Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Mộng Du Tập: Trích Quyển Mười


~Trích Quyển Mười~
Dạy Thiền – Nhân Liễu Tế
       Tôi trung hưng Tào Khê, trùng tu Thiền đường Bảo Lâm để tiếp nạp-tử từ bốn phương đến. Thời Lượng thiền nhân phát nguyện đi xin vật thực để cúng đại chúng. Ngay lúc bắt đầu kiết chế, thiền nhân niêm hương thỉnh ích. Tôi nhân đó dạy:
       Diệu Hạnh lợi sanh của chư Phật nguyên chẳng phải một loại. Diệu môn thành Phật của Bồ Tát cũng vốn không phải một đường. Xưa, Đại Sĩ Duy Ma dùng một bát cơm mà làm Phật sự, có khoảng ba vạn hai ngàn chúng độ thức ăn này đều vào luật hạnh. Hãy nói đến nay, chén bát vẫn như cũ, cơm thơm như xưa mà người ăn cơm, luật hạnh ở đâu? Người mang cơm thần thông chỗ nào? Nếu ở đây thấu được chính là chỗ nói “ư thực đẳng giả, ư pháp diệc đẳng” (đối với thức ăn bình đẳng, đối với pháp cũng bình đẳng). Nếu thấu chẳng được, lại phải tham phỏng tri thức, quyết trạch nghi tình, thẳng đến chỗ chẳng nghi, mới cùng bổn địa có chút phần tương ưng. Nếu chưa được thế thì chưa khỏi theo đuổi sóng mòi. Do đó, tăng tham vấn Triệu Châu nói: “Học nhân mới vào tòng lâm xin sư chỉ dạy”.
       Triệu Châu hỏi: “Ăn cháo chưa?”
       Tăng thưa: “Ăn rồi!”
       Triệu Châu nói: “Rửa chén bát đi!”
       Tăng ấy có tỉnh. Thiền nhân nếu ở chỗ nói của Triệu Châu, chỗ tỉnh của tăng mà hội được liền cùng các thượng thiện nhân trong phương trượng của Duy Ma nắm tay cùng đi.

Dạy Đường Chủ Kính - Sơn
Thiền Nhân Huyễn - Hữu Hải
       Phật, Tổ một tâm; Giáo, Thiền một chí. Tông môn giáo ngoại biệt truyền chẳng phải lìa ngoài tâm riêng có một pháp có thể truyền. Chỉ là muốn người lìa hẳn ngôn ngữ văn tự, riêng ngộ ý chỉ ngoài lời vậy. Nay người tham thiền, động một chút liền quở trách kinh giáo, chẳng biết giáo hiển bày nhất tâm là gốc của thiền. Nhưng Phật thuyết nhất tâm là thuyết thấu hai đường mê ngộ, còn tông môn chỉ thẳng một tâm, chẳng thuộc mê ngộ, muốn người ngộ thấu, kỳ thực cứu cánh không hai. Trong Như Lai tạng, cầu việc đến, đi, mê, ngộ, sanh, tử trọn chẳng thể được. Đây há thuộc mê, ngộ sao? Nhị Tổ nói: “Tìm tâm trọn chẳng thể được”. Lục Tổ nói: “Bổn Lai vô nhứt vật” tức là Bát-nhã không có ngũ uẩn, căn, trần, thức, giới và pháp xuất thế tam thừa, vì không sở đắc nên Bồ Đề, cùng “tìm tâm trọn chẳng thể được”, há là hai pháp sao? Thì biết kinh nói nhất tâm chỗ nhiều là phàm tình thánh giải vậy. Tham thiền chóng phá vô minh là tuyệt tình phàm, ngộ cũng mửa bỏ là tuyệt thánh giải vậy. Đó là thiền quở tri giải, mà giáo cũng chưa từng không quở. Nay người tham thiền từ giáo hồi tâm, chẳng thể quên tri tuyệt giải, đề thoại đầu chẳng thể quên tình tuyệt tích, đều nằm trong chỗ bị quở, sao lại hủy giáo cho là chẳng đủ lưu tâm? Nay người bỏ giáo tham thiền, quả có thể trước tiên hiểu vốn không phàm thánh, chẳng thuộc mê ngộ, đó là kiến địa, y theo đây tham cứu. Đương nhân một niệm nếu còn một tơ hào tình kiến và tri giải huyền diệu đều là chưa thấu, đều là việc bên bờ sanh tử. Há có thể liền cho là đắc ư? Nay bậc tri thức mắt chưa sáng mà ấn chứng, nếu không dùng giáo ấn tâm, rốt cùng sẽ rơi vào tà ma ngoại đạo. Chỉ cần không nên đem ngôn ngữ văn tự của Phật thuyết và ngữ cú huyền diệu của Tổ sư cho là tri kiến của chính mình, thì chắc chắn sự tham cứu sẽ đến chỗ tương ưng. Như kinh nói: “Tất cả phiền não, ứng với niệm liền hóa thành tri giác vô thượng”. Như thế là hình thức đốn ngộ. Chẳng được đem tập khí phiền não, tri kiến tạp nhạp cho là diệu ngộ. Cũng chẳng phải có gì khác, chỉ là tiêu hết tập khí phiền não, lòi ra bộ mặt xưa nay. Nên nói: “Ngộ rồi lại đồng lúc chưa ngộ”. “Vẫn như cũ, chỉ là người thuở xưa. Chẳng đổi chỗ dẫm bước ngày cũ”. Há chẳng thấy Giáp Sơn lúc chưa gặp Thuyền Tử, thượng đường có tăng hỏi:
       - Thế nào là pháp thân?
       Sơn nói:
       - Pháp thân vô tướng.
       Lại hỏi:
       - Thế nào là pháp thân?
       - Pháp nhân không vết.
       Đạo Ngô ở tại tòa bất giác cười.
       Lúc đã gặp Thuyền Tử rồi, Đạo Ngô sai tăng đến hỏi:
       - Thế nào là pháp thân?
       Sơn vẫn đáp:
       - Pháp thân vô tướng.
       Lại hỏi:
       - Thế nào là pháp nhãn?
       Sơn vẫn đáp:
       - Pháp nhãn không vết.
       Tăng trở về kể lại Đạo Ngô, Ngô nói:
       - Gã này bây giờ mới triệt.
       Đây bèn là tọa chủ lanh lợi. Là hình thức bỏ giáo tham thiền. Đường chủ Hải từ lâu gần gũi giáo thừa, nay bỏ thói quen, riêng cầu một đường hướng thượng, hãy xem Giáp Sơn hai chuyển ngữ giống nhau, Đạo Ngô vì sao chịu sau mà chẳng chịu trước, thử xem chẳng chịu chỗ nào? Chịu chỗ nào? Ở đây nhận ra, chẳng kể Giáo ý, Tổ ý, nhất tề mửa hết. Ngày khác liền đem một đại tạng kinh, một miệng nuốt hết, chữ chữ hóa thành tạng quang minh Cát đằng chẳng ít. Trân trọng, trân trọng.

Pháp Ngữ
Dạy Thiền Nhân Bổn Hoài Ấn
       Xưa đức Phật ở trên hội Linh Sơn muốn đem kinh Diệu Pháp Hoa phó chúc lại cho đời sau thọ trì, lưu bố rộng rãi, chẳng kể Trời người, hàng trăm hàng vạn đều được thọ ký. Các vị đệ tử không có một ai dám ở cõi Ta-bà lưu truyền pháp này mà phải đợi chúng Bồ Tát ở dưới đất vọt lên gánh vác việc gìn giữ pháp này. Há là chuyện dễ dàng sao? Vì chúng sanh ở cõi ác ngũ trược phước mỏng tánh nết cang cường rất khó điều phục, cho nên đức Phật dạy người trì kinh lấy nhẫn nhục làm hạnh đệ nhất. Nên nói: “Như Lai diệt độ rồi, người muốn vì tứ chúng thuyết kinh này, phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai mới có thể rộng nói kinh này”.
       Nhà Như Lai tức là tâm đại từ bi trong tất cả chúng sanh, áo Như Lai là tâm nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như Lai là tất cả pháp không. An trụ ở đây rồi sau dùng tâm không lười biếng mới có thể vì chúng thuyết kinh Pháp Hoa này. Nên Phật tự thuật hạnh cầu pháp ngày xưa. Như Đề Bà Đạt Đa oán hại nhiều đời và Thường Bất Khinh lễ bái tứ chúng dù bị nhục mạ, hoặc bị dao gậy đánh đập, ngói đá liệng ném, đủ mọi việc khổ đều hoan hỷ chịu đựng, không một ý chán nản lui sụt. Đây chính là dạy pháp Bồ Tát, là hạnh tối thắng để trì kinh đời mạt pháp. Chúng ta là đệ tử Phật, nếu không hành nhẫn nhục thì lấy gì để gìn giữ huệ mạng Phật khiến cho không dứt mất? Rồi đến Bồ Tát nhận sự phó chúc trì kinh đã thề rằng: “Mọi việc khổ đều sẽ nhẫn được”, thế nên Phật thuyết: “Quán ba ngàn đại thiên thế giới không có một chỗ nào nhỏ bằng hột cải mà không phải là chỗ Bồ Tát vì cầu Bồ Đề mà bỏ thân mạng, cho đến đầu, mắt, tủy, não không hề lẫn tiếc”. Nên dạy người trì kinh trước hết hạnh nhẫn thương xót đời mạt pháp này. Nếu không có sức nhẫn lớn làm sao có thể hộ trì Phật pháp?
       Lão nhân mỗi mỗi lấy hạnh nhẫn khai thị thiền nhân. Thiền nhân nếu có thể dốc lòng tin Lão nhân, cũng có thể lấy sức nhẫn tự trì, thì nay chẳng những gìn giữ trọn vẹn đạo trường, cũng còn thành tựu hạnh của mình nữa. Cần yếu chẳng được dùng mắt tầm thường thế tục mà quán, ngoài điều này ra, lại cầu pháp sanh tử khác. Hơn nữa, kinh này đức Thế Tôn chúng ta vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện ở đời. Đại sự đó là tri kiến Phật sẵn có của chúng sanh. Tri kiến Phật là có thể thấy thực tướng của các pháp. Vì chúng sanh mê mất chân tri kiến, chỉ nhận ngũ uẩn huyễn vọng làm thân tâm mà chẳng thấy tướng chân thật. Nếu thấy thực tướng thì ba cõi trên dưới, trọn không một pháp. Lại còn sanh tử nào có thể gá nữa? Như thế há chỉ tham thiền mới có thể thoát sanh tử còn trì kinh không thể thoát sanh tử sao? Như Nam Nhạc, Thiên Thai, các đại tông sư đều ngộ thực tướng. Nếu các pháp lữ đọc tụng kinh này có một người như ngài Thiên Thai ngộ nhập Pháp Hoa Tam Muội, thì một hội Linh Sơn này nghiễm nhiên chưa tan. Như thế thì người hộ trì đầy đủ hằng sa công đức chẳng thể nghĩ lường. Phật vì pháp này đời đời kiếp kiếp xả bỏ thân mạng. Thiền nhân nếu có thể bỏ một đời này, thành ích lợi lớn cho pháp, thì đâu có còn mong cầu Phật pháp nào bên ngoài nữa? Nay dù chẳng thể thoát sanh tử cũng nương pháp này làm thuyền bè, nguyện lực gìn giữ trong biển sanh tử thì ắt cũng có lúc đến được bờ kia, vẫn hơn sống rỗng chết lãng như trước kia. Thiền nhân đã tin lời lão nhân từ đây phát khởi sức nhẫn lớn, sức tinh tấn lớn, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai để thành đại hạnh của Phổ Hiền. Cần yếu chẳng được khởi tâm sanh diệt, lập cái thấy nhân ngã mà sanh ý lui sụt.

