kết thành sương, không làm tổn vật, hại nghĩa. Thử nói một câu được không? Nếu nói không được, tức trong mắt có bụi, cần phải lấy ra mới được.” Do đó, ngài Phong Huyệt nói: “ Nếu lập một trần, đất nước hưng thịnh, kẻ quê mùa lo buồn. Không lập một trần, đất nước suy vong, kẻ quê mùa an vui”.
Ngay đây tỏ ngộ thì xà-lê không có phần, toàn là phần của lão tăng. Ngay đây mà tỏ ngộ thì lão tăng chính là xà-lê. Lão tăng với xà-lê cũng có thể khai ngộ người trong thiên hạ, cũng có thể che mắt người trong thiên hạ. Ông muốn biết lão tăng và xà-lê ở đâu chăng? Sư vỗ đùi nói rằng: “Đây là Xà-lê! Đây là lão tăng”. Lại hỏi các Thượng tọa: “Lão tăng và xà-lê giống hay khác. Nếu nói giống thì thượng tọa tự là thượng tọa, lão tăng tự là lão tăng. Nếu nói là khác, thì lão tăng chính là xà-lê”. Nếu ngay đây mà hiểu được thì trong một câu có Tam huyền, Tam yếu, Chủ khách rõ ràng, việc bình sinh giải quyết xong, hoàn tất việc tham cứu. Cho nên, Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Xương tan thịt nát cũng đền, thấu rõ được một câu, vượt tất cả”.
Lại nói hai vị Thủ tọa ở hai nhà tăng, một hôm gặp nhau cùng hét. Vị Tăng hỏi Lâm Tế: “Có chủ, có khách không?” Đáp: “Chủ khách rõ ràng”. Sư làm kệ rằng:
Hai vị Thủ tọa đều tác gia
Trong đây đạo lý có phân ra.
Chủ khách rõ ràng như gương sáng
Tông sư mắt nhặm thấy không hoa[13].
Cư sĩ Vô Tận nói với tôi rằng: “Phần Dương[14] là đích tôn năm đời của Lâm Tế, người học trong thiên hạ đều tôn sùng, xem đề cương thì rất sâu rộng, nhưng chỉ bàn về Tam huyền, Tam yếu. Ngày nay pháp phái này đều cho Tam huyền, Tam yếu là lời lập ra cho một giai đoạn, không có ích cho đạo, nhưng đối với các pháp không sinh dị kiến. Tất cả bình thường, chính là hợp ý tổ xưa nay. Lời ấy đúng chăng?” Tôi nói: “Cư sĩ nghe lời ấy, rõ ràng đã thấu hiểu, sao lại nghi ngờ cương yếu Phần Dương?”
Cư sĩ lại nói: “Tôi vẫn còn nghi mà chưa giải quyết được”.
Tôi bảo: “Đó chính là lý do lập ra Tam huyền Tam yếu. Nói trong một câu có đủ Tam huyền, trong một huyền có đủ Tam yếu. Có Huyền có Yếu chính là pháp tràng thanh lương tịch diệt ở trong biển nhiệt não của tất cả chúng sinh. Dựng pháp tràng này thì như bôi chất độc lên trống rồi đánh thì những người nghe đều chết; người ở xa thì chết sau. Nếu như người không bị nghiệp hoạnh tử[15] thì dù nghe cũng không chết. Lâm Tế lúc còn tại thế, các vị Hưng Hóa Tôn Tưởng, Tam Thánh Huệ Nhiên, Bảo Thọ, thượng tọa Định vừa nghe liền chết. Sau hơn trăm năm có người nghe ngộ ý chỉ ấy, tức là người chết sau. Nhưng các pháp phái cho rằng không ích gì cho đạo, là nói người không bị hoạnh tử. Tông phong của Tổ như vách cao vạn trượng, con cháu sợ, nên thích đi con đường bằng phẳng bình dị. Đó là Phật pháp suy đồi. Như sĩ đại phu tự xưng là học trò của Khổng Tử mà chê phần Hệ từ[16] của kinh Dịch thì đứa bé ba tuổi sẽ cười cho! Lâm Tế chỉ nói trong một câu đủ Tam huyền, trong một Huyền đủ Tam yếu, có Huyền có Yếu mà thôi. Ban đầu thì chưa thấy được Huyền trong câu, Huyền trong ý, Huyền trong thể, nên Tháp chủ lầm lẫn ba câu của Huyền Sa là Tam huyền. Nên chỉ phân Tam huyền mà bỏ sót Tam yếu. Trong tùng lâm [17]vẫn để như thế mà không cho là sai, thật đáng buồn! Huyền Sa nói: “Chơn thường lưu chú là pháp bình đẳng, chỉ là dùng lời bác lời, dùng lý đuổi lý. Vì vậy, rõ trước mà không rõ sau. Bởi lượng phần chứng Pháp thân chưa có câu siêu việt, nên chết dưới câu ấy. Nếu như biết lượng siêu việt thì không bị tâm ma sai sử, nắm chắc trong tay, xoay chuyển tự tại. Đó gọi là thông đại đạo, vượt ra ngoài cái thấy bình thường. Đây là câu thứ nhất, người xưa gọi đó là Huyền trong câu. “Xoay cơ chuyển vị, sinh sát tự tại, nắm buông tự nhiên, vào sinh ra tử, làm lợi ích cho tất cả mọi người, thoát xa cảnh sắc dục, ái kiến”. Đây là câu thứ hai, xưa gọi đó là Huyền trong ý. Rõ suốt được trời đất, trùm khắp pháp giới. Một thể tánh chơn thường diệu dụng hiện tiền, ứng hóa không cùng, toàn dụng mà toàn chẳng dụng, toàn sinh mà toàn chẳng sinh, tạm gọi là cửa Từ định[18]”. Đây là câu thứ ba, người xưa gọi là Huyền trong thể.
Phù Sơn Viễn công cũng nói: “Huyền trong ý chẳng phải là ý của ý thức”. Người xưa thật không đáng nói, Viễn Công cũng còn mê lầm. Tôi không thể không trình bày, cư sĩ Vô Tận gật đầu đồng ý.
Cư sĩ nói: “Có lần tôi thấy sư từ biệt chúng nói rằng: ‘Tăng đất Ngô tên Giản Trình có đại tri kiến; Chân Điểm Hung[19] đích thân thấy được Từ Minh; Dương Kỳ và Đạo Ngô khi tiếp người, phần nhiều đều nêu Thập trí đồng chơn’. Xin được nghe thuyết này!”.
Tôi nói: “Thập trí đồng chơn và Tam huyền, Tam yếu đồng một yếu chỉ”. Ngài Phần Dương nói: “Người thuyết pháp cần đầy đủ Thập trí đồng chân. Nếu không đầy đủ thì không phân biệt được tà chính, không rõ được Thánh phàm, không thể làm con mắt cho trời người để quyết đoán đúng sai, giống như con chim làm sao có thể bay lên bầu trời khi bị gãy cánh; tên làm sao có thể bắn trúng đích khi cung bị đứt dây? Dây chắc, cánh khỏe thì bầu trời và đích đều thấu suốt. Thế nào là Thập trí đồng chân? Ta nêu ra cho các thượng tọa[20] biết: một là Đồng nhất chất trí, hai là Đồng đại sự trí, ba là Tổng đồng tham trí, bốn là Đồng chân trí trí, năm là Đồng biến phổ trí, sáu là Đồng cụ túc trí, bảy là Đồng đắc thất trí, tám là Đồng sinh sát trí, chín là Đồng âm hống trí, mười là Đồng đắc nhập trí”. Lại nói: “ Đồng đắc nhập với ai? Đồng âm hống với người nào? Thế nào là Đồng sinh sát? Vật gì Đồng đắc thất? Cái gì Đồng cụ túc? Cái gì là Đồng biến phổ? Người nào Đồng chân trí? Ai có thể Tổng đồng tham? Cái gì Đồng đại sự? Vật nào Đồng nhất chất?”. Có ai nêu ra được không? Nếu nêu ra được thì ta không tiếc tâm từ bi. Nếu như không nêu ra được thì các ông chưa có con mắt tham học, cần mau chóng đạt được, phải biết đúng sai, thấy được mặt mũi hiện tại.”
Ngày nay, hầu hết các tùng lâm đều sợ pháp môn này, không muốn nghe. Vì sao phải nói đến? Chư phương[21] chỉ thích những kiến giải bình thường, chấp chặt vào đó, không chịu buông, chỉ muốn truyền trao mà không tin có liễu ngộ. Giá như ngài Phần Dương sống lại, đích thân phân tích thì họ cũng cho là sai. Thuở xưa, ngài A-nan kinh hành vào ban đêm, nghe đồng tử tụng bài kệ:
Nếu người sống trăm tuổi
Không thấy được con hạc
Chẳng bằng sống một ngày
Mà được thấy con hạc.
A-nan liền dạy đồng tử nên đọc là: Thấy rõ Phật pháp chớ chẳng phải thấy được con hạc. Đồng tử trở về thưa với thầy của mình. Thầy cười và nói: “A-nan già nên lú lẫn rồi, con phải xem lời ta là đúng”. Nói chỉ thú Tam huyền, Thập trí cho người học bây giờ thì khác gì việc này?
Khi ấy, cư sĩ Vô Tận than rằng: “Như vậy, chỉ thú này há chẳng phải là phương tiện sao?”. Ta liền làm kệ:
Thập trí đồng chân toàn diện mục
Trong đó nhất trí là cội nguồn
Nếu như thấy được Phần Dương lão
Bổ tách Tam huyền trở thành hai.
Lại hỏi: “Bốn tân chủ[22] cũng là pháp môn do Lâm Tế kiến lập ư?”
