Chứng Đạo Ca Trực Chỉ Đề Cương
Nguyên tác: Huyền Giác Thiền Sư
Biên dịch: Từ Thông Thiền Sư
Sài Gòn 1998 – 2543
THI CA 27 - CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO CẢNH
Phiên âm:
Hoát đạt không bát nhân quả
Mảng mảng đãng đãng chiêu ương họa
Khí hữu trước vô bệnh diệc nhiên
Hoàn như tịch nhi đầu hỏa
Dịch nghĩa:
* Kẻ thiển trí, chủ trương: RỖNG TUẾCH
Cõi đời KHÔNG, NHÂN, QUẢ cũng KHÔNG
Khù khờ thay! Một hiểu biết đáng thương!
Rước tai họa cho bản thân mà không hay biết
* Kẻ chấp CÓ bị khổ đau vì CÓ
Người chấp KHÔNG sẽ đau khổ bởi KHÔNG
Tránh lửa thiêu, đâm đầu chạy nhảy sông
Khỏi chết nóng, chết lạnh cũng là một cách chết!
---o0o---
TRỰC CHỈ
Chữ CHẤP ở trong đạo Phật có ý nghĩa rất quan trọng. Chấp đồng nghĩa
như chữ "cho là". Sự vật tôi "cho là" CÓ hoặc tôi "cho" sự vật "là" KHÔNG.
Cho là CÓ: CHẤP CÓ. Cho là KHÔNG: CHẤP KHÔNG. Cho là KHÔNG
NHÂN QUẢ: CHẤP KHÔNG NHÂN, KHÔNG QUẢ.
CHẤP thế gian là có, chấp thế gian là không, đồng nghĩa với "chấp
thường", "chấp đoạn", không hợp với chánh pháp.
Cho vạn pháp thực có, con người sẽ bị sa lầy, vì đam mê vạn pháp. Vì
vạn pháp mà tạo nghiệp mà chiêu báo. Cho vạn pháp là không, con người
mất hết lý tưởng để sống. Và nếu sống cũng dễ mất hết lương tâm, lương tri,
không biết vấn đề thiện ác là gì. Cho rằng không có nhân quả, cũng là hạng
người rất đáng sợ, vì người ta không quan tâm, không lượng định việc làm
và hậu quả của việc làm, nếu việc làm đó là "bất thiện nghiệp".
Không CHẤP CÓ, vì chán ý niệm có, vì ý niệm CHẤP CÓ gây ra nhiều
nguyên nhân đau khổ. Bấy giờ xoay lại nảy sanh ý niệm CHẤP KHÔNG.
CHẤP KHÔNG vẫn là một ý niệm chấp sai lầm chân lý. Dính líu vào ý
niệm chấp có đã không đem lại an lạc hạnh phúc được. Dính líu vào ý niệm
chấp không, làm sao có được sự an vui. Vả lại ở trên cõi đời làm sao phủ
định vạn pháp, làm sao trốn chạy vạn pháp, khiến cho vạn pháp trở thành
KHÔNG, cho được?
Mà người học đạo phải hướng về "Thật tướng", phải chứng cho được
"Thật tướng" thì mới khỏi vướng hai bên.
---o0o---
THI CA 28 - CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VẤN
ĐỀ XẢ BỎ VÀ TÌM LẤY
Phiên âm:
Xả vọng tâm, thủ chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy
Học nhân bất liễu dụng tu hành
Chân thành nhận tặc tương vi tử
Dịch nghĩa:
Bỏ tâm vọng. Vọng tìm không có
Chân lý tìm? Chân lý biết ở đâu?
Sai lầm ngay trong ý niệm BỎ, TÌM
Lơi cảnh giác, tưởng con mà là giặc!
---o0o---
TRỰC CHỈ
Hễ có ý niệm LẤY, BỎ thì cũng có các ý niệm tốt, xấu, thương, ghét,
thân, sơ, sang, hèn, phải, quấy, ta, người… Đó là những ý niệm phát xuất từ
vô minh vọng động, khiến cho CHÂN TÂM thanh tịnh vốn có của con
người bị ẨN mất. Ví như sóng mòi, bọt bèo của nước biển không thể hiện
được tánh phẳng lặng như tờ của biển.
Theo giáo lý Bát Nhã Ba La Mật, pháp sai lầm trái chân lý trừ bỏ đã đành
mà pháp gọi là chánh là đúng, cũng phải bỏ nốt.
Một bàn tay cầm nắm phải bùn đất, cần buông bỏ đã đành, bàn tay cầm
nắm kim cương, vàng ròng thì bàn tay đó cũng bị "nắm cứng" vì mớ vàng
ròng và kim cương ấy. Bàn tay sẽ không dùng được vào một việc gì khác,
trong khi công dụng của bàn tay có thể phát huy diệu dụng, lợi ích vô cùng.