Dạy Thiền Nhân
Bổn-Nguyên Giác
Ở Ngưỡng Sơn – Tân An
       Bổn Nguyên Giác trùng hưng lại đạo tràng Ngưỡng Sơn hơn 30 năm, huyễn bày các thứ trang nghiêm đều tự tâm lực, tụng hai kinh Viên Giác, Phạm Hạnh cũng hơn 20 năm, gìn giữ tịnh hạnh tinh nghiêm, đều từ trong Bát Nhã đã huân tập từ trước. Nay làm lễ Khuông Sơn (Hám Sơn) cầu thọ đại giới, đốt hương thỉnh giảng đại nghĩa Viên Giác. Lão nhân do đó dạy:
       Phật nói các pháp trong ba cõi chỉ do tâm tạo, nghĩa là Viên Giác lưu xuất tất cả thanh tịnh chơn như, bồ đề, Niết Bàn và Ba-la-mật dạy dỗ Bồ Tát. Vì thế là đệ tử Phật, nếu đạt được pháp môn duy tâm thì tất cả nhân quả nhiễm tịnh đều hiện tiền, niệm niệm chuyển biến. Nên nói: “tâm tịnh cõi Phật tịnh”. Ngay như nhân duyên ở Ngưỡng Sơn, ngày xưa đều là núi đá cheo leo cỏ cây rậm rạp. Nay một sớm huyễn thành đạo tràng này như từ Trời rơi xuống, đều từ một niệm tối sơ, lòng tin bền chắc nên làm được Phật sự to lớn như thế. Lấy đây mà quán thì Tịnh Độ Tây Phương há từ ngoài tâm mà được? Lão nhân nay vì thiền nhân, truyền bảo giới Phạm Võng kim cương. Giới này gọi là pháp môn tâm địa của Phật Tỳ Lô Giá Na. Kinh nói: “Nếu thọ giới Phật, tức vào địa vị Phật”, thì biết một niệm tin tâm là mở tri kiến Phật, tất cả cõi Phật ứng niệm hiện tiền. Nên Tịnh Độ của chư Phật đều từ tâm địa kim cương mà kiến lập.
       Thiền nhân nếu quả có thể liễu tri pháp môn này, từ đây tiến tới, tất cả mọi việc hằng ngày rõ ràng liễu tri đều từ tự tâm lưu xuất, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm chẳng mờ, niệm đến động, tĩnh, không hai, thức ngủ như một, thì hiện tiền bước bước đều đạp trên Tịnh Độ, kinh hành trên đất báu. Ngay thân tâm này đã ngồi trong thai hoa sen, đến lúc mạng chung vừa bỏ thân này là hoa nở thấy Phật, như từ mộng thức dậy. Đến đây mới biết sanh tử như mộng, Tịnh Độ như huyễn, trong một niệm ở mãi chẳng lui sụt. Ngoài đây ra, lại còn có pháp nào vượt khỏi sanh tử nữa? Thiền nhân tu phạm hạnh đã lâu, mà chưa được nghe thiện tri thúc phá cho giấc mộng vọng tưởng từ trước. Nếu rõ pháp pháp do tâm, đâu cần cầu Phật pháp nào khác! Hãy nỗ lực. Trân trọng.

Dạy Trần Thiện Nhân
       Quận Sở Miện là nước văn hiến, nhưng thiện tri thức mang pháp môn qua đây giáo hóa rất hiếm. Thiền nhân Quán Trí dừng lại ở đây, đóng cửa 1 năm, tạm thời giáo hóa chúng. Vừa may Thiện Nhân là đệ tử tín tâm quy y cũ từ xa đến tham vấn Khuông Sơn Lão Nhân, cầu khai thị để bạch lại đại chúng. Lão nhân nhân đó dạy rằng:
       Nam nữ tại gia có thể giữ gìn 5 giới là chẳng giết hại, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu ăn thịt. Lúc Phật còn ở đời, họ thường ở trong pháp hội được gọi là ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, đây gọi là cận sự nam, cận sự nữ vì kham thân cận phụng sự Tam Bảo vậy. Tu tập tinh trì ngũ giới thì khỏi đọa 3 đường khổ, đó là phước của Trời, người. Nên nói: “Năm giới chẳng giữ thì đường Trời người dứt”. Nếu trì ngũ giới, quan trọng thứ nhất là tin rõ nhân quả, thiện ác báo ứng, như bóng theo hình, nghĩa là làm nhân lành được quả phước, nhất định sanh trong Trời, người. Nếu tạo nhân ác thì quả xấu, ắt đọa 3 đường khổ. Lại xem quan cao chức trọng ở đời, phú quý vinh hoa, hạng này chắc là do đời trước tu phước, cúng dường Tam Bảo, trai tăng, bố thí, in kinh, tạo tượng, sửa chùa, dựng tháp cứu giúp kẻ nghèo khổ nên chiêu cảm. Còn người sống lâu đông con, cha hiền con hiếu chồng xướng vợ theo, anh thương em kính, nhất định do không sát sanh mà phóng sanh, giữ trai giới mà được. Người ở tại nhà mà có thể giữ ngũ giới này tức đủ ngũ thường, nghĩa là bất sát là nhân, bất đạo là nghĩa, bất tà dâm là lễ, bất vọng ngữ là tín, bất ẩm tửu là trí. Nhà nho nếu được thế, là bậc quân tử thành tựu mỹ đức. Trì trai há là việc ngoài bổn phận ư? Trong đó có bậc thượng trí cao minh đã giữ giới này, lại nghĩ cuộc đời vô thường như đèn trước gió, sợ sanh tử, một lần mất thân này, muôn kiếp khó được. Như thế suy nghĩ nhớ khổ sanh tử mong cầu xa lìa, tâm đã tha thiết nên phát tâm trì niệm Phật A-Di-Đà, đem một câu Phật này để nằm lòng, tâm tâm chẳng dứt, niệm niệm chẳng quên, sớm tối lễ Phật tụng kinh, hồi hướng Tây Phương, cầu sanh Tịnh Độ. Nếu niệm Phật đến một niệm thuần thục, nhất tâm chẳng loạn, lúc sắp mạng chung thấy Phật A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn, đầu thai trong hoa sen, hoa sen là cha mẹ, đến lúc nở hoa thấy Phật, từ đây trọn ra khỏi khổ sanh tử luân hồi, thoát ngoài 3 cõi, gọi là Bồ Tát. Công phu niệm Phật này, xưa nay nam nữ tại gia hành trì, một đời làm xong, người sanh Tây Phương chẳng ít. Nên nói: “Chỉ có đường tắt tu hành là niệm Phật A-Di-Đà, ngoài đây cầu gì khác đều là tà kiến, tà hạnh. Thiền nhân trì như thế là chuyển hóa đồng loại, một người, một nhà, cho đến một làng, một quận thông suốt đều là nước Phật vậy. Nếu nguyện nỗ lực tu hành, chỉ cần lòng tin chân thiết, một lòng vâng làm, chẳng cần cầu Phật pháp huyền diệu nào khác.