Tôi đáp: “Đó là phương tiện mà chư Phật trong ba đời và các tổ sư đã dùng để dẹp bỏ những tình kiến[23]phàm thánh, chẳng phải chỉ riêng Lâm Tế sử dụng, như ngài Long Sơn Bản diện kiến Mã Tổ. Một hôm, Thiền sư Động Sơn Lương Giới cùng đi du phương với Mật Sư Bá. Một hôm đi ngang qua Long Sơn ở Trường Sa, thấy suối khe, cây cỏ um tùm , Giới quay lại nhìn núi non chập chùng xanh thẳm, rồi nói với Mật rằng: “Trong đây chắc chắn có ẩn sĩ”, liền men theo suối, đi khoảng mười dặm thì gặp một vị tăng gầy ốm, chắp tay trước trán hỏi: “Nơi đây không có đường, các vị từ đâu đến?”.
Giới nói: Hãy gác lại việc không có đường, Am chủ từ đâu vào?
Đáp: Ta chưa hề du phương.
Giới hỏi: Am chủ ở đây bao lâu rồi?
Đáp: Không can hệ đến ngày tháng.
Giới tiếp: Am chủ trụ ở đây trước hay núi này trụ trước?
Đáp: Không biết.
Giới gạn lại: Vì sao không biết?
Đáp: Ta chẳng từng từ cõi trời người lại.
Giới hỏi: Được đạo lý gì mà trụ núi này?
Đáp: Ta thấy hai con trâu đất chọi nhau rồi chìm xuống biển[24], mãi đến ngày nay không có tin tức.
Mật Sư Bá và Lương Giới đầy đủ oai nghi lễ bái rồi hỏi: Thế nào là khách trong chủ?
Đáp: Núi xanh mây trắng phủ
Lại hỏi: Thế nào là chủ trong chủ?
Đáp: Lâu năm không ra khỏi cửa.
Hỏi tiếp: Chủ khách xa nhau bao lâu?
Đáp: Sóng trên dòng Trường giang.
Lại hỏi: Chủ khách gặp nhau có lời gì?
Đáp: Ban ngày gió mát thổi.
Giới đảnh lễ xin y chỉ. Lão tăng cười và nói:
Xưa nay an trú mái ba gian
Một đạo thần quang[25] muôn cảnh nhàn
Chớ đem thị phi cùng ta nói
Thế gian đàm luận chẳng tương quan.
Ngay đó, Am chủ đốt am rồi đi vào trong núi sâu. Về sau Lương Giới trụ ở núi này.
Giới hỏi vị tăng: Ai là chủ nhân ông của ngươi?
Đáp: Người đang trả lời đó!
Giới ngửa mặt than thở: “Đây gọi là việc của kẻ tôi tớ, vì sao nhận là chính mình? Đây là điềm Phật pháp suy vi. Chủ trong khách còn chưa rõ, huống gì chủ trong chủ?”
Tăng hỏi: Thế nào là chủ trong chủ?
Giới nói: Ngươi tự nói xem!
Đáp: Nói được tức là chủ trong khách. Thế nào là chủ trong chủ?
Giới im lặng một lúc[26] rồi nói: “Không ngại nói cho ngươi nghe, nhưng giữ cho tương tục cũng rất khó. Ta xem ý lão tăng Long Sơn như Tiêu Hà [27]hiểu Hàn Tín[28], há có pháp ư?” Nhưng lập luận của Giới công như sự lập triều của Hoắc Quang[29], đi đứng cũng có phép tắc. Than ôi! Người sau nhất định không hiểu hết ý người xưa, còn Giới cũng để chủ trong chủ ở trong lòng, thì thật đáng nghi!
Tôi từng đến Lâm Xuyên kết giao với Chu Thế Anh. Một hôm trưởng lão Thượng Lam đến nói với Thế Anh rằng: “Giác Phạm[30] nổi tiếng làm thơ, Nhưng Thiền thì thầy ông ấy vẫn còn sai lầm, huống gì đệ tử?”.
Thế Anh cười, nói: “Sư có thể nghiệm xét việc đó chăng?”
Thượng Lam đáp: Ừ.
Cả hai ở lại một ngày rồi cùng nhau đến Sơ Sơn[31], dùng cơm ở khách xá. Thượng Lam lấy tay vẽ lên bàn và nói với tôi rằng: “Trên gáy kinh nhất định ghi chữ dĩ (以), là nghĩa gì?”. Tôi liền vẽ một vòng tròn và gạch ngang rồi nói: “Là nghĩa này”. Thượng Lam ngạc nhiên. Tôi làm bài kệ:
_ Chữ dĩ (以) không thành, bát (八) cũng sai [32]
Pháp thân say ngủ, chẳng che ngăn
Nạp tăng đối diện tên không biết
Trăm người trước mắt gọi chẳng hay.
Thượng Lam trở về thuật lại cho Thế Anh, Thế Anh vỗ tay nói: “Ai là thi tăng[33] cũng có thể biết nghĩa của từ ngữ ư ?”. Nhân đó cùng nhau xem bài kệ “ Làm con nghé” của Phần Dương:
Đầu có, sừng không, thật buồn thay!
Trăm năm khó tránh tác gia[34] này
Phàm thánh cũng không sao biết hết
Hiện tiền tướng mạo có mảy may.
Tôi nói với Thế Anh rằng: “Kệ này là giải thích tự nghĩa[35]”.
Thế Anh hỏi tôi: “Kinh Hoa nghiêm chép: “Vị tiên Tì-mục nắm tay Thiện Tài, lập tức Thiện Tài tự thấy thân mình trụ trong thế giới nhiều như số vi trần của mười cõi Phật, rồi đến chỗ chư Phật nhiều như số vi trần của mười cõi Phật, thấy cõi Phật và chúng hội ở đó, các Đức Phật có đủ tướng tốt trang nghiêm, như vậy trải qua số kiếp nhiều như vi trần của trăm nghìn ức bất khả thuyết cõi Phật. Đến khi vị tiên buông tay ra thì Thiện Tài lập tức thấy thân mình trở về chỗ cũ”. Ý nghĩa đoạn này giải thích thế nào?”
Tôi đáp: “Đều là biểu tượng. Vừa mới nắm tay tức là lúc nhập vào phép quán, thấy mình và người không cách nhau mảy may, trước sau không lìa đương niệm. Khi buông tay tức là lúc xuất định. Ngài Vĩnh Minh nói: “Cho nên biết, chẳng động bản vị mà các cõi xa gần rõ ràng. Một niệm chẳng rời mà thời gian dài ngắn đã xác thực”. Vì Thế Tôn lấy hoa sen làm thí dụ nên thế gian chẳng có ai biết, chỉ ta nhận biết: Khi hoa mới nở, trong đó đã có hạt, trong hạt đã có tim sen, trong nhân có quả, trong quả có nhân, ba đời đồng thời, hạt phân tán nhưng lại có thứ lớp, liên tục không gián đoạn, mười phương không cách nhau”.
Lại hỏi: Kinh Pháp hoa chép: “Trước Đại chúng, Thế Tôn hiển hiện đại thần lực, xuất tướng lưỡi rộng dài lên đến cõi trời Phạm”, thật khó hiểu! Nhưng có người giải thích rằng: “Âm thinh Phật vi diệu, mọi nơi đều nghe, siêu việt thánh phàm thì tướng lưỡi của Phật rộng dài lên đến cõi trời Phạm Thế”. Lời giải thích này như thế nào ?
Ta đáp: “Đây là hiểu trên ngôn ngữ, chẳng phải là ý của Thế Tôn”. Ngài Quy Sơn nói: “Ý phàm thánh bặt, thể lộ chân thường[36]; lý sự chẳng hai, tức như như[37] Phật”. Người học không thể hiểu ý vị sâu xa lời nói này, tạm chấp nhận theo suy đoán mà thôi. Thí như người mù sờ voi, tùy bộ phận được chạm biết mà cho là voi, cho nên đối với họ, con voi chỉ là đuôi, là chân, là lưng, là ngà mà toàn bộ con voi đã bị ẩn đi. Kinh Bát-nhã ghi: “Vì không hai, không hai phần, không sai biệt, không đoạn tức là chân thường, chẳng phải là chân thường của một vật lặng lẽ siêu việt, không biến hoại”. Tướng lưỡi rộng dài đến cõi trời Phạm, đâu có thể dùng ý thức biết được? Ngài Huyền Tráng đến Tây Trúc gặp luận sư Giới Hiền, lúc đó Giới Hiền đã 106 tuổi, được mọi người kính ngưỡng tôn là Chính Pháp Tạng. Ngài Huyền Tráng cung kính làm lễ, đến bên luận sư, luận sư mời ngồi, rồi hỏi: “Từ đâu đến?” Đáp: “Từ Trung Quốc đến, muốn học các bộ luận như Du-già v.v”.... Lúc đó luận sư rơi lệ gọi đệ tử là Giác Hiền đến và hỏi: “Cơn mộng trước đây của ta như thế nào?”
Vị đệ tử nói với ngài Huyền Tráng rằng: “Ba năm trước, hòa thượng bị cơn bịnh hiểm nghèo, đau đớn như người lấy dao rạch bụng. Hòa thượng định tuyệt thực đến chết. Đêm đó, hòa thượng nằm mộng thấy một người nam, thân màu vàng đến bảo rằng: “Ông chớ chán tấm thân mà xưa ông từng yêu quý. Trước đây, ông thường hại mạng vật, phải nên ăn năn, tự sát có ích gì? Có vị tăng Trung Quốc đến đây học Phật pháp, đang trên đường đi, ba năm nữa sẽ đến, hãy truyền thọ pháp Phật để vị ấy truyền bá thì tội ông tự diệt. Ta là Mạn-thù-thất-lợi, cố ý đến báo cho ông rõ”. Hòa thượng bị bịnh đã ba năm, nay thầy đã đến, mộng trước thật có linh ứng”.
Tôi sống ở đời đã trải qua nhiều gian khổ, đó là do nghiệp xưa vậy. Nay biết rằng nghe lời dạy của ngài Mạn-thù-thất-lợi đem pháp trao cho người thì tội tự diệt. Cho nên, mục đích soạn cuốn Phật tổ chỉ quyết là muốn giúp cho người diệt trừ nghiệp chướng đời trước của mình, chứ chẳng phải cầu việc khác.