Sai lầm của THỦ, XẢ nó không đóng khung trong "thủ xả" mà nó liên
can lôi cuốn theo nhiều thứ khác. Vì vậy, tác giả nói:
"Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy…"
---o0o---
THI CA 29 - CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO CHẾ
TÂM NHỨT XỨ…
Phiên âm:
Tổn Pháp tài, diệt công đức
Mạc bất do tư tâm ý thức
Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm
Đốn nhập vô sinh tri kiến lực
Dịch nghĩa:
Công đức giảm, pháp tài sa sút mãi
Thảy đều do: Tâm, Ý, Thức mà ra
Thế cho nên, Thiền Đạo đối với Tâm
Cần Trực Diện, un đúc sức Vô Sinh Tri Kiến
---o0o---
TRỰC CHỈ
TÂM tức là đệ bát thức, cũng gọi "A lại da", là "Di thục" hay "Nhất thiết
chủng thức". Nó là tổng thể, hàm chứa hết mọi thứ: cả SẮC cả TÂM. Tên là
ĐỆ BÁT THỨC TÂM VƯƠNG, nhưng nó còn có cái tên "Tàng". Vì vậy,
nó không phải chỉ có phần "tâm" mà nó hàm tàng cả "sắc".
Ý: ở đây chỉ cái công dụng chấp ngã tức là "đệ thất thức". Ý làm "tổn
pháp tài", "diệt công đức" thuộc hành đầu.
THỨC ở đây chỉ cho "tiền lục thức", công dụng tiếp thu, xuất nhập "lục
cảnh": sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Người đạo sĩ, chừng nào chưa chuyển thức thành trí, chưa làm chủ được
bát thức tâm vương, chưa tăng tiến bồi dưỡng sức TRI KIẾN VÔ SINH thì
hãy còn bị sự phân biệt, sự chấp nê, sự thị phi nhơn ngã tác động hoành
thành. Do vậy mà "tổn pháp tài" và "công đức" suy mòn dần mất hết. Và
cũng do vậy. Thiền gia rất xem trọng cái TÂM. Thiền gia chủ trương đối với
TÂM phải trực diện với nó, phải nhìn thẳng vào mặt nó mà nhất cử nhất
động của nó Thiền giả phải thấy hết, biết hết. Biết rõ từng nguyên nhân của
ý nghĩ, biểu hiện lời nói và hành động: Đã khởi, đang khởi và sẽ khởi. Biết
rõ cả hậu quả của nguyên nhân, dù còn trong ý niệm. Con người của mình,
mình phải biết mình là ai. TÂM mình, mình phải "trực diện" với nó mọi nơi
mọi lúc.
Thiền gia gọi đó là cách tu:
"Trực chỉ nhân tâm"
và "Kiến tánh thành Phật"
---o0o---
THI CA 30 - CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO BÁT
NHÃ PHONG HỀ…
Phiên âm:
Đại trượng phu, bỉnh tuệ kiếm
Bát nhã phong hề kim cang diệm
Phi đản năng thôi ngoại đạo tâm
Tảo tằng lạc khước thiên ma đảm
Dịch nghĩa:
Chuôi kiếm tuệ, đại trượng phu nắm lấy
Bát nhã gươm, lóe sáng ánh kim cang
Không những xưa, sàm sở của "đạo ngoài"
Làm vỡ mật, bọn thiên ma nhếu nháo
---o0o---
TRỰC CHỈ
Tôn chỉ của đạo Phật, có TUỆ là có tất cả. Quả VÔ THƯỢNG BỔ ĐỀ là
đỉnh cao tột của TUỆ. Quả VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN là diệu dụng của
TUỆ. Trong tam vô lậu học, GIỚI, ĐỊNH là hạt, là cây, là cành, là lá mà
TUỆ là hoa, là trái. Tu GIỚI, tu ĐỊNH cốt để có được TUỆ. Hiểu được chân
lý đó, người đệ tử Phật chân chính có học Phật, tu hành không sợ lầm lạc.
Tu GIỚI, ĐỊNH phát sanh TUỆ GIÁC là tu đúng chánh pháp. Gọi là GIỮ
GIỚI, gọi là TỌA THIỀN tốn công, khổ luyện, dù phải trải qua mấy mươi
năm, mà không sanh TRÍ TUỆ, không có khả năng nhận thức chân lý, tư duy
về chân lý, đó là tu sai lầm. Nhọc mệt thân tâm không đem lợi ích luống
uổng một đời.
Nói một cách khẳng định rằng, tu hành mà không phát sanh TUỆ GIÁC
thì không nên theo pháp đó nữa, vì đã sai lạc pháp tu, trồng phải một thứ cây
không có hoa trái thì nên chặt bỏ nó đi.
"Đại trượng phu" là người phải nắm cho được cái chuôi "kiếm tuệ". Phải
có khả năng sử dụng "gươm" BÁT NHÃ KIM CANG để "tồi tà phụ chánh",
để đối phó ngoại đạo, thiên ma, phải làm cho chúng vỡ mật bay hồn, khiến
cho chúng "chích luân bất phản", tấn công chúng "phiến giáp bất hoàn". Để
"sử tri Phật giáo ta bà chi hữu chủ"!
Dưới mắt của người chứng đạo, người đệ tử Phật phải bồi dưỡng trí tuệ.
Đó là ý nghĩa: DUY TUỆ THỊ NGHIỆP
---o0o---