Dạy Thanh Liên Sinh
       Lão Tử nói: “Ta có hoạn lớn vì ta có thân. Nếu ta không thân đâu có hoạn gì!”. Kinh Viên Giác nói: “Nay thân này của ta, do 4 đại hợp thành, nên quán trong thân: chất cứng ngại thuộc đất, ẩm ướt thuộc nước, hơi nóng thuộc lửa, động chuyển thuộc gió. Lúc tứ đại phân lìa, thân hư vọng này sẽ ở đâu? Như thế quán kỹ, tâm này lâu dần thuần thục, tướng của thân bỗng chợt thành không. Các thứ phiền não đều từ vọng tưởng điên đảo mà sanh, như mộng điên đảo xưa nay chẳng có. Nên lúc phiền não quán ngay tâm vọng tưởng này từ chỗ nào mà sanh? Truy mãi đến chỗ vốn vô sanh, thì vọng tưởng chẳng sanh. Vọng tưởng chẳng sanh thì phiền não không, thân tâm liền không, thì tất cả phiền não ngay đó tiêu diệt. Ứng niệm liền vào nước Cực Lạc mát mẻ. Quán cho miên mật chính là thuốc hay để thoát khổ. Nhưng sơ tâm chưa phải dễ thành. Chỉ đem “Phật A-Di-Đà” xét làm thoại đầu chân thật, tha thiết chẳng quên. Nếu lúc vọng tưởng khởi, liền đề khởi thoại đầu thì vọng tưởng tự diệt. Vì bình thường không có chánh niệm, chuyên chạy theo vọng tưởng lưu chuyển, phan duyên chẳng dừng làm thêm khổ. Tất cả các pháp đều từ tâm sanh, ngoài tâm không pháp. Nếu không quán tâm mà cầu đường thoát khổ cũng giống như bỏ nước đi mà cầu tiến tới trước. Chỉ cần phát tâm dũng mãnh, không được nói là “không thể làm được”, nói thế là tự gây họa.

Dạy Ngô Khải Cao
       Khải Cao quy y Tam Bảo đã lâu, giữ tâm trai cả năm, nay đến Khuông Sơn cầu thọ giới pháp, làm đệ tử của pháp môn để kết duyên xuất thế đời sau. Nhân đó tôi đặt tên là Phước Thường, hiệu là Định Tâm Cư Sĩ, và truyền cho giới ưu-bà-tắc; ông lại đốt hương thỉnh ích. Lão nhân nhân đó dạy rằng:
       Tất cả thế gian, đủ mọi nghề nghiệp đều là vô thường, đều là nhân khổ, nên cảm sanh quốc độ ta bà. Chúng sanh tụ họp gọi là kham nhẫn. Người ngu mê cho khổ là vui, càng thêm tham ái, lại tăng gốc khổ. Chẳng biết cái cốt yếu ra khỏi khổ là vì điên đảo. Nên người ở đời nếu có một niệm biết là vô thường, khổ, không, phát tâm cầu xa lìa tức là người đại trí tuệ. Nếu có một niệm phản tỉnh, phát khởi tâm ghét khổ liền là đường thoát khổ. Nếu có một niệm mong cầu sanh Tịnh Độ tức là gốc thành Phật. Do đó Phật nói giới pháp dạy người dừng ác tu thiện; vì ác dừng thì tâm tịnh, tu thiện thì khổ diệt, khổ diệt thì phước tăng. Tâm tịnh là nhân của Tịnh Độ, khổ diệt là gốc của Cực Lạc, phước tăng là quả của thường lạc. Như vậy biết một niệm phát khởi tâm thọ giới là có thể đoạn các khổ; có thể nhóm các phước, có thể ra khỏi sanh tử, có thể sanh Tịnh Độ, tất cả đều từ một niệm phát tâm tối sơ làm nhân địa. Cư sĩ hôm nay đã có thể biết việc này, phát tâm này, nên hễ làm việc gì tức là hạnh xuất thế; tuy chưa xuất thế đã gọi là Phật tử. Từ nay nếu quả đem tâm trì giới niệm Phật, trừ sạch những cấu nhiễm xưa ở trong tâm: tham, sân, si, ái, các thứ phiền não thì tâm địa thanh tịnh. Đem tâm tịnh này niệm Phật, niệm niệm chẳng quên, niệm niệm chẳng dứt tức nhật dụng hiện tiền, sự sự đều là nhân Tịnh Độ. Nghĩa là bố thí các thứ tứ sự cúng dường Tam Bảo đều là vốn liếng trang nghiêm tịnh độ. Chỗ nói “tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”, duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà” nguyên chẳng lìa một niệm của đương nhân. Đó là pháp hạnh chơn thật. Nghĩa là “phước chân thường từ trong tâm tịnh” vậy.
       Cư sĩ quả có thể tin chắc không nghi đâu cần cầu Phật pháp khác. Chỉ chẳng được làm việc thế gian tầm thường. Xem đó thì đạo niệm tự bền chắc, tín tâm ngày càng tăng trưởng. Trân trọng, trân trọng.

Dạy Thiền Nhân Vô Tri Giám
       Người xuất gia, trước phải cần thiết xuất gia cắt ái từ thân, vốn vì cầu ra khỏi sanh tử. Nếu vì việc lớn sanh tử, cần biết tất cả các pháp thế gian đều là gốc khổ, thân là nơi chứa nhóm sự khổ. Cần phải phát tâm tu hành, cầu đạo thoát khổ. Trước phải thấy cho ra tâm cảnh giới hiện tại, hãy quán thân này là đất nước gió lửa, tứ đại giả hợp thành hình. Tứ đại rời ra thì thân hư vọng này sẽ ở đâu? Nhìn cho ra như thế thì chẳng vì thân này mưu cầu các thứ vui thích thụ hưởng, kế đến phải nhìn ra hiện tiền, sự thấy nghe hiểu biết toàn do vọng tưởng, đều chẳng phải chơn tâm. Vị vọng tâm này tạo các thứ nghiệp, không gì chẳng phải tội. Tức một niệm này liền là gốc khổ sanh tử, cần phải không theo vọng tưởng lưu chuyển. Hằng ngày thầm thầm quán sát chỗ vọng tưởng khởi, cốt phải xem cho thấu ngay đó tiêu diệt, không được tiếp tục theo nó, phan duyên đi mãi mà chẳng trở về. Nếu quán sát chẳng định, lúc không có lỗ mũi, chỉ đem một câu A-Di-Đà làm thoại đầu, khẩn khẩn ôm chắc, niệm niệm chẳng quên. Có thoại đầu này làm chủ. Nếu thấy chỗ vọng tưởng khởi thì đề khởi Phật lên. Đó là chánh niệm hiện tiền thì vọng niệm chẳng đợi đuổi mà tự tiêu. Như thế trong 12 thời thầm thầm dụng tâm. Chỉ một niệm này làm chủ, kỳ dư tất cả vọng tưởng đều là khách. Khách chủ nếu phân, lâu dần thuần thục thì vọng tưởng tự tiêu, chân tâm tự hiện.
       Thiền nhân nếu quả có chí vì việc lớn sanh tử, chỉ lấy một niệm này làm chơn thật. Ngoài ra các thứ khéo léo ở thế gian; làm thơ, viết chữ, cho đến phan duyên, giao du, phóng lãng đều là việc điên đảo si mê. Nếu chẳng mộ thực hành, chuyên làm việc rỗng, tạm buông thả theo lục tình, nói đùa không căn cứ, mất hết ngày giờ, chẳng những sống rỗng chết uổng, còn e ác nghiệp khó trốn, ngàn đời trăm kiếp không có lúc ló đầu.

Dạy Từ - Thanh - Chi
       Phật thuyết các pháp thượng, hạ trong 3 cõi chỉ do một tâm tạo, nói 3 cõi thượng là Tứ Thánh xuất thế: Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Ba cõi hạ là phàm phu trong 6 đường: 3 đường lành Thiên, nhân A-tu-la; 3 đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tức là nhân quả thiện ác trong mười pháp giới. Y báo, chánh báo trang nghiêm đều do một tâm tạo. Nhưng một tâm này không phải gì khác mà là tâm phân biệt liễu tri nhật dụng hiện tiền của chúng ta. Đã là do tâm, chẳng phải thứ lớp, mà là hiện tiền chỗ dùng hằng ngày, niệm niệm tạo nghiệp ở trong 10 pháp giới lưu chuyển. Nếu một niệm do tham sân si tạo mười điều ác: thân 3, miệng 4, ý 3, thì thành nhân của 3 đường khổ. Nếu một niệm chuyển thập ác thành thập thiện thì làm nhân diệu lạc cõi Trời người. Nếu một niệm thiện ác đều quên: trong không thấy có mình, ngoài chẳng thấy có người, một tâm tịch tĩnh, là nhân thoát khổ của Thanh Văn. Nếu quán trước mắt khổ vui, nghịch thuận, do nhân duyên sanh diệt, trôi lăn rồi diệt thì thành nhân Duyên Giác. Nếu một niệm rõ biết nhân pháp vô ngã, nhân duyên tánh không, không có người làm và chịu, mà chẳng ngại hiện hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, hành lục đạo hóa độ chúng sanh là nhân của Bồ Tát. Nếu một niệm đốn ngộ tự tâm xưa nay quang minh quảng đại, bao dung khắp cả, tế độ hoàn toàn trọn không một pháp đương tình; chúng sanh và Phật bình đẳng tức là nhân thành Phật. Nên một tâm này rộng lớn không gì ngoài, xưa nay thanh tịnh viên mãn quang minh. Nếu nhật duyên niệm ngộ được, thì duy ở trong trần lao mà là người xuất thế. Do đó Duy Ma gọi đây là pháp môn bất nhị. Cư sĩ nếu có thể theo đây mà hành thì tất cả ân oán, thị phi, nhân ngã, các tình căn phiền não, ứng niệm hóa thành quang minh tạng. Hằng ngày thử lấy đây xem xét tất cả cảnh giới, niệm niệm giác sát, nếu chẳng thể an nhẫn, bị phiền não chướng ngại thì vừa thấy chỗ khởi hãy đem một câu “bản lai vô nhất vật” của Lục Tổ đề khởi, như bảo kiếm Kim Cương Vương thì tất cả phiền não ngay đó băng tiêu, thân tâm trở thành hồ thanh lương. Như thế ra sức thực hành. Nếu có tinh tấn chẳng lùi sụt thì chóng chứng đại giải thoát. Lại còn cầu Phật pháp nào ngoài đây nữa?