Chú thích:
[1] Tam huyền, Tam yếu: ba huyền môn và ba yếu tố dùng để tiếp dẫn người học của thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền, nhằm kích thích hành giả phát khởi nghi tình.
Tam huyền là:
a. Thể trung huyền: câu nói hoàn toàn không trau chuốt, là câu nói được biểu hiện y cứ vào chân tướng và đạo lý của tất cả sự vật.
b. Cú trung huyền: lời nói chân thật, không dính dáng đến tình thức phân biệt, tức không câu nệ nơi lời nói mà ngộ được chỗ huyền áo của nó.
c. Huyền trung huyền (Dụng trung huyền): câu nói huyền diệu, lìa tất cả những sự trói buộc, đối đãi về luận lý và ngữ cú.
Tam yếu là: trong lời nói không có phân biệt tạo tác, nghìn thánh vào chỗ huyền áo, đường ngôn ngữ dứt. (Theo TĐPHHQ, tập 5, tr. 4111).
[2] Hành cước: còn gọi là du phương, du hành, vân thủy. Nghĩa là tăng lữ không có chỗ ở nhất định, hoặc vì tìm kiếm danh sư hoặc vì tự mình tu trì, hoặc vì giáo hóa kẻ khác, mà đi chu du bốn phương. tăng du phương gọi là hành cước tăng. (Theo TĐTTHV, tr. 269).
[3] Nhân duyên: có hai nghĩa:
a. Thiền tông cho cơ ngữ hoặc hành vi động tác thị cơ, ứng cơ là nhân duyên, ý nghĩa giống như công án.
b. Giáo môn cho rằng những tư tưởng ngôn hạnh có thể dẫn đến quả báo là nhân duyên, tức là nhân trong nhân quả báo ứng. (Theo TĐTTHV, tr. 507).
[4] Đại sự nhân duyên: cảm ứng một việc lớn. Tam tạng pháp số ghi: “Nhất tức là nhất thật tướng, vì thể tính của nhất thật tướng rộng lớn nên gọi là “đại”; nghi thức mà Như Lai xuất thế độ sinh gọi là “sự”. Chúng sinh vốn có nhất thật tướng này mà khéo thành cơ cảm Phật, nên gọi là “nhân”. Như Lai đã chứng nhất thật tướng này mà khởi ứng độ sinh nên gọi là “duyên”. Tất cả Như Lai xuất hiện ở đời đều vì khai thị thật tướng vốn có của chúng sinh, khiến tất cả được ngộ nhập tri kiến Phật. Lìa việc này thì chẳng phải là bản hoài xuất thế của Như Lai. Một việc lớn (Nhất đại sự), chỉ việc chuyển mê khai ngộ”. Luận theo các kinh thì đại sự trong kinh Pháp hoa là tri kiến Phật, kinh Niết-bàn là Phật tính, kinh Vô Lượng Thọ là vãng sinh Cực lạc. Phẩm Phương tiện, kinh Pháp hoa, ghi: “Chư Phật chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời ” (Theo TĐPHHQ, tập 2, tr. 1307).
[5] Chính lệnh hành: đạo Phật tổ lưu hành ở đời. Tắc 63, Bích nham lục (Đại 48, 194 hạ) ghi: “Lấy một câu chính lệnh đương hành, thập phương tọa đoạn để chỉ cho ngoài việc đánh hét chẳng lập một pháp nào khác mới là tông chỉ Giáo ngoại biệt truyền”. (Theo TĐTTHV, tr. 103).
[6] Tứ chuyển ngữ: lời lẽ sắc bén tự tại tùy cơ nghi chuyển biến. Khi người học Thiền còn mờ mịt chưa liễu ngộ, trong lúc tiến thoái lưỡng nan thì thiền sư liền xoay chuyển cơ phong, hạ chuyển ngữ, để cho người học khai ngộ. (TheoTĐPHHQ, tập 1, tr. 989).
[7] Tiết trùng dương nhằm ngày 9 tháng 9.
[8] Kế sống (hoạt kế):
a. Nghề nghiệp mưu sinh, công việc. Trong các trước tác Thiền tông, phần nhiều dùng từ này để dụ cho thiền pháp hoặc hành vi cơ dụng. Mật am ngữ lục ghi: “Vuông tròn không dùng đến cơ mưu, dài vắn chớ đem nói nín tìm. Một chiếc búa cũng là nghề nghiệp chân chính, suy nghĩ chi làm phí thời gian”.
b. Công cụ, gia sản sinh sống. Chương Khuông Ngộ thiền sư trong CĐTĐL q.17 ghi: “Hỏi: Thế nào là đóng cửa tạo xe? Sư đáp: Gia sản không có gì cả”. (Theo TĐTTHV, tr. 298).
[9] Vương lão sư: thiền sư Phổ Nguyện ở Nam Tuyền Trì Châu, họ Vương, thừa pháp ngài Mã Tổ , hoằng đạo ở Nam Tuyền, thường được xưng là Vương lão sư. (Theo PHĐTĐ của Đinh Phúc Bảo).
[10] Tứ cú bách phi: bốn câu và trăm phủ định thường dùng trong Phật giáo. Bốn câu: hữu, vô, vừa hữu vừa vô, chẳng phải hữu chẳng phải vô”; hoặc chỉ cho bốn câu: khẳng định, phủ định, một phần khẳng định một phần phủ định, cả hai đều phủ định; để làm hình thức phán đoán các luận nghị. Trong Thiền tông cũng thường chỉ cho Tứ liệu giản của ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền: 1. Đoạt nhân bất đoạt cảnh. 2. Đoạt cảnh bất đoạt nhân. 3. Nhân cảnh câu đoạt. 4. Nhân cảnh câu bất đoạt. Ngoài ra, Duy-ma Kinh Huyền Sớ cho rằng có hơn 10 thuyết khác nhau về Tứ cú.
Bách phi chỉ cho sự phủ định hoàn toàn, như kinh Đại Bát niết-bàn 21 (Bản Bắc) nói niết-bàn của Như Lai là: phi hữu, phi vô, phi hữu vi, phi vô vi, phi hữu lậu, phi vô lậu, cho đến phi quá khứ, phi vị lai, phi hiện tại....., cho nên biết tứ cú bách phi đều là những khái niệm giả danh được thiết lập y cứ vào lập trường của tất cả sự phán đoán và luận nghị, nhưng tông chỉ cứu cánh của Phật giáo là vượt ngoài những khái niệm giả danh này và đạt đến cảnh giới dứt bặt nói năng, suy nghĩ. Cho nên trong Thiền lâm lưu truyền rộng rãi danh ngôn “Ly tứ cú tuyệt bách phi”. Thiền tông có rất nhiều công án về tứ cú bách phi, là kim chỉ nam cho người tham thiền học đạo. (Theo TĐPHHQ, tập 5, tr. 4721).
[11] Lư Thị: tức ông Lư Khâu Dận.
[12] Phong Can: thiền sư Trung Quốc, sống vào đời Đường, không rõ năm sinh và mất. Ban đầu, Sư trụ chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai, ngày giã gạo, đêm ngâm vịnh, lời nói không nhất định, phần nhiều giống như những lời dự ký. Nếu có người hỏi thì Sư đáp hai chữ “tùy thời”, chứ không nói gì khác. Khoảng năm 712-713, Sư hành hóa đến Kinh Triệu (Trường An), trị bệnh cho Lư Khâu Dẫn. (Theo TĐPHHQ, tập 4, tr. 3703).
[13] Không hoa: hoa đốm trong hư không. Trong hư không không có hoa, nhưng vì người mắt bệnh nhặm nên vọng thấy có hoa đốm huyễn hiện. Phật thường dùng từ ngữ này để dụ cho cảnh giới vốn không thật thể, vì hiểu biết sai lầm nên thấy có một cái ngã thường trụ, hoặc có thật thể, gọi là không hoa. (Theo TĐPHHQ, tập 3, tr. 2312).
[14] Phần Dương: ngài Thiện Chiêu, thiền sư Trung Quốc, dòng Lâm Tế, đời Tống, họ Du, người ở Thái Nguyên (nay là tỉnh Sơn Tây). Thuở nhỏ Sư thông minh, tự nhiên thông hiểu văn tự. Mười bốn tuổi cha mẹ qua đời, Sư xuất gia, thọ giới Cụ túc, đi tham phỏng 71 vị thạc đức tôn túc, đến Thủ Sơn ở Nhữ Châu tham phỏng thiền sư Tỉnh Niệm được đại ngộ và được nối pháp. Sau, Sư đến Hành Tương, Tương Miện, quan Quận thủ mời Sư về trụ trì các chùa nổi tiếng, nhưng Sư không nhận. Khi ngài Tỉnh Niệm thị tịch, Sư mới nhận lời thỉnh của tăng tục ở Tây Hà đến trụ viện Thái Tử ở Phần Dương, giảng rộng về tông yếu, dùng các cơ dụng như tam cú, tứ cú, tam quyết, thập bát xướng... để tiếp hóa người học, nổi tiếng một thời. Ba mươi năm, Sư không ra khỏi cửa, tăng tục gọi ngài là Phần Dương. Sư thị tịch năm 1024 đời Tống, hưởng thọ 78 tuổi. Thụy hiệu là Vô Đức Thiền Sư. (Theo TĐPHHQ, tập 6, tr. 5547).
[15] Hoạnh tử: chết bất ngờ do găp tai họa. Có chín thứ: bệnh mà không có thầy thuốc phải chết, bị luật vua xử tử, phi nhân đoạt tinh khí, lửa cháy, nước nhận chìm, ác thú ăn thịt, té từ cao xuống, bị thuốc độc, bùa chú trù ếm, đói khát. (Theo TĐPHHQ, tập 2, tr. 1905).
[16] Hệ từ: Kinh Dịch có 7 loại: Thoán, tượng, văn ngôn, hệ từ, thuyết quái, tự quái, tạp quái. Thoán, tượng, hệ từ, mỗi loại chia ra 2 thiên. Như vậy có 10 thiên. Người đời Hán gọi là Thập dực (Theo Ngữ Văn Hán Nôm tập hai, Ngũ Kinh, Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, tr 507).
[17] Tùng lâm: giới Phật giáo, tự vịên, thiền tự, từ mà chư tăng dùng để gọi các thiền sư. (Theo TĐTTHV, tr. 906).
[18] Từ định: ở trong thiền định, khi hành giả muốn chúng sinh được an lạc thì trong tâm số pháp sinh định, gọi là từ định. (Theo Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn).
[19] Chân Điểm Hung: tức thiền sư Thúy Nham Khả Chân. Sư đắc pháp nơi Thạch Sương Sở Viên.
[20] Thượng tọa: trưởng lão, thượng lạp, thủ tọa, trụ vị. Vị tăng hay vị ni có tuổi hạ cao và ở địa vị trên, một trong tam cang. Kinh Tì-ni-mẫu 6 y cứ vào tuổi hạ cao. (TĐPHHQ, tập 6, trg 5730).
[21] Chư phương: thiền sư ở các nơi hoặc chỉ cho thiền viện. (Theo TĐTTHV, tr. 110).
[22] Tứ tân chủ: bốn câu này để đo lường cơ phong, tiếp dẫn người học của thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Trong đó, tân là vị khách đến tham vấn, chủ là vị thầy. Tứ tân chủ gồm có:
a- Tân khán chủ: người khách xem xét thấy rõ ông chủ, như tiếng hét của người học chân chính là đưa ra cái chậu đựng keo. Thiện tri thức chẳng biết là cảnh bèn dính mắc cảnh đó mà làm dáng làm điệu, liền bị người học hét thêm tiếng nữa, thiện tri thức chẳng chịu buông xuống. Ấy là bệnh tuyệt vọng chẳng thể trị.
b- Chủ khán tân: người chủ nhìn tường tận được khách, như thiện tri thức chẳng đưa ra vật gì, tùy chỗ hỏi của người học liền đoạt, người học bị đoạt thà chết chẳng chịu buông.
c- Chủ khán chủ: người chủ nhìn lại mình, như có người học đưa một cảnh thanh tịnh ra trước mắt thiện tri thức, thiện tri thức biết là cảnh, liền quăng vào hầm sâu. Người học nói: “Tốt lắm thiện tri thức”. Thiện tri thức liền nói: “Ngốc thay! Chẳng biết tốt xấu”. Người học bèn lễ bái.
d- Tân khán tân: người khách nhìn rõ về họ, như có người học bị còng tay còng cổ ra trước mắt thiện tri thức. Thiện tri thức lại còng thêm một lớp, người học hoan hỷ, hai bên đều chẳng biết. (Theo TĐTTHV, tr. 923).
[23] Tình kiến: tục tình vọng kiến. Bích nham lục q.1 ghi: “Tuyết Đậu sợ người ta chạy theo tình kiến. Vì thế rút hẳn chốt cửa, bày kiến giải của mình, nói: “Thôi nhớ nhau, gió mát khắp nơi bao giờ ngưng”. (Theo TĐTTHV, tr. 814).
[24] Nê ngưu nhập hải: con trâu đất chìm xuống biển. Dụ cho mất dấu vết, không tin tức; có nghĩa là một đi không trở lại. Nê ngưu (trâu đất) dụ cho tác dụng suy tư phân biệt. Hải (biển): pháp tính bình đẳng. Thiền tông dùng cụm từ này để chỉ cảnh giới của người khai ngộ, vọng tình hòa tan vào chân tâm. (Theo TĐTTHV, tr. 475).
[25] Nhất đạo thần quang: một luồng ánh sáng thần diệu, tức ánh sáng sẵn có của chính mình, là tâm sáng suốt linh diệu không mờ mịt. Tắc 31, Thung dung lục (Đại 48, 248 thượng) ghi: “Một luồng ánh sáng thần diệu, từ trước đến nay chẳng hề che giấu”. (Theo TĐTTHV, tr. 814).
[26] Lương cửu: lặng lẽ hoặc thản nhiên một hồi. Nguyên ý là thời gian hơi lâu. Thiền tông dùng từ này chỉ cho trạng thái vô ngôn vô ngữ. Lúc vị thầy tiếp dẫn người học, người học đưa ra nghi vấn, hoặc trình bày kiến giải của mình, hoặc trả lời câu hỏi của thầy, thầy thường dùng thái độ lặng lẽ một hồi để biểu thị sự đồng ý hoặc phản đối. (Theo TĐTTHV, tr. 428).
[27] Tiêu Hà: Thừa tướng của Hán vương Lưu Bang.
[28] Hàn Tín: Đại tướng của Hán vương Lưu Bang. Nhờ Tiêu Hà và Hàn Tín mà Lưu Bang diệt Hạng Vũ và lên ngôi Hoàng đế, tức Hán Cao Tổ (206 BC). Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương được gọi là “Hán sơ tam kiệt”, nghĩa là ba người hào kiệt đầu đời Hán. (Theo Lịch Sử Trung Quốc 4000 năm, tập 1, tr. 277-294).
[29] Hoắc Quang: Đại tướng 3 đời: Hán Vũ Đế, Hán Chiêu Đế và Hán Tuyên Đế. Ông nắm đại quyền triều chính khi Hán Vũ Đế băng. Lúc đó, Hán Chiêu Đế lên ngôi mới 8 tuổi. (Theo Lịch Sử Trung Quốc 4000 năm, tập 1, tr. 369-373).
[30] Giác Phạm: thiền sư Bảo Giác ở chùa Thanh Lương, đất Đoan Châu đời Tống, tên Đức Hồng, tự Giác Phạm, ban đầu tên Huệ Hồng, ngộ đạo nơi thiền sư Chơn Thanh Khắc Văn, trước tác bộ Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện, 30 quyển và Lâm Gian Lục. Sư thị tịch tháng 5 niên hiệu Kiến Viêm đời Cao Tông, thọ 58 tuổi, được vua ban tặng hiệu Bảo Giác Viên Minh. (Theo PHĐTĐ của Đinh Phúc Bảo).
[31] Sơ Sơn: núi thuộc huyện Kim Khê, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, nằm cách trung tâm huyện 29km về hướng tây bắc. Trong núi có chùa Sơ Sơn. Núi này vốn là chỗ đọc sách của ẩn sĩ Hà Tiên Đan đời Đường, nên có khi gọi là Thư Sơn. Khoảng niên hiệu Trung Hoa (881-884) đời Đường, thiền sư Khuông Nhân, tông Tào Động đến núi này cất chùa, Vua ban bảng hiệu là Bạch Vân. Vào đời Nam Đường, đổi tên là Sơ Sơn. Đời Minh có thiền tăng Tự Tính trụ trì. (Theo TĐTTHV, tr. 639).
[32] Chữ dĩ (以) không thành, bát (八) cũng sai: Chữ “dĩ’ chỉ cho chữ “ ” viết trên đầu lá bùa hộ mạng, ấy là biến hình của chữ “ ” trong các chữ tất-đàm. Tuy nhiên, nếu nhìn theo chữ Trung Quốc thì chẳng phải là chữ “dĩ” cũng chẳng phải chữ “bát”. Thiền tông căn cứ vào việc trên để chỉ cho bản lai diện mục rất khó diễn đạt, dù bằng bất cứ phương tiện nào. (Theo TĐPHHQ, tập 2, tr. 1060).
[33] Thi tăng còn gọi là văn tăng. Vị tăng giỏi thơ văn. Đặc biệt chỉ cho các vị thi tăng ở Giang Tả, sống vào đời Đường, Trung Quốc. (Theo TĐPHHQ, tập 6, tr. 5421).
[34] Tác gia còn gọi là Tác giả: bậc tu hành tài giỏi có cơ dụng vượt hơn người. (Theo TĐTTHV, tr. 652).
[35] Tự nghĩa: ý nghĩa từ ngữ.
[36] Thể lộ chân thường: vật thể hoàn toàn hiển bày tướng trạng chân thật, vĩnh hằng, là điều mà nhà Phật gọi là chơn như. Đây là cảnh giới của người ngộ Thiền. Tiết Bách Trượng Hoài Hải Thiền sư trong NĐHN q.3 ghi: “Linh quang sáng tỏ, thoát khỏi căn trần, thể lộ chân thường, chẳng mắc văn tự. Tâm tính không nhiễm, vốn tự viên thành, chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật”. (Theo TĐTTHV, tr. 719).
[37] Như như: chân thật tướng của vạn sự vạn vật bình đẳng không hai, gọi là như như. Đoạn tế tâm yếu ghi: “Vô tâm là không có tất cả tâm. Thể như như bên trong như gỗ đá không lay không động; bên ngoài như hư không không bít không ngại, không năng sở không chỗ nơi, không tướng mạo không được mất”. (Theo TĐTTHV, tr. 541).

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2020

TRẢ LỜI CÂU HỎI CỦA MỘT NGƯỜI TRÊN FACEBOOK

Bạn thân mến!

Tôi không phải là người ham muốn nhận bất cứ một giải thưởng nào ( bạn này có treo giải ), nhưng thấy điều thắc mắc mà bạn đưa ra rất thực tế và có tâm trong sáng lo lắng cho thế hệ trẻ , cũng như bao người học Phật ngày nay đang quan tâm về việc theo Đạo Phật sẽ có được những lợi ích gì? Những điều giảng trong các khóa tu nơi các chùa do các sư thầy chủ trì có đem vào áp dụng một cách thực tế vào đời sống hay không…..?

Chính vì vậy mà không có thể nói hết tất cả trong khuôn khổ của một commen trên FB, tôi chỉ có thể đưa ra một số kinh nghiệm cũng như hiểu biết của mình về mấy vấn đề bạn đã đề cập

“Câu hỏi cho rằm tháng 8 lần này về chữ: Tu

Ở Tuổi Trẻ còn bao hoài bảo mà mỗi khi nói đến Tu thì ai củng cho cọc trọc đầu ăn chay niệm phật mới là Tu.

Vậy theo bạn Tu như thế nào,ở khía cạnh nào ..trong cuộc sống và bạn hãy dẫn chứng cụ thể trường hợp bạn cho đó là Tu áp dụng vào cuộc sống mà bạn đã trải qua ...????”

Tóm lại bạn đưa ra 3 vấn đề:

- Tu như thế nào?

- Các khía cạnh của sự tu tập…?

- Bằng cách gì để đạt được sự mong muốn?

Nói đến chữ TU, có nghĩa là chúng ta muốn hoàn thiện bản thân mình, muốn trở thành một người hữu ích, một người có đầy đủ NHÂN , LỄ , NGHĨA , TRÍ, TÍN mà trong nhà Phật gọi là BI - TRÍ – DŨNG.

Vậy tại sao chúng ta phải Tu?

Nếu không hiểu được vì sao phải Tu , tức là cái nguyên nhân thúc đẩy chúng ta thực hành Phật Pháp, đó chính là cuộc đời này là khổ, mà khổ là do vô minh mà sinh ra khổ.

Vậy muốn thoát khổ để có được một cuộc sống như mong muốn chúng ta không còn cách nào khác là phải áp dụng thực hành Phật Pháp vào đời sống cụ thể.

Vấn đề chính là ở chỗ , nếu không hiểu rõ , tức là không đồng thời y giáo phụng hành theo một môn phù hợp với bản thân , trước để thanh lọc thân tâm để khai mở trí tuệ, có như thế mới áp dụng Phật Pháp vào thực hành TU trong thực tế đời sống mới chính xác được. nếu không chúng ta sẽ nhảy từ hám muốn này sang ham muốn khác, khổ đau vẫn còn đó , nó chỉ thay đổi một chút màu sắc mà thôi.

Tu chính là tư duy , nhận thức được những sai lầm trên tất cả những tư tưởng phát sinh trong tâm mình, thấy được sự hại mình hại người như những tánh tham lam sân hận , ghen ghét trong các mối quan hệ làm ăn, nhận rõ tính ích kỉ của bản thân trong quan hệ bạn bè , anh em trong gia đình, thấy rõ được sự khen , chê , đàm tiếu … đều là đem lại đau khổ và bất an cho chính bản thân mình và mọi người.. nhận rõ được nhân quả mới thấy ra được sự thật khổ đau là do chính bản thân mình tạo ra mà không phải do ai khác làm mình đau khổ.

Với tuổi trẻ, là thời gian , cơ hội để nhận biết và thay đổi bản thân mình, phải nhận rõ con người muốn hạnh phúc thực sự, trước phải hiểu cội nguồn, chính là cái điều căn bản nhất để xây dựng nhân cách làm người. nếu không có được điều đó, thì chẳng khác nào xây nhà trên cát.

Chính vì vậy tuổi trẻ trước phải tu thân. Tâm không nghĩ điều xấu,thân không làm việc ác, miệng không nói điều xấu, điều gian xảo, kính yêu Cha Mẹ, yêu quí anh em , tôn trọng bạn bè , thấy cái xấu nơi người phải rút kinh nghiệm cho bản thân , thấy cái hay cái tốt nơi người nên ráng học tập và thực hành, dày công rèn luyện , nâng cao hiểu biết chuyên môn , thực hành hạnh kiêm tốn , biết đủ, không tham lam, lãng phí, quán xét bản thân hàng ngày đã có việc gì làm chưa đúng , chưa đủ, chưa phù hợp, phải thấy thiếu sót bản thân mỗi ngày để kịp thời sửa chữa , thay đổi, khi mà một tâm niệm tham khởi hay là một chút nhỏ nhen trong tâm sinh khởi phải thực sự nhận biết, nếu ta làm chủ và nhận rõ những điều đó phát sinh trong từng giờ từng khắc.. chính là chúng ta đã áp dụng Phật Pháp vào bản thân mình, đấy gọi là Tu.

Vậy Các khía cạnh của sự tu tập là gì ?

Chính là trong tất cả các mối quan hệ xã hội , việc làm , hành động, học tập, sáng tạo, sinh hoạt, vui chơi , giải trí, nói chung là tất cả hoạt động của con người kể cả ăn,mặc, ngủ ….

Thí dụ trong quan hệ xã hội không kết giao với kẻ xấu, không bè cánh đả kích lẫn nhau với đồng nghiệp, tránh xa những việc làm đem lại khổ đau cho người khác.ví như trong quan hệ làm ăn thương mại không lừa lọc, không thủ đoạn chèn ép, làm ăn kính tế phải bình đẳng , sòng phẳng, chân thật, giúp đỡ người mới lập nghiệp theo mình, nếu là chủ doanh nghiệp thì không mang tư tưởng bóc lột sở hữu cá nhân như nô bộc… sống phải chánh nghiệp , chánh mạng, những việc làm và hành động đem lại lợi ích bản thân mà làm người khác nghèo khổ và thủ ác với các loài chúng sinh cho thỏa mãn thói vui thú của mình như săn bắn , hoặc câu cá, đánh bẫy….

Học tập phải chịu khó rèn luyện , chuyên cần, chọn lọc những gì đem lại lợi ích cho cuộc sống , nếu là những việc làm vô bổ thì không nên tham đắm . sáng tạo những sản phẩm lợi ích đem lại giá trị sử dụng cao cho nhiều người, lấy lợi ích cộng đồng làm động cơ phát triển mà không vì danh lợi bản thân….. trong tất cả các hoạt động sinh hoạt của bản thân phải thực sự trong sáng , lành mạnh và bổ ích , tiết kiệm , thái độ với mọi người khiêm tốn chân thành…..

Đối với gia đình phải thực sự thương yêu và quí trọng , Cha , Mẹ là người sinh thành ra mình thì phải kính trọng , chăm sóc , nuôi dưỡng lúc tuổi già với tâm thành kính., soi xét mọi vấn đề phải vô tư trong sáng không thiên vị mình hay người, , phải tuyết đối giữ được niềm tin với bạn bè và tất cả đồng nghiệp , và người thân trong gia đình…

Một điều quan trọng phải nhớ là thường xuyên thực hành một phương pháp trong TU ĐẠO có thể là Thiền , Tịnh , Mật… môn nào mà phù hợp với bản thân mình thì cứ theo , miễn là phải thực hành đúng , nếu cần thiết thì phải có người đi trước hay Thầy chỉ dạy nhất thiết phải thực hành để duy trì , cân bằng thể chất và tinh thần , từ đó mới phát sinh được trí tuệ, có trí tuệ mới tỉnh giác , nhận biết và phân biệt được thật giả , đúng sai , nên hay không nên….

đây tạm gọi là một chút kinh nghiệm và hiểu biết từ quá trình tu học và áp dụng vào cuộc sống, còn thực tế về nghĩa TU còn có con đường TU GIẢI THOÁT , điều này thì có duyên mới có thể cùng nhau trao đổi . cám ơn bạn đã đưa vấn đề ra cho mọi người tìm hiểu và tham gia .

Phạm Văn Dũng 18 - 9 - 2020


Những nghịch lý mà người tu theo đạo Phật ngày nay cần hiểu rõ.

 

Những nghịch lý mà người tu theo đạo Phật ngày nay cần hiểu rõ.

Tôi ít lên chùa , nhưng được nghe rất nhiều băng giảng của các vị sư ngày nay. hầu hết thầy nào cũng rao giảng về khổ ở đời về vô thường và tham, sân, si , về năm giới mà người học Phật cần phải giữ. Tôi lại đọc rất nhiều kinh sách từ Nguyên Thủy đến Đại Thừa, ở kinh nào cũng nói đến sự buông xả đến tận cùng về sự bám chấp vào vật chất và ý niệm khi sinh khởi trong lòng, một người muốn đạt đến tự do tự tại , vượt thoát mọi ưu phiền khổ não ở đời phải rũ bỏ tự ngã, rời bỏ lòng tham và sân hận , giữ lòng thanh tịnh, luôn làm thiện mà không bị dính mắc nào việc mình làm................

Nhưng có một điều mà thực tế lại ngược lại với những gì các sư thầy giảng và kinh sách để lại từ thực tế ngày nay.

Ngày nay ở chùa nào cũng có vài ba thùng công đức. các thầy vẫn thường xuyên vận động ủng hộ cúng dường để xây chùa to , dựng tượng lớn, có thể nói sự phô trương và quá đà trong việc xây chùa dựng miếu, chùa chiền thời nay, vua chúa ngày xưa có nằm mơ cũng không bao giờ có, điều kiện của các vị trụ trì thì có thể nói đại gia còn là hàng thứ . sự quan hệ trong giới Phật tử thì ưu tiên những người có những điều kiện theo thầy rong ruổi khắp mọi miền để thực hành Phật sự, ví dụ như cầu siêu cho ông a, giải hạn cho bà b, rồi cùng thầy qui tụ cho được thường xuyên nhưng người phật tử về thăm đất Phật tận Ân Độ, mỗi lần ngổi trên bục giangt kinh thuyết pháp , tôi nghỉ đến tổng thống các nước văn minh cũng không lãng phí đến mức độ như các sư ở chùa....

Thật là là một trò tức cười khi người tu học phải vừa lắng nghe giáo lý rũ bỏ tham ái , sân hận si mê lại phải ra sức làm sao cho có thật nhiều công đức bằng sự cúng dường lên các sư thầy . tôi nói thật , một lần tôi theo các bà đi chùa mới té ngửa ra là nó còn tệ hơn cả ngoài đời nữa. trên đường dừng chân nghỉ ngơi , người trưởng đoàn yêu cầu mỗi người nộp tiền ..... bao gồm tiền thuê xe và sinh hoạt phí trong đó gồm cả tiền gọi là cúng dường. so với tổng số thì tiền xe và sinh hoạt phí chỉ khoảng 1/3 thôi.

Tôi thật bất ngờ vì là lần đầu tiên với tinh thần trong sáng , lại quan điểm tu học theo Thiền Tông. nhưng còn bất ngờ hơn khi đến chùa . hahahaahahahahahahha dừng xe nơi phía bên chùa , cả đoàn xuống xe và bắt đầu bước vào ngưỡng trong của khu chùa, ngay nơi dãy nhà dành cho các tu sĩ , hôm đó là vào đầu xuân ( tết ) nhiều đoàn đến lắm. tôi thấy có 5 bảy tăng trẻ đang ngồi uống nước đóng hộp , trong đó có cả bia lon. và cái ý nghĩ đầu tiên khởi lên trong đầu tôi là tại sao sư trong chùa vẫn dùng bia , mà đã là bia thì thế nào cũng có rượu. rồi một buổi chiều sắp qua , tôi lững thững đi dạo một vòng xem các căn nhà và kiến trúc của chùa ra sao thì bỗng dưng , thấy một vị sư có tuổi tướng mạo mập mạp có vẻ oai phong , nhưng kì lạ là tay vị sư ấy cầm điếu thuốc thong thả bước trên hành lang của dãy nhà trong khu chùa vừa hút thuốc vừa nhả những làn khói trông rất thong dong rất ngon lành. tôi chững lại nhìn theo những bước chân và những làn khói của vị sư ấy và nghĩ. chẳng lẽ đây là nơi ta đến để học hỏi thêm về những điều chưa biết về đạo Phật?