Dạy Thiền Nhân
Nhược - Đàm Thành
       Thiền nhân Thành, cùng những vị đồng chí ở Đông Thiền, Kim Sa kết Thanh Liên Xã để trì tụng kinh Pháp Hoa làm sự nghiệp. Phàm người nhập vào Xã trước hết phải thuộc lòng kinh này, nếu thuộc lòng được mới cho gia nhập. Chưa được vài năm, người có thể trì chừng vài mươi người, đi ở bất nhất, chỉ có Thiền nhân nhất quyết chẳng dời, toan lấy đây thực hành suốt đời, thỉnh ích Lão nhân, nhân đó dạy rằng:
       Kinh này do đức Phật Thích Ca, thấy chúng ta riêng vì khai thị tri kiến Phật của chúng sanh, là hạt giống chân thật thành Phật. Nên thuật lại nhân cũ ở thời Phật Đại-Thông, Trí-Thắng, vì 16 vương tử được nghe kinh này, lần lượt truyền nhau trì tụng. Hễ người từng theo nghe, ắt đời đời kiếp kiếp cùng sống một nơi, trì kinh này làm hạnh. Xưa người được giáo hóa thẳng đến đời này ở trên hội Linh Sơn, mỗi mỗi được thọ ký thành Phật. Chính kinh này là hạt giống chân thật, là chính nhân thành Phật. Nên nói rõ pháp sư trì kinh thì 6 căn hiện đời do cha mẹ sanh đều được thanh tịnh, như kinh xác minh đầy đủ. Chính kim khẩu của đức Phật tuyên bày, chẳng phải lời hư dối. Từ khi vào Trung Quốc, kinh này được nhiều người thọ trì. Riêng đại thiền sư Nam Nhạc Huệ Tư sở ngộ rất tinh thâm và Đại Sư Trí Giả ở Thiên Thai, tụng đọc kinh này bèn thấy hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan. Đại Sư Tư nói: “Pháp Hoa Tam-muội này chẳng phải là ông thì không chứng được, không phải là ta thì không biết được”. Nên Thiên Thai nhân đó kiến lập diệu môn Chỉ Quán, phát minh yếu chỉ Bách Giới Thiên như thực tướng. Về sau người nương theo Chỉ Quán mà ngộ sáng nhất tâm như Vĩnh Gia trở xuống chẳng phải chỉ một người. Thì biết kinh này là diệu hạnh thành Phật đã rõ. Duy có Lục tổ nói: “Tâm mê Pháp Hoa chuyển, tâm ngộ chuyển Pháp Hoa”. Đây lại dạy trì kinh này là đệ nhất nghĩa môn. Thiền nhân nay trì kinh này thử hướng lúc chưa mở cuốn kinh ra, mở bừng con mắt chánh trên đảnh môn chiếu phá vô minh, thực tướng của các pháp, chạm đến rỗng suốt thì thấy sắc nghe tiếng trước mắt hiện chứng. Thường chuyển một quyển chân kinh như thế, chóng đem hạt giống phiền não yêu ghét nhiều kiếp đến nay trong ruộng bát thức hóa hết thành quang-minh-tạng. Thọ trì như thế là chân tinh tấn, là rõ được pháp cúng dường Như Lai chơn thật. Nếu cứ cho giấy mực văn lời là diệu pháp, cho thực hành theo số chữ là trì kinh mà tâm địa chưa sạch, phiền não chưa không, như thế đâu khác gì lấy nước ao làm ma-ni, nấu cát cho là cơm, như thế thì da trâu chưa lủng, há toan che mắt mà thôi sao?

Dạy Thiền Nhân
Quán - Trí Vân
       Người học đạo lấy lời thề coi tâm như đã chết, làm đệ nhất nghĩa thoát sanh tử, lấy buông bỏ làm yếu chỉ nhập đạo. Cổ nhân nói: “Chí nên quy nhất, lâu ngày chẳng lui sụt, sẽ có ngày biết chỗ quay về diệu đạo”. Núi Ngũ Nhũ này là chỗ quy chân của Lão nhân. Thiền nhân có tâm quy y lão nhân đã nửa đời người. Nay may có đất cắm dùi này, chính là chỗ các ông buông bỏ thân mạng. Sống thì đồng tu, chết thì đồng về. Ông nên buông bỏ các duyên, nhất tâm tịch tỉnh. Ở đây nhóm họp hai, ba người đồng chí, người già chuyên tâm niệm Phật, tịnh tu tịnh nghiệp, thề chết làm hạn kỳ thì đạo pháp thường còn, huệ mạng chẳng dứt, thì chẳng phụ cái niệm quy y.
       Chợt nhớ Tô Lạc Thiên Công của ông với Lão Nhân có tình bè bạn 3 đời. Nên tự lấy nghĩa làm chất liệu, tuyệt không 2 niệm. Nếu còn niệm khác thì chẳng phải là người chơn thật vì sanh tử. Phàm ở đời thường cốt yếu lấy pháp làm bản hoài, nắm giềng mối của tòng lâm, điều hòa đại chúng trong ngoài một thể, khách chủ một lòng, quên hết nhân ngã, chặn dứt thị phi, rõ được phiền não vốn không, liền là được ra khỏi sanh tử. Tức tâm địa nay thanh hương liền là yếu môn Tịnh Độ. Ông nên cố gắng! Cố gắng!

Dạy Thiền Nhân
Ngưng Súc Không
       Sự tu hành của Phật Tổ cốt yếu chỉ có 2 môn Thiền, Tịnh, kiêm dùng vạn hạnh trang nghiêm. Đó là con đường tu hành chánh yếu. Trong số người đến học, người tham thiền phần nhiều bị tà sư lầm lẫn dẫn vào rừng rậm tà kiến, đọa vào ma ngã mạn, tăng hột giống ngoại đạo. Thật rất đáng lo. Huống nữa trong mười người không được một người đến chỗ giải thoát. Như thế chẳng những tự lầm mà còn làm lầm người khác. Không đáng sợ sao? Thế nên Lão nhân cực lực chủ trương chân tu tịnh độ. Người đời chẳng biết đều khinh thị là tầm thường, chẳng biết cái diệu của niệm Phật, nên phần nhiều lầm lẫn vậy. Vả lại, niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp khác nhau. Tức lúc niệm Phật trước hết phải đem tất cả phiền não vọng tưởng, tham sân si ái, các thứ niệm tạp loạn nhất tề buông xuống. Buông đến chỗ không thể buông, từ từ đề lên một tiếng A-Di-Đà Phật, rõ ràng phân minh, trong tâm chẳng dứt, như chĩ xâu hạt châu, lại như tên tên chống nhau, khoảng giữa không có một chỗ hở cỏn con nào. Như thế ra sức, dựa cho chắc. Bất cứ lúc nào cũng chẳng bị cảnh duyên lôi đi làm quên mất. Nhật dụng như thế ở trong động chẳng tạp, chẳng loạn, thức ngủ như một. Dụng tâm như vậy niệm đến lúc lâm chung, nhất tâm bất loạn, chính là thời tiết siêu sanh tử, vãng sanh Tịnh Độ. Nếu chỉ miệng nói niệm Phật, tâm địa chẳng trong sạch, vọng tưởng chẳng trừ rồi cho niệm Phật không linh nghiệm, như thế dù cho đến ba kiếp sáu mươi đời cũng không bao giờ ló đầu nổi. Ông hãy cố gắng.