Rồi bữa cơm chiều trong không khí trang nghiêm nơi cửa chùa lần đầu tiên tôi tham dự, rất ngon và gần gũi thân mật sau một ngày ngồi xe ....

Tối đến sau khi mọi công việc ở chùa gần như là đã ổn thỏa , nhóm phật tử chúng tôi bắt đầu thực hiện nghi lễ ra mắt sư thầy, mọi người đều chỉnh chu trong trang phục đi lễ chùa , chỉ mình tôi và anh lái xe là ăn mặc bình thường như bao ngày . tập trung xong , chúng tôi xếp thành một hàng và đi đến cuối dãy nhà rồi rẽ trái có một căn phòng lớn, người trưởng đoàn gõ cửa và có tiếng vọng từ trong ra : mời vào.

chúng tôi lần lượt bước vào, thật là quá đỗi ngạc nhiên khi tôi thấy chính vị sư khi chiều hút thuốc lá đang ngồi trên ghế một chân co vào lòng một chân buông lỏng xuống đất., vẫn cứ cái tư thế đó vị sư chào mọi người, lúc này tôi thấy mọi người như nằm rạp xuống đất để lạy vị sư này , riêng tôi và anh lái xe chỉ chắp tay cúi đầu lễ chào vị sư.

Sau khi yên vị dưới nền nhà và chỉ có vài chiếc ghế nơi bàn vị sư đang ngồi còn thừa , tôi và anh lái xe ngồi vào đó , tôi ngồi đối diện với vị sư, mắt vẫn không rời mọi cử chỉ nơi vị sư ấy., một lúc sau người trưởng đoàn đưa ra một phong bì trong đó là tiền mà mọi người quyên góp, cùng với trà và những thứ tôi không rõ lắm mà các bà đã chuẩn bị từ trước.

Lúc này tôi liếc nhìn xung quanh căn phòng của vị sư , thấy có nhiều bọc trà lớn và mấy gói thuốc lá, trên bàn còn có cả gạt tàn thuốc. vẫn với tư thế một chân có và một bàn tay mân mê mấy ngón chân , vị sư vừa hỏi thăm sức khỏe và làm ăn của các bà , một lúc sau như đã tạm đủ về sự thăm hỏi , mọi người chúc thầy và xin lui.

thế là xong cuộc viếng thăm vụ sư thứ nhất , lần này là viếng thăm vị sư thứ hai, nghe nói vị này có tiếng tăm là đã đạt vào hàng thánh quả. cũng như lần trước , chúng tôi vào thăm vị sư này , mọi thủ tục vẫn như lần đầu , phong bì , và quà , được cái vị sư này khi thấy chúng tôi bước vào vị ấy đứng dậy cũng chắp tay chào lại chúng tôi, với dáng người nhỏ nhắn nhưng nhanh nhẹn , người có vẻ gầy gò như người khổ hạnh . xong việc chúng tôi trở về phòng ngủ. lúc này , mấy bà trưởng đoàn và những người hơi giàu có bắt đầu cuộc viếng thăm thứ hai , mà theo như các bà ấy nói là lúc nãy là đi chung , giờ các bà ấy là đi riêng. hahahahahaahahahahahah...... đến đây thì tôi vở lẽ ra rồi , thì ra chùa cũng chẳng khác gì đời cả . ahahahaahahahaahahahahhaha....

Phạm văn dũng 


Những điều bí ẩn trong hơi thở

 

·         Những điều bí ẩn trong hơi thở

·         

Hơi thở còn, sự sống còn, Hơi thở mất, mất tất cả!

·         Namo tassa bhagavato arahato sammasambudhassa

Những điều bí ẩn trong hơi thở

Lời mở đầu

Hơi thở còn, sự sống còn, Hơi thở mất, mất tất cả!

Trong đời sống nhân loại nói riêng, tất cả sinh vật có sự sống nói chung, hơi thở là nguồn mạch của sự sống. Nhiệm vụ của hơi thở là cung cấp nguồn năng lực cho sự sống với lượng khí oxygen dược chuyển vào trong phổi,tim và sẽ được bài tiết những chất carbon dioxide theo ra ngoài với hơi thở ra.

Không những thế, hơi thở còn ảnh hưởng từng giây từng phút đến các  cảm giác, giấc ngủ, bộ nhớ, năng lực tập trung và toàn bộ sự sống của chúng ta cho đến khi nhắm mắt lìa đời.

Từ ngàn xưa, hơi thở trở thành một đề mục tối cần thiết cho những nhà ẩn sĩ, đạo sĩ, tu sĩ, các vị nương đề mục nầy để an trú vào thiền định, hưởng được những hạnh phúc an lạc của các cảnh giới mà hầu như ngày nay rất hiếm được thấy có ai làm được và thậm chí trở thành không tưởng hay giả tưởng.

Hơn thế nữa, có vị do nhờ hơi thở nầy mà đã trở thành vĩ nhân, thánh nhân và điều hiển nhiên nhất là chính Đức Phật Thích Ca của chúng ta cũng do từ hơi thở nầy mà ngài đã trở thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác có một không hai trên thế gian nầy.

Do vậy, hơi thở chính là tài sản vô giá mà tất cả chúng ta ai ai cũng đều có, nhưng có thì có, mà mấy ai biết tận dụng nó, hiểu được nó để từ đó đem lại nguồn an lạc cho chính mình và cho toàn thể nhân loại.

Không hiểu biết về hơi thở là một điều thiêú sót và thảm hại nhất  cho nên chúng tôi mạo muội đưa ra tập sách nhỏ nầy hầu có thể đóng góp vào kho tàng văn học cũng như giúp cho những ai có sự mong cầu thành tựu được những sự an lạc trong cuộc sống và giải thoát cuộc sống ra khỏi ách thống trị và nô lệ  cho ma vương.

Hơi thở có những bí ẩn gì

Đối với tất cả chúng ta (ngoại trừ các vị có nghiên cứu, thiền sư..) hằng ngày chúng ta thở ra thở vào không biết là mấy chục ngàn lần mà chúng ta nào có hay biết nó, bên trong nó là gì,? thỉnh thoảng chúng ta để ỷ đến chúng tí xíu rồi đưa tâm đi phiêu diêu đây đó, toan tính mưu đồ kế hoạch, suy tư tìm kiếm những cảm giác hạnh phúc, đào sâu vào các công trình hầu đem lại sự giàu sang phú quý... ; cho đến khi chúng ta  gặp những hoạn nạn đau khổ không biết nương tựa vào đâu, từ đó nảy sanh những tri kiến lầm lạc bám víu vào các thần linh để mong cầu sự an lạc hạnh phúc...

Hơi thở, đây chính là nơi nương tựa tuyệt vời nhất và nó luôn luôn có mặt sẵn sàng chờ đợi chúng ta quan tâm đến nó và chính nó sẽ giúp các bạn vượt qua mọi khổ sầu ngay trong hiện tại. Không tin các bạn hãy thử những lúc gặp chuyện buồn (thất tình, thua lỗ...) bạn chỉ cần ngồi yên xuống quay về với hơi thở, sống với nó, trú trên nó, khi nó thở vào bạn biết rõ nó vào, khi thở ra bạn biết rõ nó ra...; cứ như vậy trong thời gian ngắn mọi ưu phiền lo toan đều tiêu tan, một liều thuốc an thần tuyệt vời không tốn một xu nào,  ngoài ra nó còn giúp cho các bạn vượt qua nhiều chứng bệnh trầm kha về thân lẫn tâm nếu các bạn kiên trì luyện tập đều đặn (tâm bình thế giới bình); đó là bí ẩn thứ nhất mà tôi giới thiệu đến qúy vị độc giả.

Hơi thở bản thể của nó chính là nguyên tố gió, những vật thể nào mang tính căng phồng, lay động, di chuyển lên xuống..chính là  gió.

Riêng về đặc tướng của gíó có hai loại cần được biết là :               

            Tĩnh phong và động phong.

Tĩnh phong là chất gió có khả năng duy trì các vật chất khác đồng sanh với nó được quân bình, thăng bằng không té đổ. Cho nên khi chúng ta ngồi hay đứng được vững vàng cũng do nhờ tịnh phong nầy.

Động phong thì có phận sự làm cho các vật thể di động, lay chuyển, không có gió thì mọi vật không thể chuyển động và từ đó không thể tồn taị được. Đi tới đi lui, co tay duổi tay, đứng lên ngồi xuống hay bất kỳ mọi cử động nào đều do động phong.

1.     Gió chuyển lên (ợ, ngáp,ắc xì..)

2.     Gió chuyển xuống (đánh dấm ..)

3.     Gió thường trực trong bụng

4.     Gió khắp toàn thân 

5.     Gió  chuyển dịch trong các bộ phận cơ quan của cơ thể

6.  Hơi thở vào, ra.

 

Đó là những bí ẩn thứ hai chúng tôi giới thiệu đến quý vị.

Bây giờ còn điều gì xảy ra với bí ẩn thứ ba?

Hơi thở  phát khởi được biết là do từ tâm sanh, một thân xác không có tâm đồng nghĩa với một xác chết (ngoại trừ những vị nhập thiền diệt và những vị trời vô tưởng) và một tử thi thì chắc chắn là không có hơi thở, một người vừa tắt hơi thở đồng lúc với  tử tâm thì là người chết. Đó là bí ẩn thứ ba cần được biết.

Hơi thở không những chỉ có bấy nhiêu mà nó còn rất nhiều điều mà chúng ta cần được biết là ngay chính trong hơi thở không những chỉ có nguyên tố gió mà nó còn có bảy sắc thể đồng sanh chung là : nước, lửa, đất, sắc, hương (khí), vị, và dưỡng tố;

Như vậy toàn bộ cái gọi là hơi thở sanh lên bao gồm 8 thể loại sắc tố  đồng sanh chung với nhau .

Bất kỳ vật thể nào sanh lên dù to như đảnh núi hay nhỏ như vi trần đều phải có ít nhất là 8 sắc nầy và chúng được goị là 8 sắc bất phân ly. Một vật thể không có đất thì không có chỗ nương tựa nâng đở, không có nước thì không thể kết dính lại nhau, không có lửa  thì không thể tồn tại, không có gió thì không thể di chuyển được; Đó là 4 đại không thể không có mặt để trợ lẫn nhau, ngoài ra bất kỳ vật thể nào cũng đều có màu sắc riêng của nó, mùi hương thơm, hôi, tanh, thối.., vị cay, đắng, ngọt, bùi.., và chất dưỡng tố để duy trì nuôi dưỡng sự tồn tại của chính nó ; hơi thở không ngoại lệ. Đó là bí ẩn thứ tư cần được biết đến.

Rồi khi ta thở vào thì điều gì sẽ xảy ra?

Khi chúng ta thở vào, như được biết hơi thở có 8 sắc bất phân ly  (đất - nước  - lửa - gió - sắc - hương - vị  và  dưỡng tố ) nhưng rõ rệt nhất của hơi thở chính là gió; chưa hết, 2 cái lỗ mũi thông tức nói về khoảng không (sắc hư không), cộng với bản thể đất, lửa, gió  xúc chạm vào  hệ thần kinh thân trải bao quanh trên đầu mũi tạo nên sự xúc (thân xúc, nguyên tố nước vì thuộc sắc tế nên không thể xúc chạm được) rồi từ đó sự cảm xúc đó thông truyền vào trong dòng tâm thức làm cho dòng tâm bị rung động rồi từ đó tâm thân thức phát sanh để biết được sự xúc của hơi thở vào; Cùng thế ấy, hơi thở ra cũng được hiểu như vâỵ ,đó là bí ẩn thứ năm rất quan trọng cần nắm thật rõ vì sẽ đem lại sự lơị ích khi chúng ta đi vào pháp hành thiền về hơi thở.

Vậy khi hành thiền về hơi thở có những bí ẩn gì?

Nhiều lắm, nhiều không thể tưởng, vớí tài hèn sức mọn tôi cố gắng trình bày cho quý vị những gì tôi biết, thế thôi.

Trước tiên, muốn đi vào công cuộc hành thiền về đề mục hơi thở nâỳ chúng ta cần phải có một số chuẩn bị thích đáng vì nếu không thì chúng ta sẽ chẳng gặt hái được gì và có thể đưa đến tri kiến lầm lạc hậu quả không lường.

Thứ nhất, điều cần phải làm là gìn giữ những giới hạnh tất yếu cần có như ngũ giới, bát quan trai giới…( http://budsas.110mb.com ), nếu có thân cận thì nên thân cận các bậc thiện trí nên tránh xa những nơi ồn ào náo nhiệt, chế độ ăn uống cần tri túc, giảm thiểu các chất kích thích tố, thân thể  gìn giữ sạch sẽ và nhất là lỗ mũi cho sạch và thông.

Tiếp đến là học cách ngồi sao cho thích hợp với cơ thể, tư thế ngồi tốt nhất là nên ngồi trên một cái gối để cho cột sống được thẳng, hai chân xếp tréo chồng lên nhau theo tư thế kiết già nếu không chịu được nổi cách nầy thì có thể ngồi bán già chân trên chân dưới xếp laị, còn không được nữa thì nên để hai chân xếp lại đặt nằm trên mặt đất theo lối người Miến Điện, ngoài ra những trường hợp khác vẫn có thể ngồi trên  ghế sao cho thích nghi với cơ thể và quan trọng là nên ngồi trong tình trạng luôn thoải mái có như vậy công cuộc hành thiền mới đem lại nhiều kết quả khả quan; riêng về hai tay thì tuỳ, bạn có thể để hai tay chồng lên nhau hoặc để úp trên hai đùi thật tự nhiên nhẹ nhàng.

Bây giờ mời các bạn đi vào thế giới huyền diệu của thiền. Sau khi mọi việc đã chuẩn bị đâu đó, việc trước tiên là tìm nơi vắng vẻ, ngồi xuống với tư thế kiết già hay bán già. Đặt tâm trên ngay chót mũi, chuẩn bị quan sát hơi thở vào, ra.

Khi hơi thở sanh lên (đều có nhân duyên tác tạo chẳng hạn như do sự cần thiết cho sự sống còn báo lên dòng tâm từ đó tâm tạo tác sự thở vào, ra) đi vào ngay cửa mũi, xúc chạm vào một trong những  khu vực thần kinh thân xung quanh mũi, bên trên, bên trong...hay bất kỳ nơi nào trên đầu mũi, Chính do sự xúc chạm đó báo vào dòng tâm thức (luồng hộ kiếp tâm) làm cho dòng tâm bị rúng động và cắt đứt dòng hộ kiếp và rồi một loại tâm khác sanh lên hướng về nơi hơi thở xúc đụng vào, liền sau đó tâm thân thức sanh lên biết được có xúc của hơi thở đi vào và liên tục hàng loạt lộ trình tâm do duyên từ đó sanh khởi, cho nên điểm chính yếu cần phải ghi nhận chính là sự xúc tác nơi nào rõ rệt nhất nơi đầu mũi (trên,dưới,trong.....); thở vào tâm  ghi nhận rõ ràng thở vào nương qua điểm xúc tác nơi đầu mũi ; cùng thế ấy, thở ra tâm ghi nhận rõ ràng thở ra.

Như thế nào là thở vào tâm ghi nhận rõ ràng thở vào, thở ra tâm ghi nhận rõ ràng thở ra?

Khi thở vào chúng ta tinh cần nỗ lực đặt tâm niệm nơi sự xúc của hơi thở tại đầu mũi một cách rõ ràng với trí tuệ sáng suốt không lờ mờ và liên tục liên tục, có nghĩa là tâm ghi nhận liên tục trong suốt quá trình hơi thở sanh lên cho đến khi hơi thở vào chấm dứt, khi thở ra cùng thế ấy tâm ghi nhận sự xúc của hơi thở nơi đầu mũi một cách rõ ràng sáng suốt liên tục cho đến khi hơi thở ra chấm dứt. Cứ như vậy chúng ta tập liên tục trong khoảng thời gian một giờ có thể ít hơn tùy theo khả năng và mỗi ngày tập đều đặn ít nhất hai thời sáng sớm và tối.

Những trường hợp khả dĩ sẽ xảy ra ngay trong khi thở vào hay thở ra có thể là :

Trường hợp 1: chúng ta sẽ không ghi nhận được  sự xúc nơi đầu mũi, trong trường hợp nầy trước tiên chúng ta cũng nên ghi nhận là không ghi nhận được xúc, đồng nghĩa là chúng ta ghi nhận được sự không ghi nhận xúc nơi đầu mũi, như vậy không có nghĩa là không có xúc mà vì sự ghi nhận của mình còn yếu không nhạy bén nên không ghi nhận được thôi, cho nên phải cố gắng tinh tấn hơn để thấy cho được rõ sự xúc đó càng nhiều càng tốt. Có thể rằng là dòng tâm lúc đó biết được hơi thở vào, ra như một luồng hơi chạy vào tuốt trong bụng rồi chạy ra tuốt ngoài mũi do tưởng tri hoặc nữa là tâm biết được hơi thở vào, ra là do sự chuyển động phồng xẹp của bụng, khi hơi thở vào do nhân duyên tác động làm cho gió trong bụng bị  ép đẩy cái bụng phình từ từ to lên căn rộng ra rồi khi to đến mức không thể thì ngưng rồi hơi thở ra và bụng xẹp lần xuống..; tại đây chúng ta có thể hiểu rằng là chính do bản thể gió trong bụng (3) dồn ép xúc tác vào hệ thần kinh thân nơi bụng rồi tác động đến dòng tâm làm cho chúng ta biết được bụng phồng lên, do vậy nếu có quán sát thì một là quán sát bản thể gió đang sanh, hai là quán sát sự xúc  nơi bụng do duyên từ gió chứ không phải quán sát cái tướng bụng phồng lên hay xẹp xuống.  Tất cả những vấn đề phát sanh về sau đều do từ xúc, chẳng hạn như mắt tiếp xúc cảnh sắc, từ đó hàng triệu hàng tỷ chuyện phát sanh; Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý...! một khi  một trong các căn ‘ nhãn, nhĩ... ‘ tiếp xúc với các cảnh ‘ sắc, thinh... ‘ thì mọi vấn đề phát sanh rất phức tạp. Nếu chúng ta không liễu tri được điều nầy thì công việc hành thiền của chúng ta sẽ khó tiến hóa được.

Thí dụ: trong khi chúng ta đang ngồi thiền  quán niệm hơi thở, bổng nhiên có tiếng chim hót chẳng hạn, Lúc đó tâm của chúng ta bị chi phối và hướng về tiếng hót đó. Trong sự việc nầy nếu nói theo thông thường thì khi nghe tiếng chim hót, tâm liền biết đó là tiếng chim hót, đúng thực tế, nhưng khi phân tích sâu vào thì khi nghe tiếng chim hót mà chúng ta biết đó là tiếng chim hót thì lúc đó tâm chúng ta đã đi quá xa và tâm đã rơi vào trạng thái chế định pháp (sammuttisacca), cho nên nghe như vậy không phải là cái nghe của thiền quán. Một khi đã bước vào cửa thiền nầy thì chúng ta phải bằng mọi cách sao cho thấy được thực tính của các pháp (paramatthasacca) chứ không phải chế định pháp. Nhưng khổ nỗi cái tâm của chúng ta nó thuộc về hàng siêu tốc cho nên khi sự việc xảy đến chúng ta khó mà nắm bắt được ở giai đoạn pháp thực tính  còn đang diễn tiến mà chúng ta chỉ thấy được cái tâm khi nó đã hình thành ở trạng thái suy diễn thuộc chế định pháp. Nhưng có một vấn đề còn tệ hại hơn là có một số quan niệm cho rằng khi nghe chỉ cần ghi nhận cái âm thanh và niệm nghe, nghe...như vậy là đã an trú trong thực tính pháp nhưng trên thực tế tâm đã biết rõ đó là âm thanh thuộc loại nào rồi, nhưng vì thiễn trí không hiểu được tiến trình hoạt động của tâm nên cố chấp hoặc lầm tưởng mình đã an trú trong chân đế pháp. Cho nên sự việc không đơn giản như vậy mà cần phải tu tập niệm rất nhiều cho đến khi sự ghi nhận thật sự nắm bắt chân đế phải một cách rõ ràng không tưởng tượng. Một âm thanh sanh lên (như tiếng chim hót ...) rồi sau đó sóng âm nầy đi vào khu vực thuộc lỗ tai xúc chạm liên tục vào hệ thần kinh nhĩ làm rung động rồi chuyền tính hiệu vào dòng tâm. Từ đây dòng tâm hộ kiếp bị dứt dòng, sau đó một tâm hướng về khu vực nơi tai chổ mà âm thanh đi vào rồi tiếp đến nhĩ thức sanh khởi làm phận sự biết sắc cảnh thinh, từ đó tiếp nhận, quan sát, xác định tâm và hàng triệu lộ tâm diễn tiến (một cái khải móng tay, hàng triệu triệu lộ tâm sanh diệt) duyên từ đó mới biết được đó là tiếng chim hót, tiếng hát hay....cho nên sự ghi nhận của chúng ta (phàm phu tục tử) hay lắm là biết được những gì mót lại qua tưởng tri. Vì thế  phải nổ lực huấn tập tâm niệm ngay tại chổ nhĩ xúc cho thuần thục nhạy bén và lần lần tự nhiên sẽ thu ngắn sự diễn tiến của dòng tâm, có như vậy chúng ta mới hy vọng nắm bắt được thực tính pháp. Cùng thế ấy, mắt thấy, mũi ngữi...cũng vậy .

Trường hợp 2: Trong khi đang quan sát thở vào hay thở ra, bỗng nhiên tâm suy nghĩ qua chuyện khác, chẳng hạn như nhớ đến ai đó, suy tư đến việc gì đó…. như vậy là chúng ta đã bị rơi mất đề mục chính, công việc đầu tiên là ghi nhận ngay sự suy nghĩ đó cho đến khi nó biến mất rồi quay trở về với hơi thở ra, vào.

Trường hợp 3: trong khi quan sát hơi thở như vậy đột nhiên tham dục sanh khởi do nhân duyên nhớ lại đối tượng nào đó...làm cho dục tham chưa sanh được sanh khởi, đã sanh càng tăng trưởng. Các bạn đừng sợ, hãy nhìn thẳng vào nó và hãy tác ý xem nó như một đề tài để quan sát, để nghiên cứu. Có như vậy chúng ta sẽ có kinh nghiệm và biết rõ thật tướng của nó một cách rõ ràng hơn và sau khi các bạn nhìn ngắm nó một cách tỉ mỉ thì tự nó mắc cở và biến mất không còn dám hiện diện nữa; Cùng thế ấy, khi sân hận sanh do nhân duyên nào đó.....bạn cũng chỉ cần ngắm nhìn nó một cách an nhiên tự tại, tự nhiên chúng biến mất. Cứ như vậy dù trong bất kỳ trạng thái nào sanh khởi trong tâm mà ngoài đề mục hơi thở, chúng ta chỉ cần nhìn ngắm nó một cách  thoải  mái nhẹ nhàng và nên nhớ rằng khi chúng biến mất thì chỉ nên biết và ghi nhận chúng biến mất, đừng nên mừng ‘ mất rồi, ta đã diệt được…!’ thế là hỏng việc vì bạn đã lồng cái Ta vào trong sự việc nầy rồi; các sự việc nó đến thì tự nhiên nó sẽ đi, có sanh ắt có diệt, không có gì chúng ta phải mừng như đã chính mình làm được một việc tiêu diệt được nó và cũng đừng vội mừng là mình đã chứng ngộ được sự sanh diệt của các pháp. Cái mà mình thấy đây chỉ là bước đầu sơ cơ mà thôi, bởi cái tâm sanh diệt nhanh không thể đo lường được cho nên với trí tuệ phàm phu của mình ghi nhận được chẳng qua chỉ là sự tưởng lại trạng thái đó mà thôi,nhưng mừng một chút cũng tốt cho sự hoan hỉ tu tập vì đó cũng là thu hoạch bước đầu của công việc hành thiền có điều là đừng tưởng đó là thật mà vội đi khoe khoang ẩu là mình đã đạt được tuệ sanh diệt, thế là hỏng bét. Các pháp đều có sự tuần tự phát triển, cho nên không thể đột nhiên chứng ngộ thình lình được .