Trả Lời Đức Vương
       Thế theo lời đại vương sai sứ giả đến phỏng vấn sơn tăng về pháp môn tu hành thẳng tắt: “Hỏi rằng Vương đã năng giữ giới chẳng sát sanh, ăn chay 3 năm, chỉ nghĩ đến việc cuối cùng gấp gáp, có pháp nào tu trì để lúc lâm chung được an vui, đời sau chẳng mê”.
       Đây thật là Đại vương nhiều đời trước đã huân tập gốc Bát Nhã sâu. Nay được địa vị giàu sang phú quý mà một niệm bổn lai chẳng mê mờ, tha thiết tham cầu pháp yếu. Sơn tăng ngu dốt, mạo muội lấy lòng thành thực mà trả lời. Đức Phật thuyết pháp độ người như dùng thuốc tùy bệnh, phương tiện có nhiều cửa, chẳng phải một. Từ khi kinh điển đến đất này, xưa nay nương theo tu hành có 2 môn thiền và giáo, mọi người cùng noi. Thiền thì chư Tổ truyền đăng, quý ở chỗ liễu ngộ tự tâm. Sự hạ thủ công phu là tâm chỉ đưa thoại đầu lên tham cứu một mạch đến khi thấy rõ tự tâm mới thôi. Đây chỉ dành cho người thượng thượng căn, nhất siêu trực nhập, lại phải có thiện tri thức luôn luôn hỗ trợ nhắc nhỏm mới được vào đường chánh. Các bậc vương thần xưa cũng có người hành được, nhưng chẳng thấy nhiều, là vì người xuất gia dễ thực hành hơn. Nay bậc đại vương tôn ở chỗ sâu kín đáo, chẳng dễ tiếp kiến thiện tri thức, nên chẳng dám khuyên tiến tu theo lối này. Còn theo kinh giáo tu hành thì xưa có Thiên Thai Trí Giả bày môn chỉ quán Tiểu Thừa và Đại Thừa, là yếu môn thành Phật. Đại chỉ quán thì văn nhiều, khó lý hội, còn tiểu chỉ quán tuy giản dị, thực ra muốn giải thích cho minh bạch, để hạ thủ an tâm cũng chẳng phải dễ vào, nghĩa là siêng tri, siêng hành cũng khó được gần gũi. Hàng ngày đối với những cảnh giới nghịch thuận hiện tiền, áp dụng nhiều còn chẳng tiến nổi, huống việc lớn sau cùng. Pháp này cũng chẳng phải chỗ Đại Vương dễ làm, cũng chẳng dám đề nghị. Nay chỉ có một môn Phật thuyết Tây Phương Tịnh Độ chuyên lấy một việc niệm Phật làm trọng yếu, lấy quán tưởng cảnh Tịnh làm chính hạnh, lấy tụng kinh Đại Thừa làm dẫn phát, lấy phát nguyện làm thú hướng, lấy bố thí làm phước điền trang nghiêm. Đây thực là cổ kim cùng noi theo, chẳng kể quý tiện, trí ngu đều có thể chân thật hạ công phu. Nên vạn người tu hành, vạn người hiệu nghiệm. Mong Đại Vương lưu ý điều này. Cẩn thận dụng quy tắc nhật dụng, điều lệ như sau:
       Đức Phật chúng ta vì cứu các khổ của chúng sanh trong thế giới Ta-Bà, chuyên nói pháp môn Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc. Chỉ chuyên dùng niệm Phật A-Di-Đà, phát nguyện vãng sanh. Có một quyển kinh Di-Đà chứng minh, trong kinh này nói toàn sự thực về cảnh giới quốc độ rất là minh bạch, đầy đủ chi tiết về phương pháp tu hành. Như phép tắc công khóa của nhà chùa chẳng cần bó buộc theo, chỉ lấy niệm Phật làm chủ yếu. Mỗi ngày sáng sớm dậy lễ Phật tụng một quyển kinh Di-Đà hoặc một quyển kinh Kim Cang, rồi trì, lần chuỗi niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, hoặc năm ba ngàn tiếng hoặc một vạn tiếng. Xong rồi thì đến trước Phật hồi hướng, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc, lời ở trong kinh công khóa. Đây là công khóa buổi sáng, chiều cũng như thế. Hàng ngày cứ thế làm thời khóa nhất định, chắc chắn không thể thiếu. Pháp này dạy cho quyến thuộc trong cung đúng như pháp cùng tu càng tốt. Đây chính là chỗ thực hành của Thánh Tông Nhân Hiếu Thánh Mẫu, dạy pháp trong cung vi. Người đến nay chẳng bỏ phế, đó là thường hành vậy. Còn về việc lớn cuối cùng thì công phu càng cần thân thiết, mỗi ngày trừ hai thời công khóa ra, trong 12 thời, riêng đem một tiếng A-Di-Đà đặt vào lòng, niệm niệm chẳng quên, tâm tâm chẳng mờ, tất cả việc đời đều chẳng suy nghĩ. Chỉ đem một câu niệm Phật làm mạng căn của chính mình, cắn chặt hàm răng quyết không buông xả, cho đến ăn cơm, đi, ở; đi đứng nằm ngồi, một tiếng Phật này lúc nào cũng hiện tiền. Khi gặp cảnh giới nghịch thuận, vui giận, phiền não lúc tâm chẳng an, liền đem một tiếng Phật này đề khởi một phát, tức thấy phiền não ngày đó tiêu diệt. Vì niệm niệm phiền não là gốc khổ sanh tử, nay lấy niệm Phật tiêu diệt phiền não, liền là Phật độ chỗ khổ sanh tử. Nếu niệm Phật tiêu được phiền não thì có thể thoát được sanh tử, lại không có pháp khác. Nếu niệm Phật, niệm đến lúc làm chủ được phiền não thì ở trong giấc mộng làm chủ được. Nếu ở giấc chiêm bao làm chủ được thì trong bịnh khổ làm chủ được. Nếu trong bịnh khổ làm chủ được thì lúc lâm chung phân minh rõ rệt, biết được chỗ đi vậy. Việc này chẳng khó hành, chỉ cốt lấy một niệm tâm vì sanh tử tha thiết, từ từ dựa chắc một tiếng Phật, lại chẳng tìm tòi suy nghĩ gì khác, lâu dần thuần thục, tự nhiên được đại an lạc tự tại, được đại hoan hỷ thọ dụng. Riêng chẳng phải cái vui ngũ dục thế gian có thể so sánh. Đại vương chỉ cần lưu ý pháp này, đúng là chân thật tu hành, ngoài ra lại không có việc nào thẳng tắt khoẻ hơn nữa. Cần chớ nghe tà kiến, tà thuyết mà nghi hoặc. Còn nếu đại vương muốn biết hướng đi lúc cuối cùng thì có thêm một diệu pháp, xin vì Ngài mà nói. Pháp này ở lại trong tâm Niệm Phật. Giờ giờ thầm thầm quán tưởng, tưởng trước mắt sanh ra một hoa sen lớn, chẳng kể xanh vàng, đỏ, trắng, hình giống bánh xe lớn. Quán tưởng hình dáng hoa rõ ràng, rồi tưởng tự thân ngồi ở giữa hoa, trên nhụy của đài, ngay ngắn chẳng động, tưởng Phật phóng ánh sáng đến chiếu thân mình. Lúc tưởng như thế, chẳng nệ đi đứng ngồi nằm, cũng chẳng kể năm, tháng, ngày, giờ, chỉ cốt quán cảnh phân minh, mở mắt, nhắm mắt, rõ rệt chẳng mờ. Cho đến trong mộng cũng thấy Phật A-Di-Đà cùng Quan Âm, Thế Chí, cùng ở trong hoa, thấy rõ như ban ngày. Nếu sự tưởng hoa này thành tựu, tức là thời tiết thoát sanh tử, thẳng đến lúc lâm chung, hoa này hiện ra trước, tự thấy thân mình ngồi trong hoa sen, rồi có Di Đà, Quan Âm, Thế Chí đồng tiếp dẫn, trong khoảng một niệm được vãng sanh thế giới Cực Lạc Tây Phương, ở địa vị bất thối chuyển, mãi mãi không còn chịu khổ sanh tử nữa. Đây là sự hiệu nghiệm thực sự của việc tu hành chân thật một đời lo xong. Chỉ pháp môn này chẳng phải do tăng mà nói trong kinh Phật chỗ chỗ đều khai mở, dẫn dắt pháp môn thẳng tắt tu hành, nếu mong phút cuối cùng sáng suốt ngoài ra không có pháp nào minh bạch hơn nữa. Nếu sợ tật bịnh muốn học điều tức, vận khí cầu hết bịnh. Đây chẳng phải pháp hay. Nếu khí chẳng khéo vận, ngược lại sẽ mắc bịnh lớn, đến nỗi không thể trị được. Dù gì đi nữa chẳng thể ngờ vực điều này. Chỉ là một pháp môn niệm Phật vào được thân thiết, kỳ dư chẳng cần lưu tâm. Mong đại vương thành thực tin chắc, chớ nên hoài nghi.
       Lại,
       Ngày 27 tháng Giêng, tăng Uẩn Chân vâng lệnh chỉ của Đại Vương, đem duệ ngữ của Ngài xuống hỏi. Sơn tăng cúi đọc hai, ba phen, đủ thấy Đại Vương thể cứu việc lớn sanh tử, muốn rõ cội gốc tánh mạng, liễu đạt chỉ thú Thiền giáo của Phật Tổ. Sơn tăng ngu muội, chẳng dám vọng bàn. Kính cẩn noi theo kinh điển, mỗi mỗi việc Ngài hỏi xin đối đáp rõ ràng, trình bày như sau: Cúi xin duệ lãm.
       Hỏi:
       Đạo Tam Thừa là nguồn của tính mệnh, thuyết của giáo thiền. Đạo của Đạt Ma, sao nói không một chữ, tâm địa chỗ nào dụng công? Rốt cùng đời người làm sao đạt được? Lại nói: “Có Phật không Phật, đầu đuôi thế nào? Lại nói: “Trong lúc tĩnh, không ngã, không nhân, giống như thái hư, cứu kính thế nào? Ngài có thể đem ngôn ngữ Thượng, Trung, Hạ thừa, niệm độ sanh của Phật Tổ, mổ xẻ giải thích tường tận từng điều. Đó là chỗ tôi mong được nghe.
       Đáp:
       Tông Chỉ Phật giáo chỉ lấy nhất tâm làm tông. Nguyên tâm này, xưa nay viên mãn, quang minh quảng đại, trọn không mảy bụi, thanh tịnh không một vật. Trong đây vốn không có mê ngộ, sanh tử thánh phàm chẳng lập, chúng sanh và Phật đồng thể không hai, không khác. Đây chính là Tổ Đạt Ma từ ấn Độ sang, chỉ thẳng chơn tâm sẵn có này, lấy làm thiền tông. Nên Tổ đáp Vũ Đế rằng: “Rỗng rang không Thánh”. Nếu có thể đốn ngộ tâm này, thì sanh tử dứt hẳn. Chỉ tại chính đương nhân một niệm đốn ngộ, tức gọi là Phật như như, chẳng thuộc tu chứng từng bực, chẳng thuộc thứ lớp tam thừa. Thiền Tông này được xem là một đường hướng thượng. Chư Tổ từ trước truyền trao là chỉ tâm này cho là cùng cực của Tông. Đó gọi là Thiền. Tông này chẳng lập văn tự, chỉ quý minh tâm kiến tánh. Còn công phu tu tiến thì lúc đầu Đạt Ma dạy Nhị Tổ, hỏi rằng: “Ông làm gì?” Nhị Tổ nói: “Xin Thầy an tâm cho con”. Đạt Ma đáp: “Đem tâm lại, ta an cho”. Nhị Tổ thưa: “Tìm tâm trọn chẳng thể được”. Đạt Ma liền ấn chính cho và bảo: “Đã an tâm cho ông xong”. Tâm này chẳng thể được một lời. Đó là ý chỉ Tây lai. Nhị Tổ lại hỏi: “Há không có phương tiện?” Đạt Ma đáp: “Ông chỉ ngoài dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng, tâm như tường vách, có thể vào đạo”. Đây là dạy công phu đầu tiên để tham thiền. Đạo của Đạt Ma chỉ như thế mà thôi. Trừ tâm này ra lại không có pháp khác. Về sau thiền đạo lâu ngày, người học chẳng thể đốn ngộ. Nên có thuyết tham thiền đề thoại đầu này chẳng chẳng kể là ai tùy đem một tắc công án của cổ nhân chứa trong lòng làm thoại đầu, hạ nghi tình thì không có một chữ tức là công án, ngay chỗ nghi này liền là tham cứu, tham qua tham lại, lâu dần hốt nhiên tâm địa khai mở, như tỉnh giấc mộng lớn, tức gọi là ngộ. Vì tham cứu là dụng công phu, chính lúc tham, trong tâm một niệm chẳng sanh, trọn không một vật, nên nói không ngã, không nhân, giống như thái hư, chỗ ngộ liền là cứu cánh (hạ lạc). Đã liễu ngộ được tự tâm, thì tình căn sanh tử bao nhiêu kiếp nhất tề đốn dứt. Đã ngộ tâm này, còn nói Phật và chúng sanh nào nữa? Nên từ đây đã vượt ba cõi, qua lại tùy ý độ sanh, dứt hẳn các khổ, chẳng bị sanh tử nắm giữ, gọi là Bồ Tát. Đây liền là tham thiền rốt ráo, tính mạng từ đây rõ hết. Nếu không ngộ tâm này thì bị nghiệp thiện ác một đời lôi kéo, luân chuyển lục đạo trong các đường khổ, cuối cùng không chỗ hạ lạc. Chỗ nói biển khổ sanh tử, không có bờ kia chính là đây vậy.