Trường hợp 4: trong trường hợp bị rơi vào trạng thái dã dượi buồn ngủ (hôn trầm - thụy miên), tâm muốn rơi vào tình trạng hộ kiếp cho nên cố gắng tỉnh thức ghi nhận đề mục chính cho đến khi tình trạng nầy không còn tồn tại nữa, nếu cố gắng hết mức mà chúng vẫn không hết thì các bạn nên tưởng đến ánh sáng trong tâm để dòng tâm hoạt động trở lại thì sự buồn ngủ uể oải sẽ mất đi,nhưng nếu như vậy mà không hết nữa thì bạn hãy suy xét tìm kiếm nguyên nhân nào đưa đến tình trạng nâỳ ? do ăn quá độ, do cơ thể mệt mỏi quá, do thời tiết hay những nguyên nhân nào đó trong quá khứ ...và rồi loại trừ những nguyên nhân đó.  Nếu đến như vậy mà không giảm thì mời bạn từ từ đứng dậy trong sự. tỉnh thức luôn ghi nhận rõ từng cử chỉ một(cẩn thận trong giai đoạn nầy nếu không khéo thì sẽ rơi vào bất thiện pháp), rồi đi từ từ ra ngoài nơi thoáng khí rồi khoan thai đi kinh hành trên một đoạn đường ngắn (cần học cách đi kinh hành cho đúng cách, đặt niệm cho đúng chổ ); như vậy chắc có lẽ cơn buồn ngủ sẽ tan biến trong chốc lát, còn cả đến như vậy mà không xong thì mơì bạn trở vào phòng lên giường ngủ một cách thoải mái trong an bình chánh niệm cho được việc.

Trong những trường hợp tâm sanh khởi trong khi thở vào, ra chẳng hạn như: tham, sân, hôn thụy, nghi, hối, ganh tỵ, bòn rít, ác tâm ..và ngay cả thiện tâm ....thường thì chúng ta  ghi nhận các trạng thái tâm đó ngay khi chúng ta ý thức được nó hiện hữu, nhưng nếu có thể có nghĩa là đủ khả năng nhạy bén của  trí quán thì chúng ta nên  khéo tác ý hướng tâm  soi rọi cái mà làm cho các loại tâm đó sanh khởi (thuộc cảnh pháp) hoặc là dùng tuệ quán soi thấu ngược dòng tâm tìm ra nguyên nhân tác thành chúng. Tất cả các pháp đều có nhân có duyên, không thể tự sanh được. Tâm sanh cũng phải có đối cảnh mới phát khởi được, chẳng hạn tâm tham dục sanh thì phải có đối cảnh hoặc có nhân duyên (quá khứ, hiện tại) tác động nó mới sanh được. Cùng thế ấy, tất cả các loại tâm khác cũng đều phải tương tự.

Bây giờ lấy thân làm thí dụ : đang ngồi bổng dưng muốn đứng dậy, Câu hỏi được đặt ra là tại sao muốn đứng? Suy xét truy tìm nguyên nhân đó là gì? chán nản, mệt mõi, ...bất kỳ lý do nào hãy suy xét cẩn thận trước khi đứng vì nếu đứng liền thì thất niệm còn không suy xét thì có thể thảm hại hơn tức là thực hiện hành động đó có thể do tâm bất thiện sai khiến. Cho nên thực hiện sự khéo tác ý truy tìm nguyên nhân là một hành vi tốt đẹp có lợi cho nhiều mặt và có khả năng thu ngắn được lộ trình tâm để từ đó có thể nắm bắt được thực tính pháp, thấu rõ được chân tướng sự vật .

Trường hợp 5: đau do ngồi lâu tâm động không thể an trú trên hơi thở được, Trường hợp nầy đa phần ai cũng phải trải qua và rất mệt mỏi về việc nầy thậm chí sanh tâm chán nản không muốn hành nữa hoặc sanh tâm sợ hãi bị ảnh hưởng đến cặp chân yêu quý của mình… Lúc nầy việc cần thiết phải làm là trực chỉ đưa tâm hướng thẳng đến ngay chỗ đang bị đau quán niệm cái đau, không phải niệm đau đau.., nêú không hết đau thậm chí còn đau hơn, đau dữ dội hơn, tại lúc nầy, trí tuệ rất dễ phát sanh nêú bạn đủ nghị lực, đủ hiểu biết về sự đau. Đối với cơn đau, bản thể nó là một trong những cảm thọ cần phải liễu tri, do vậy chúng ta trước tiên cần phải quán xét một cách bình tĩnh rằng là do nhân gì duyên gì cơn đau phát sanh?

Do vì ngồi lâu với tư thế  tréo chân nên tứ đại bị xáo trộn, dòng lưu chuyễn của máu bị ảnh hưởng làm phát sanh sự đau và rõ rệt nhất là chính bản thể gió bị dồn ép tại khu vực tắt nghẽn làm phát sanh sự đau, Đây là nguyên nhân chính yếu mà chúng ta cần phải đặt hết tâm lực vào điểm nầy để quan sát hầu thấy rõ thật tướng của bản thể gió đang hoành hành chứ không phải niệm ‘đau,đau..’, và nếu với ai có trí tuệ nhạy bén thì ngay tại đây họ có thể nhận chân ra thực tướng của  gió nói riêng tứ đại nóí chung, và từ đây có thể là nhân là duyên đưa đến tuệ quán sanh khởi và đạo quả sẽ hiển bày.

Lại nữa, một câu hỏi cần được đặt ra là ‘ai đau, cái gì đau?’

Như sự trình bày phần trên, ở đây bản thể gió dồn ép xúc tác vào hệ thần kinh thân rồi đưa tín hiệu lên dòng tâm thức báo cho tâm biết, từ đây tâm thân thức thọ khổ sanh rôì hàng triệu lộ tâm  sau sanh khởi bị cơn đau đau hành hạ do duyên từ đó.

Như vậy sự đau chính thức là tâm đau, bây giờ chúng ta hãy áp dụng phương cách lấy tâm quán tâm, có nghĩa là dùng tuệ quán để quán sát cái tâm đau, như một đề mục trực tiếp chúng ta có thể mục kích được trạng thái của tâm một cách rõ rệt và nếu ai có được tuệ quán sâu sắc thì có thể soi thấu được bản thể pháp, thể nhập thực tính pháp và thành tựu cưú cánh ngay trong hiện taị.

Hay nói một cách khác, cái đau chính là cảm thọ đau (khổ), một trong năm thọ (khổ,lạc,hỹ, ưu, xã); Do vậy ở đây nói cho chính xác hơn là chúng ta quán sát cảm thọ đau từ thân xúc duyên chính trực tiếp làm cảm thọ khổ phát khởi nơi thân thức từ đây làm cho cảm thọ ưu phát khởi nơi dòng tốc lực tâm (javana), có nghiã là ở đây chúng ta dùng niệm để ghi nhận và dùng tuệ quán soi chiếu cảm thọ ưu đang phát sanh nếu được bằng không thì chúng ta có thể quán cái tâm đang mang cảm thọ ưu đó chính là tâm sân. Thọ là một trong những loại tâm sở luôn có mặt trong tất cả loại tâm cần đựợc biết rõ như vậy.  Do vậy, tâm sở thọ có mặt nơi nào thì tâm có mặt nơi đó, tâm có mặt nơi nào thì tâm sở thọ có mặt nơi đó.

Trở về với hơi thở, sau khi chúng ta với sự tinh cần tinh tấn, nhiệt tâm huấn tập với chánh niệm tỉnh giác với hơi thở vô biết rõ hơi thở vô, hơi thở ra biết rõ hơi thở ra, bây giờ đến giai đoạn : ‘khi thở vô dài, biết rõ thở vô dài, khi thở vô ngắn, biết rõ thở vô ngắn’

Như thế nào là khi thở vô dài, biết rõ thở vô dài; khi thở vô ngắn, biết rõ thở vô ngắn ? Cũng như đã trình bày ở phần trên chúng ta căn cứ vào sự tiếp xúc của hơi thở xúc chạm vào đầu mũi để biết được hơi thở ra, vô. Cùng thế ấy, khi hơi thở vô dài, biết rõ, có nghĩa là căn cứ trên sự chánh niệm ghi nhận sự xúc của hơi thở vô dài thì được biết đó là hơi thở vô dài, thở ra dài, chánh niệm  ghi nhận sự xúc của hơi thở ra dài thì được biết đó là thở ra dài; Cùng thế ấy, thở vô ngắn tức là sự chánh niệm ghi nhận sự xúc của hơi thở ngắn, thì biết hơi thở vô ngắn, mặc dù hơi thở còn dài nhưng sự chánh niệm ghi nhận chỉ ngắn hạn, cho nên ở đây cần được biết đó là hơi thở vô ngắn căn cứ trên chánh niệm  không căn cứ trên hơi thở, vì thở mà không biết thở thì không được coi là thở ; Ở đây chỉ có sự chánh niệm ghi nhận biết rõ hơi thở vào ra chứ không có ai hay người nào biết sự vào ra của hơi thở và cũng cần nói thêm là sự biết rõ hơi thở dài, ngắn là do chính trí tuệ biết rõ, tự nó phân định cái nào dài cái nào ngắn tuỳ theo thời gian không gian chứ không có cái mình biết dài ngắn hoặc không do tưởng hơi thở hít chạy sâu vào đến rún thì là dài còn đến ngực thì là ngắn  ...Thật ra, hơi thở khi thở vào chỉ đi vào phổi mà thôi không có đi xuống bụng cho nên sự việc bụng phồng ra là do hơi thở vào trong phổi rồi ép hoành cách mô làm cho hoành cách mô ép xuống làm cho gió trong bụng đẩy da bụng phồng ra, thế thôi; Còn niệm thi ghi nhận hơi thở vào, ra.

Do vậy, nếu chúng ta tu tập chánh niệm trở nên thuần thục nhu nhuyễn thì sự tu tập sẽ trở thành Niệm  giác chi (một trong thất giác chi) liên hợp đến hơi thở vô, hơi thở ra, đưa đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt các ác pháp và hướng đến từ bỏ; Cùng thế ấy, toàn bộ thất giác chi  ‘niệm - trạch - tấn - hỷ - khinh - định  - xả’ câu hữu với niệm hơi thở vô, ra liên hệ đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt và hướng đến từ bỏ. Đó là kết quả thù thắng do niệm hơi thở đem lại .

Lại nữa, nếu chúng ta tu tập luyện niệm hơi thở vô, hơi thở ra, chánh niệm và tĩnh giác được làm cho sung mãn thời sự chờ đợi sẽ được một trong hai quả sau đây: ngay trong hiện tại chứng được chánh trí thành tựu cứu cánh giải thoát, nếu có dư y thì chứng quả bất lai.

Đó chỉ là sự diễn đạt cho chúng ta thấy được sự thù diệu của kết quả niệm hơi thở mà thôi. Bây giờ chúng ta còn phải nhiệt tâm tinh cần để  thâm nhập vào thập lục tuệ quyền môn để bước vào giải thoát thánh đạo môn.

Với sự nổ lực quyết chí để thành đạt cứu cánh cuối cùng, chúng ta dồn hết tâm trí cắm sâu vào hơi thở vào, ra đưa tâm hướng đến một trạng thái cận định vững vàng, rồi từ đó chúng ta khai thác toàn bộ trí tuệ có được soi thấu một cách cẩn thận tỉ mỉ cái ngũ uẩn  thủ (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mà từ xưa đến nay mình vẫn xem nó là tự ngã của chính mình, và khi quán chiếu như vậy chúng ta sẽ khám phá ra :

7.  Nhất tuệ quyền môn:

Cánh cửa đầu tiên đã mở chính do sự soi thấu của trí tuệ khám phá ra rằng cái mà từ xưa chúng ta cho đó là ta, là tự ngã của ta hay linh hồn gì đó đó chỉ là sự kết hợp của hai tập hợp danh và sắc. Danh bao gồm hai thành phần tâm và tâm sở kết hợp nhau trôi chảy liên tục không hề gián đoạn và sanh khởi rồi diệt mất do sự tiếp xúc giữa sáu căn, sáu cảnh tác động làm duyên. Còn sắc thì bao gồm những yếu tố năng lực cấu thành và những bản chất đặc thù biến dạng dưới mọi hình thức. Đây là cánh cửa đầu tiên còn được định danh tuệ biệt phân danh sắc (nàmarùpa-ricchedanàna), tức trí phân định rõ, biết rõ cái mà chúng ta từng xem là người, trời, thú... chỉ là tổng hợp của hai thành phần danh sắc (đây là trí tu biết được, không phải trí tư hay trí văn). Không bước qua được cửa nầy thì coi như chưa có gì cả, cố gắng thêm lên và cũng đừng vội mơ tưởng đến những gì xa xôi nhé. bây giờ mời quý vị bước vào cửa thứ hai.

      2.   Nhị tuệ quyền môn:

Sau khi chúng ta bước qua được nhất tuệ quyền môn, đã thấy được thật tướng của chính mình, không còn dính mắc về những quan kiến sai lầm, vượt thoát lên những tạp niệm về cái gì đó mà chúng ta cho là bản ngã hay một linh hồn với một thân xác đồng nhất thể, bất biến thường trụ, vĩnh hằng, giờ đây chúng ta bước vào cánh cửa thần kỳ thứ hai để tìm cho ra được do nhân gì duyên gì cái thân ngũ uẩn nầy xuất hiện?