       Còn hỏi đạo Tam Thừa tức là pháp môn phương tiện quyền xảo của chư Phật, vì độ chúng sanh nên tùy cơ lập bày. Một đại tạng kinh đều là ý này. Nguyên là pháp nhất tâm, chúng sanh và Phật đồng một thể, vốn không có thân tâm. Bởi nhân một niệm vọng động tối sơ, mê mất tâm này, bèn kết thành thân tâm huyễn vọng. Nghĩa là thân máu thịt của mỗi người hiện giờ gọi là sắc thân, cái tri giác suy nghĩ hiện nay là vọng tưởng, tâm kinh gọi là ngũ uẩn. Ngũ uẩn tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhục thân tức sắc uẩn, tâm tức 4 uẩn: thọ, tưởng, hành, thức. Do thân tâm biết khổ vui… vv… là thọ phân biệt, tham cầu, niệm niệm chẳng dứt là tưởng; tưởng này tiếp tục chẳng dứt là hành. Ba thứ này tức là tâm tri giác suy nghĩ. Còn thức là mạng căn. Ban đầu lúc chưa mê thì chỉ gọi là tánh. Chân tâm đã bị mê mờ nên có thân tâm huyễn vọng này, thức gìn giữ liên tục thân này nên gọi là mạng. Tánh này là khởi nguyên của mạng vậy. Đức Phật lúc mới xuất thế chỉ dạy người liễu ngộ tâm này mà thôi. Vì tâm bị mê mờ đã lâu chẳng thể liễu ngộ nên Phật bày phương tiện, trước dạy người biết thân này là gốc khổ. Khổ này do tham, sân, si, ái, phiền não nhóm họp mà sanh, vì thế muốn người trước hết đoạn phiền não để có thể ra khỏi khổ này. Người trung, hạ căn y theo đây tu hành, dứt hết phiền não, quả nhiên được ra khỏi khổ sanh tử. Đây gọi là Thanh Văn, Duyên Giác, là Hạ-Trung Nhị Thừa, vì họ chỉ có thể tự độ, chẳng thể độ người, chẳng biết ý chỉ đồng một thể, chỉ được một nửa nên gọi tiểu thừa. Còn có chúng sanh tâm rộng lớn, đã có thể tự độ, lại có thể độ người, tự lợi tự tha, rộng tu lục độ nghĩa là hay bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; có sáu hạnh này thì tâm quảng đại, đó là Bồ Tát, nên gọi là Đại thừa, cũng nói là Thượng Thừa. Hai pháp thừa này, cả đại tạng kinh đều nói. Chỉ cần người liễu ngộ tâm này, cuối cùng hội quy về nhất tâm, tức gọi là Nhất thừa tối thượng. Đây gọi là Phật, là cực tắc của kinh. Pháp tu hành tam thừa rất nhiều, nói không hết nổi. Chỉ y một pháp tu hành, đều được ra khỏi khổ sanh tử, chẳng phải chỉ là một mối. Mọi thứ phương tiện, liễu ngộ được tâm này mới là chỗ hạ lạc cuối cùng. Chưa ngộ tâm này đều là ở trong biển sanh tử chuyển theo thiện ác; nếu làm lành thì sanh trong loài người hoặc lên Trời, nếu làm ác, quá tham, sân, si, ái thì đọa tam đồ, thọ khổ vô lượng. Pháp tam thừa này, nếu học theo trung-hạ-thừa mà tu, thì bây giờ đang một bề mến thân này, tham đắm, thụ hưởng, tâm vọng tưởng chẳng thể đoạn trừ nên không thể tu được. Nếu người học Thượng Thừa tu, tuy có thể bố thí trì giới, còn 4 hạnh sau chẳng thể hoàn toàn, cũng không thể ra khỏi sanh tử. Dù tu pháp lành, sanh lên cõi trời, phước hết lại đọa, như quay nước giếng trọn không có chỗ đặt chân; nếu cầu ngộ rõ tâm này có thể thoát khỏi sanh tử. Nhưng vì như nay, sự và pháp hiện tiền lẫn lộn; lại chẳng thể đem hết tâm tham cứu; dù tham cũng chẳng được thiện tri thức chân chính chỉ giáo, sợ dụng tâm lầm, ngược lại bị rơi vào tà đạo, như thế há chẳng uổng phí một đời, tuy muốn tìm chỗ đặt chân, rốt cuộc không chỗ đặt. Vì ở cõi trời hưởng phước chưa khỏi luân hồi nên Phật riêng bày phương tiện thẳng tắt. Một môn niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ thì một đời thành tựu. Lúc lâm chung nhất định có chỗ đặt chân. Nay đem pháp môn niệm Phật Tịnh Độ vì đại vương mà trình bày vậy.
       Còn hỏi pháp môn Tịnh Độ vì sao mà đặt ra? Là nhân Phật bày pháp Tam thừa, muốn người tu hành, chẳng phải một đời có thể thành tựu, sợ rơi vào biển khổ sanh tử, khó ra khỏi mau chóng. Còn muốn tham thiền, có thể một đời liễu ngộ, được thoát sanh tử thì lại nhân vì vọng tưởng lăng xăng, tập khí sâu dày, chẳng thể tham cứu. Nếu chưa ngộ sáng tâm này cũng chẳng khỏi luân hồi. Nên bày riêng một môn Tây Phương Tịnh Độ. Đây chẳng kể là Thượng, Trung và Hạ căn, cùng nghèo, giàu, quý, tiện nếu chịu theo đây mà tu, một đời có thể thành tựu. Nghĩa là duy có đường tắt tu hành niệm A-Di-Đà Phật, không có xao diệu gì nữa. Vì sao thế? Vì thế giới chúng ta hiện ở gọi là ta-bà, là chỗ cực khổ. Nghĩa là sinh khổ, lão khổ, bịnh khổ, chết khổ, cho đến cầu bất đắc khổ, oan gia tụ hội khổ, nói không thể hết. Tuy là vương hầu khanh tướng thọ hưởng phú quí, vui sướng đủ thứ cũng đều là nhân khổ. Vì ở đây cực khổ khó xa lìa được, nên nói Tây Phương Tịnh Độ gọi là Cực Lạc thế giới, vì trong cõi này chỉ hướng các thú vui nên gọi là Cực Lạc, vì cõi Phật kia tuyệt không dơ uế nên gọi là Tịnh độ. Không có đàn bà, hoa sen hóa sanh nên không có sanh khổ, thọ mạng vô cùng nên không có sanh khổ, thọ mạng vô cùng nên không có lão - tử khổ, cơm áo tự nhiên nên không có cầu bất khả đắc khổ các bậc thượng thiện nhân cùng ở một nơi, nên không có cái khổ oan gia tụ hội. Vì cõi nước đó 7 báu trang nghiêm nên không có ngói gạch, gai góc, đại tiểu tiện bất tịnh. Các thứ đều trong sạch, hoàn toàn không giống thế giới này. Tất cả chỗ nói trong kinh Di-Đà đều là sự thật. Nay mọi người cầu sanh nước kia, không có pháp nào khác, chỉ nhất tâm niệm Phật lấy làm chánh hạnh. Ngày ngày hồi hướng, lại tâm tưởng thân ngồi trong hoa sen, thì lúc mạng chung sẽ thấy Phật A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn; thấy hoa sen vọt hiện lên trước mặt, thấy chính thân mình ngồi trên hoa, một niệm vãng sanh liền sanh vào nước kia, từ đây liền chẳng đọa vào đường khổ sanh tử nữa. Gọi là Bồ Tát Bất Thối Địa. Đó là kết quả tu hành một đời, chỗ hạ lạc đời sau, như thế đã rõ ràng. Ngoài đây ra, nói lâm chung có cảnh giới nào khác đều là tà thuyết. Nếu chẳng niệm Phật đến lúc mạng chung, tùy tạo nghiệp ác, cảnh ác hiện tiền, hối hận đã muộn. Đây là pháp môn tu hành thẳng tắt dễ dàng nhất, là phương tiện đặc biệt do Phật bày ra để tiếp dẫn. Tu Tịnh Độ chẳng cần cầu ngộ sáng tâm tánh, chuyên lấy niệm Phật quán tưởng làm chánh hạnh, lại lấy bố thí trai tăng, tu các công đức phước điền để trợ giúp trang nghiêm Phật.
       Trong Tâm niệm Phật, tuy phát nguyện vãng sanh, nhưng tất yếu phải biết trước đoạn gốc sanh tử mới mau có hiệu quả. Thế nào là gốc rễ sanh tử? Đó là ngày nay tham đắm thế gian, đủ thứ thụ hưởng, với sắc đẹp, tiếng dâm, mùi vị khoái khẩu, tất cả đều là gốc khổ, cùng tất cả tâm sân giận phẫn hận, tâm chấp trước, si ái cùng tất cả tà ma ngoại đạo do tà sư thuyết. Pháp tà giáo là như ngày nay, có một loại người tà, vọng xưng giáo lý viên đốn của Đạt Ma v.v… vọng lập giáo lý Nam Dương Tịnh Không, vô vi, các kệ quy gia v.v… Tất cả đều là người tà cận đại, hướng trong hư không mà tác quái, loại ngôn ngữ này là pháp hoặc loạn người đời, đều cần phải tận tình mửa bỏ. Cho đến những thuyết tà luyện nội đan, ngoại đan, các thuật giữ lấy âm dương của phái Toàn Chân đều là pháp tà, đều chẳng đáng tin. Chỉ là một mình dốc lòng tin pháp môn niệm Phật, mỗi ngày tụng kinh A-Di-Đà hai quyển, niệm Phật chừng ấy, hoặc chẳng cần đếm số, chỉ là tâm tâm chẳng quên danh hiệu Phật, ngay đây liền là thoại đầu, chính là nguồn cội của tính mạng, chẳng cần hỏi thế nào là tánh mạng nữa. Mặt mũi xưa nay của chính mình cũng có thuyết ba hồn bảy vía nguyên thần, cái đó toàn là trên cái thân máu thịt, bàn tán vọng nhận, vọng chỉ, đều không chỗ hạ lạc. Nếu hỏi lúc sống ra làm sao, lúc chết rồi thế nào? Thì lúc sống tạo ác, chết rồi cảnh ác hiện tiền, lúc sống niệm Phật cầu về Tịnh Độ, chết rồi cảnh Phật Tịnh Độ hiện tiền, toại nguyện chỗ ta cầu. Đó là việc tốt. Nếu chẳng phải chỗ mình trong tâm cầu lành mà hiện ra thì đều là việc tà ma, quyết không được tin lầm, sẽ lầm đến trăm kiếp ngàn đời. Chỉ xem trong kinh Lăng Nghiêm thuyết rất rõ ràng. Nếu nói có tướng đều là vọng. Lời này là lời trong cửa tham thiền, chỉ riêng cầu chân tâm thanh tịnh chẳng dung một vật, nên nói có tướng đều vọng. Vì niệm Phật Tịnh Độ nguyên là tâm tưởng được thành tựu. Kinh nói: “Tưởng lắng đọng thành quốc độ”. Vì tham thiền cốt đoạn tâm vọng tưởng rất khó, nên nay đem tưởng thanh tịnh đổi tưởng ô nhiễm, hoa sen hiện tiền chính là quán tưởng thành tựu, sao lại cho là tướng vọng mà bỏ đi? Tu hành mỗi thứ có đường lối chẳng đồng, chẳng nên nói gồm chung làm một.
       Ở trên đã đáp, đều nương trong kinh giáo của Phật Tổ mỗi mỗi khảo chính, không phải nói dối. Nếu tham thiền thì lấy minh tâm kiến tánh làm chủ. Nếu niệm Phật một môn cầu sanh Tịnh Độ, bất tất phải minh tâm kiến tánh, chỉ riêng niệm Phật. Phật là Giác, nếu niệm niệm chẳng quên Phật thì niệm niệm minh giác. Tự tâm nếu quên mất Phật liền là bất giác. Nếu niệm đến trong mộng cũng có thể niệm, tức là thường giác chẳng mê. Hiện tại nếu tâm này chẳng mê thì lúc lâm chung tâm này cũng chẳng mê. Ngay chỗ tâm này không mê tức là “hạ lạc”. Hiền-vương như nay việc nước vạn thứ, quyết chẳng thể tham thiền, chỉ có niệm Phật là tốt nhất, chẳng kể nhàn rỗi, bận rộn, động hay tĩnh, tất cả chỗ đều niệm được. Chỉ là nhất tâm chẳng quên, lại không có pháp khéo léo nào khác. Còn biết trước là việc thần thông. Đây chẳng cần phải cầu. Lúc đương thời Phật chẳng cho học tập việc này. Nếu thành Phật rồi tự nhiên có thần thông, chẳng đợi cầu. Quỷ thần cũng biết trước, chẳng phải là người có thể học được. Cần thiết chẳng được nghĩ về những việc loại này. Nếu niệm Phật đến lúc mạng chung tự nhiên dự biết trước lúc đến cũng là tầm thường, do sức niệm thành tựu chẳng thể cưỡng được.
       Mấy điều trên đây, cúi xin Hiền-vương xem kỹ và lưu ý cho.

Mộng Du Tập: Trích Quyển Tám & Chín


                       
~Trích Quyển Tám~
Dạy Thiền Nhân Bảo-Tạng Tướng Lễ Phổ-Đà
       Quan Âm đạo sĩ, chứng bổn căn viên thông đem pháp giới này tùy duyên ứng hiện, há nhất định ở núi Phổ Đà sao! Biển dụ cho sanh tử, núi dụ cho Niết Bàn. Đại sĩ đem pháp thân ứng khắp trong biển sanh tử, tức là chúng sanh trong nhật dụng tầm thường đều là oai thần đại sĩ hiển hiện, trạm nhiên tịch diệt, ví như núi báu, nên lấy núi Phổ Đà trong biển đề làm biểu tượng. Bởi vì chúng sanh trong biển phiền não, chúng sanh có khổ tức là cái khổ của đạo sĩ. Nên một lần xưng danh hiệu liền được giải thoát, tức là chúng sanh gọi tỉnh Đại sĩ của tâm mình. Đại sĩ hiện tiền thì tịch diệt hiện tiền, tịch diệt thì khổ chẳng thể đến. Nên núi ở trong biển, ba đào không thể lay động. Thế nên gọi là Đại Sĩ thường ở Phổ Đà. Chẳng phải cuộc ở hòn đá con trong biển cho là nơi Đại sĩ nương gá. Chúng sanh mê vọng, chẳng lễ Đại sĩ tự tâm đích thân ngồi ở đạo tràng tịch diệt, nguy nguy bất động như núi trong biển, mà lặn lội núi sông hơn vài ngàn dặm, vấp váp khổ cực, hướng bên ngoài mà tìm. Quá mê vậy! Tuy như thế kinh lại nói: “Quy nguyên không hai, mà phương tiện nhiều cửa”. Nau chúng sanh khắp đại địa đều tin Đại Sĩ ở biển Nam, nên hợp với căn cơ đó mà dẫn dắt tiến lên, khiến họ xuống biển lên núi, một lần niệm Đại sĩ mãnh tỉnh tự tâm, thì ba đào chạm mắt đều nhập vào cửa viên thông, ắt khiến tự tin mà thôi. Đồng với đây mà đi, nếu có một người tin lời này của lão nhân thì chẳng phụ một phen hành khước, không thế thì uổng phí tiền giày cỏ.

Dạy Thiền Nhân Dạ-Đài
       Bồ Tát Văn Thù trụ núi Thanh Lương, cùng một vạn quyến thuộc thường diễn thuyết pháp. Nên sa môn Tây Vực xa lễ núi này, cho là thế giới Kim Sắc. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Văn Thù Sư Lợi đến từ tất cả chỗ, và tất cả chỗ đều là thế giới Kim Sắc”. Xem đây thì Văn Thù quả thường trụ ở núi này sao? Vì trong cõi chúng sanh phiền não tập hợp, là đất nhiệt não, nếu hành nhân có thể mở con mắt trí tuệ, đạt được gốc, quên tình, biết tâm thể hợp, thì ngay đó mát mẻ thanh lương. Như thế thì chạm mắt không đâu chẳng phải là hóa cảnh của Văn Thù, bước bước chẳng rời đạo trường thanh lương. Đây là nghĩa tất cả chỗ đều là thế giới Kim Sắc của Văn Thù vậy. Thiền nhân Dạ Đài trụ lâu ở Đài-sơn, ban đêm đi dạo nên được tên này. Nay đến phương Nam hành khước, tham lễ trí thức, thì ắt đích thân từ Văn Thù chỉ điểm mà đến. Như Thiện Tài đi lần về Nam, tuy trải qua 110 thành mà chưa hề động gót chân một bước, như trước chu hành mười phương thế giới, chưa rời cõi Kim Sắc, tại mỗi tri thức tùy pháp môn thuận nghịch, không đâu chẳng phải mắt trí tuệ của Văn Thù. Nay ông gặp lão nhân ở ngọn núi Ngũ Nhũ, cùng thế giới kim sắc là đồng hay khác? Trong đây nếu biện được, thì chấp nhận ông thân thấy Văn Thù. Nếu như chưa được vậy, lại mua giày có mà hành khước đi. Tham, tham!