Một tia sáng cuối đường hầm phát loé lên cho chúng ta thấy được rằng : mọi thứ trên đời nầy từ vật chất đến tâm linh đều là do sự cấu hợp mà thành, thuộc hữu vi pháp, chúng có được là do nhiều duyên hợp tạo, vạn pháp do duyên sanh. Với cặp mắt trí tuệ cho thấy có được kiếp sống nầy là do bốn nhân thuộc quá khứ: vô minh, ái, thủ và nghiệp quá khứ cùng với nhân hiện tại là vật thực (tứ thực) của đời sống hiện tại nầy tạo thành. do nghiệp quá khứ kết tạo duyên cho đời sống hiện tại, cùng thế ấy, do nghiệp hiện tại sẽ trợ tạo cho đời sống tương lai (www.artandclassicalguitar.com mục budhist,d.origination). Cánh cửa đệ nhị tuệ quyền môn nầy còn được gọi là : tuệ duyên đạt (paccayapariggahanàna) tức  trí tuệ biết rõ duyên khởi của danh sắc và chính do sự hiểu biết nầy trí tuệ của chúng ta vượt lên trên mọi sự hoài nghi tam thế (quá khứ, hiện taị, vi. lai).

Tiếp đến là cánh cửa thần kỳ thứ ba :

      3.  Tam tuệ  quyền môn:

Với đà tiến triển và phát huy một cách mạnh mẽ của trí tuệ càng lúc càng sâu sắc và nhạy bén hơn, tam tướng ‘vô thường, khổ, vô ngã’  hiển lộ một cách rõ ràng, Cho nên dù trong bất kỳ nơi đâu, bất kỳ cảnh giới nào, tất cả đều trôi chảy không ngừng, Tất cả đều đau khổ, không có một cái gì là hạnh phúc thật sự và cái gì thay đổi không bền vững thì cái đó là đau khổ và cái gì thay đổi lẩn đau khổ thì không thể nói rằng có một linh hồn trường cửu bất biến, một tự ngã thường hằng bất dịch. Đó là cánh cửa thần kỳ thứ ba đã được mở dưới danh hiệu phổ thông tuệ (samma-sananàna) phá tan sự ngu muội của hầu  hết phàm phu tục tử hay lầm tưởng là có  một cái gì đó vô hình vô tướng trường cửu bất biến bên trong mỗi một con người là có thật .

 

       4.  Tứ tuệ quyền môn :

Cánh cửa thần kỳ thứ ba đã đem lại cho chúng ta một niềm hoan hỉ qua sự nhận thức được thật tướng của các pháp và từ tại điểm nầy với lòng nhiệt huyết chuyên tâm tu tập không ngừng nghỉ..., Một ngày đẹp trời bỗng nhiên toàn thân phát tủa ra ánh sáng (obhàsa), lòng hân hoan thỏa thích sung sướng hòa quyện trong niềm hạnh phúc vắng lặng chưa từng có, lòng càng tinh tấn thêm lên, phát triển tâm niệm càng lúc càng sâu sắc hơn, tuệ quyền càng bén nhạy như gươm thần, hào quang càng toả sáng, thế là phát sanh tư tưởng thỏa thích trạng thái nầy, dính mắc trong đó; Ở đây, nếu không có các bậc thiện trí nhắc nhở hoặc thiếu trình độ học thức về Phật học thì chúng ta có thể lầm tưởng rằng mình đã đắc quả thánh vì thấy mình có hào quang như bậc thánh mà người đời đã truyền tụng rồi cuốn chiếu về nhà tuyên bố kết quả mà mình có được. May mắn nếu có sự nhắc nhở của các bậc thiền sư nên mới nhận thức ra được rằng đây chỉ là  một trở ngại cho bước đường tu tập cản trở việc phát triển tuệ giác của chính mình, và từ đây, không dừng bước cố gắng trau giồi phát triển cho được trong sạch tiến bộ thêm lên. Đây là cánh cửa thần kỳ thứ tư được định danh là đạo phi đạo tri kiến tịnh . (maggàmagga nàna dassa visudhi).

      5.  Ngũ tuệ quyền môn :

Sau khi mục kích quán sát nhận chân ra được đâu là con đường chân chánh đâu là phi chân, với mức độ tiến hoá dang trên đà, chúng ta quyết chí dồn hết tâm trí gom tâm quán chiếu vào trạng thái của các pháp, một ánh sáng thù diệu khác phát sanh soi rọi cho chúng ta thấy được với trí tuệ thực chứng rằng các pháp hưũ vi phát sanh lên và hoại diệt một cách rõ rệt . Một cánh cửa thần kỳ thứ năm đã mở có danh hiệu tuệ sanh diệt (udayabbayanàna).

      6.   Lục tuệ quyền môn

Quán chiếu sự sanh diệt trong khoảng thời gian, chúng ta lại một lần nữa thấy được điều kỳ diệu hơn chính là sự hoại diệt được hiển bày một cách mạnh mẽ, rõ và trưởng hơn sự sanh,. Từ đó tuệ quán nhận chân ra được sự biến mất, sự tàn lụi một cách rõ ràng hơn hiển nhiên hơn là sự phát sanh. Đây được gọi là tuệ diệt (bhanganàna).

      7.  Thất tuệ quyền môn

Sau khi bước qua trạng thái hoại diệt của các pháp hưũ vi, chúng ta thấy được tất cả những gì thuộc danh sắc đều tan biến, điêu tàn, đổ vỡ tạm bợ, từ đó phát sanh lòng kinh cảm trước mối hiểm họa đáng khiếp đảm của các pháp thế gian nầy. Tại đây cánh cửa nầy được goị là tuệ  hiểm nguy (àdìnavanàna).

      8.  Bát tuệ quyền môn

Bước qua được cánh cửa đầy nguy hiểm, từ đó phát sanh một cảm  giác nhàm chán không còn tha thiết gì với các pháp hưũ vi nầy nữa, Tất cả đều là giả dối, tạm bợ..; và khi tuệ quán nầy phát sanh thì khi đó có được một trạng thái được gọi là yếm  ly tuệ, hay chán nản tuệ (nibbidànàna)

      9.  Cửu tuệ quyền môn

Một khi đã sanh tâm nhàm chán bất kỳ điều gì thì từ đó chúng ta mong muốn được tẩu thoát ra khỏi nó; Với lòng mong muốn như vậy, quyết tâm nỗ lực vượt ra các pháp và tuệ giải thoát phát sanh đến vói chúng ta như ý nguyện. Cánh cửa thần kỳ thứ chín đã mở với danh hiệu dục thoát tuệ (muncitukamyatànàna).

     10.  Thập tuệ quyền môn

Với sự quyết ly mong thoát ra khỏi các pháp hưũ vi, lần nầy chúng ta quay trở lại quán sát một cách tận tường tỷ mỷ qua tam tướng vô thường, khổ, vô ngã , và khi đã quan sát như vậy một lần nữa chúng ta bước qua ngưỡng cửa thứ mười được định danh là quyết ly tuệ, hay suy tư tuệ (patisankhànàna).

     11.  Thập nhất tuệ quyền môn

Sau khi quán xét tỉ mỉ về tam tướng, chúng ta biết rõ thực tính của pháp hữu vi không vượt ngoài tam tướng, do vậy tâm trạng trở nên lắng dịu bình thản và ung dung bước qua ngưỡng cửa thứ mười một nầy, Cho nên cánh cửa thần kỳ nầy được goị là hành xả tuệ (sankhàrupekkhànàna).

     12.  Thập nhị tuệ  quyền môn

      Khi trí tuệ khởi lên ở giai đoạn nầy sẽ bắt đầu hướng thẳng tiến đến niết bàn, lấy niết bàn làm đối tượng, trong thời điểm nầy cánh cửa thần kỳ thứ mười hai được gọi là thuận thứ tuệ (anulomanàna).

     13.  Thập tam tuệ quyền môn

Đến đây là cánh cửa cực kỳ quan trọng vì là giao điểm  giữa phàm và thánh tánh, cho nên được định danh là tuệ chuyển tộc nhưng tuệ nầy vẫn còn thuộc lãnh vực phàm và đang chuẩn bị chuyển sang một gia tộc khác (gotrabhùnàna).

     14.  Thập tứ tuệ quyền môn

Trình độ tuệ giác phát sanh đến mức độ cận kề như thế nầy rồi, từ đây chúng ta chỉ còn chọn một trong ba đặc tướng ‘vô-thường- khổ- vô ngã’ và tùy theo mỗi một người, ai hợp với tướng nào thì tập trung nắm lấy đề mục đó hạ thủ công phu khai triển tuệ giác liên tục không ngừng nghỉ vì để bước qua được cánh cửa nầy là cả một vấn đề nan  giải cho nên phải tận lực dồn tất cả trí tuệ vào để phá vỡ và làm nổ tung cánh cửa thần kì nầy. Một ngày đẹp trời nào đó với năng lực gươm báu  trí tuệ  sẽ phá vỡ cánh cửa thần kỳ hoặc xé tan bức màn vô minh mà đã bao nhiêu đời kiếp bao phủ trí tuệ chúng ta,và từ đó, ánh sáng bình minh đã ló dạng, ngày vinh quang đã đến, mục tiêu mà chúng ta muốn đạt được đã đến chính là đạo quả niết bàn, một trạng thái hạnh phúc siêu thế vô sanh bất diệt, một hạnh phúc tuyệt đối chưa từng có đối với các hạng phàm phu và từ đây chúng ta đã trở thành một thánh nhân, đã chuyển sang giòng tộc thánh không còn hệ lụy với phàm phu tánh nữa, cánh cửa nầy được vinh danh là Tuệ đạo giải thoát môn (magganàna). Ôi, hạnh phúc thay!

 

     15.  Thập ngũ tuệ quyền môn

Một khi trí  đạo đã phát sanh với công năng sát trừ phiền não thì liền sau đó trí quả cũng phát sanh theo để duyệt xét và hưởng thụ trạng thái niết bàn,vô sanh bất diệt, hạnh phúc tuyệt vời và tại đây được vinh danh là tuệ quả giải thoát môn (phalanàna).

     16.  Thập lục tuệ quyền môn

Sau khi đã chứng đắc đạo quả thánh nhân, thời điểm cuối cùng nầy chỉ là quay trở lại dùng tuệ quán xét các phiền não đã diệt, xét nghiệm các đạo quả đã thành tựu và chiêm nghiệm lại niết bàn  mà chính mình đã chứng ngộ. Tại đây được vinh danh là phản kháng tuệ (paccavekkhananàna).

Như vậy toàn bộ 16 cánh cửa thần kỳ cũng như những điều bí ẩn của hơi thở đã được trình bày hầu mong đem đến cho quý vị độc gỉả những điều lợi ich và chắc chắn không sao tránh khỏi những thiếu sót kính mong quý cao nhân hoan hỉ cho.

 

__()__

 

 


Hồi hướng

Do phước quý báu nầy, chúng con xin  hồi hướng đến tất cả các vị đại phạm thiên, phạm thiên, chư thiên các cõi trời  dục giới cùng các vị chư thiên trong vòng quả địa cầu nầy, diêm vương..cầu mong các vị hoan hỷ thọ lảnh phước báu nầy và hộ trì cho con và toàn thể gia đình luôn được an vui hạnh phúc, gặp nhiều thuận may trong đời sống, tất cả tật bệnh thảy đều tiêu tan.

Cùng với phước báu nầy nguyện xin hồi hướng đến các bậc thầy tổ cùng tất cả chư tôn thiền đức Tăng Ni trên toàn thể quả địa cầu nầy, cầu  mong các ngài được thọ lảnh phước báu nầy cho được thân tâm an lạc, thành tựu mọi điều như ỷ nguyện.

Với pháp thí cao thượng, xin hồi hướng đến thân bằng quyến thuộc đã quá  vãng cũng như còn tại tiền, các bậc ân nhân và nhất là Cha hiện đang trọng bệnh, cầu mong do quả phước nầy sẽ giải trừ tất cả tật bệnh mọi sự thống khổ thảy đều tiêu tan đến với cha.

Lời nguyện

Ước mong tôi cùng toàn thể gia đình luôn được an vui hạnh phúc an lạc mọi phương diện, mọi trú xứ và luôn có đầy đủ trí tuệ sớm thành tựu cứu cánh giải thoát, chứng ngộ nibbàna.

 Hoàng Đặng - King milanda 

Wednesday, May 6 , 2010 , Indianapolis, IN                       email:saccayamaka@yahoo.com                                           

·         Nguồn tin: King milanda