~Trích Quyển Chín~
Dạy Thiền Nhân Huệ-Huyền Hưng-Hậu
       Đông Hải là đất mà Phật pháp chẳng được lưu hành. Từ Linh Sơn, sư Quế Phong khai hóa, khiến người bỏ tà theo chánh chẳng ít. Lão nhân xưa ở chùa Hải Ấn, khen sư pháp lợi hưng thạnh, hàng đệ tử của sư có thể thuyết pháp, rất nhiều. Nay học nhân Hưng Hậu là cháu đích tôn vậy. Lão nhân rời Linh Sơn đã có 28 năm, sau năm Tân Dậu, ông đến tham vấn ở Khuông Sơn, rồi cuối năm từ giã trở về núi cũ, thỉnh ích pháp yếu tu tâm. Lão nhân nhân đây dạy:
       “Đức Phật rất quở trách hai thứ chướng phiền não và sở tri là căn bản sanh tử. Phiền não chướng là tham, sân, si, ái, đó là căn bản sanh tử của phàm phu. Còn sở tri chướng là tri kiến Phật pháp, đó là căn bản sanh tử của thánh nhân tâm thừa. Nếu hai chướng chẳng trừ, thì khổ đau không do đâu mà ra khỏi được. Ôi, người đời nay chẳng biết Phật pháp, cố nhiên chẳng có gì lạ. Mà ngay người học pháp Phật, chẳng đoạn trừ phiền não, lại đem sở học về Phật pháp làm sở tri chướng, sanh trương ngã mạn, tăng thêm ngã mạn, tăng thêm phiền não, tâm địa nhiễm ô, chủng tử chạm đến liền phát sanh, hiện hạnh phóng dật, thân tâm chẳng thúc liễm mảy may, theo tình thức tạo nghiệp, há chẳng phải lấm lớn sao? Học nhân nay nghe lão nhân khai thị, biết vì việc lớn sanh tử, phát tâm tham cầu công phu bổn địa. Đây là nguyện lực tối thắng. Nhưng nay, công tham cứu, chẳng cần cầu gì khác, chỉ cần đem chủng tử tập khí có sẵn trong lòng, nhất tề điểm mặt làm cho khô sạch trọi trơn, chẳng cho xúc phát hiện hành. Rồi ở nhật-dụng đối cảnh gặp duyên, lúc khởi tâm động niệm ngay đó xem rõ, chẳng cho tương tục. Sự dụng tâm hạ thủ này chỉ như kinh Lăng-Nghiêm nói: “Nhĩ căn viên thông của Quan Âm, xoay ngược cơ quan nghe, nghe ngược lại tự tánh”. Một quán môn này là dụng tâm tốt nhất. Nếu ở chỗ thấy nghe hằng ngày thật có thể quán ngược lại tự tánh thì chẳng theo ngoại cảnh lưu chuyển, như thế niệm niệm trôi ngược về thì niệm niệm là đường quy chơn. Như thế dụng tâm, nếu tập khí chẳng trừ, xúc phát hiện hành thì nhất định là chẳng đắc lực. Đây hoàn toàn là do một phen ngược lại với hiện nghiệp làm hạnh tối thượng, tất yếu cũng là tâm sanh tử tha thiết, chịu hạ tử-công-phu. Người học nếu thật vì sanh tử, cứ chân thiết dụng tâm là có thọ dụng, chẳng phải nói xong rồi thôi, tạo một thứ tri kiến Phật pháp.

Dạy Lão Túc Nhân Thiên
Trì Kinh Pháp-Hoa
       Đại Đức Nhân Thiên tụng kinh Pháp Hoa hơn hai mươi năm sắp đi, bèn đến thỉnh ích. Lão tăng nhân đó bảo rằng:
       Pháp Hoa tối thượng thừa là bí yếu từ lâu của đức Phật chúng ta, là cuốn sách chứng cứ (khoán thư) thọ ký các đệ tử. Lục Tổ nói: “Tâm mê Pháp Hoa chuyển, tâm ngộ chuyển Pháp Hoa. Tụng kinh không hiểu ý, cùng nghĩa thành oán cừu…” Tổ thứ 27 nói: “Thở vào không ở ấm giới, thở ra không giao thiệp các duyên, thường chuyển kinh như thế, trăm, ngàn, vạn, ức quyển”. Như hai Tổ trên nói thì Nhân Thiên rốt cuộc trì kinh này như thế? Kinh nói: “Pháp này chẳng phải chỗ tư lương phân biệt có thể hiểu”. Như thế thì Lục Tổ dù cho hiểu ý cũng chưa thể trì. Lại nói: “Kinh này mở cửa phương tiện để khai thị tướng chơn thật của các pháp”, như thế thì sơn hà đại địa, cỏ cây, ngói, đá đều là thực tướng. Dù như Tổ 27, rời hơi thở ra vào cũng chưa thể trì. Thế thì Nhân Thiên rốt cuộc trì như thế nào? Như Phật thuyết phẩm Trì: “Cho đến lần lượt người thứ năm mươi chuyển dạy trì kinh, công đức chẳng thể nghĩ lường”. Xem đây thì công đức chuyển giáo chẳng kể hiểu nghĩa hay không hiểu nghĩa, lìa hơi hay thở hay không lìa hơi thở; chỉ hay một niệm tin tâm, tự biết cái sẵn có của mình, thì huệ mạng chẳng đoạn. Do đây lão nhân rất ca ngợi pháp-xã Thanh-Liên, lấy trì Pháp Hoa làm diệu hạnh. Vì một lần nghe kinh này, liền là gieo hạt giống chơn thật thành Phật. Nhân Thiên lấy việc này chuyển giáo nhiều người. Có thể như lời Phật khen ngợi tán thán. Lại có pháp nào hơn đây nữa?

Mộng Du Tập: Trích Quyển Năm & Sáu


~Trích Quyển Năm~
Dạy Thiền Nhân Song Luân Chiếu
       Thiền nhân Song Luân Chiếu đến tham vấn. Lại bảo: “Sắp ẩn cư trong núi, riêng tham cứu việc hướng thượng, xin Lão nhân pháp trụ núi”. Nhân đó dạy rằng:
       Cổ nhân trụ núi là chỗ bỏ thân mạng lớn, đâu phải việc nhỏ, chuyên yếu khéo dụng tâm mình. Pháp dụng tâm, đơn đề một niệm hướng thượng. Phải thẳng hướng chỗ Phật Tổ chẳng dung, đứng vững gót chân. Kế đó cần đem hết tất cả tri kiến, lời huyền, tiếng diệu tạp độc trong lòng, nhất tề mửa bỏ. Tiếp đó biết được bổn thể trọn không một pháp. Chẳng thể thứ cảnh giới, làm hoặc loạn chánh niệm. Rồi cần phải khán thoại đầu bổn tham. Như công án “chẳng mục”? của Lục Tổ, cực lực đưa lên nhắc nhỏm. Nếu có tất cả ác tập hiện tiền, liền đem một lời “bổn lai không” khán phá. Cần chẳng được theo nó lưu chuyển, tương tục, cắn chặt hàm răng. Chỗ này nhất định nắm đứng, mới chẳng bị nó cướp đoạt. Dụng tâm như thế, mới là giờ giờ tỉnh tỉnh, chỗ chỗ ra sức nếu dụng tâm ra sức thái quá, thì tâm giải đãi sanh, liền khởi hôn trầm nặng nề. Lúc này chỉ cần mau chóng vận dụng tinh thái. Chẳng thể rơi vào trong hang ổ hôn trầm, phải mau trì chú. Nương sức chú này, đủ địch ma này. Vì trong tàng thức tập khí ác nhiều đời, nay bị thoại đầu bức bách xuất hiện biến hóa thành cảnh giới vô cùng. Tất cả cảnh ma từ vọng tướng sanh. Tất cả hôn trầm từ tán loạn sanh, chính ngay lúc dụng tâm, chợt có một niệm tán loạn liền rơi vào hôn trầm. Đây phải khéo biết. Tứ liệu giản “tịch tịch, tỉnh tỉnh” của Vĩnh Gia rất là thiết yếu. Cổ nhân dụng tâm, chỉ đem một câu thoại đầu bổn tham dựa chắc như vách sắt, núi bạc; nếu đem chỗ một niệm không sanh cũng là đắc lực; chẳng nên cho là hội được cứu cánh. Ngay đến công phu nhậm vận hồn nhiên chẳng nhờ tư duy, một niệm hoát nhiên thân tâm như thoát không, chỉ mới là chỗ công phu bắt tay vào; cũng chưa là cứu cánh. Nếu đến đây, có thể tự nhiên khinh an tự tại liền sanh hoan hỷ. Nhưng đây là việc bổn phận của mình, chưa có gì kỳ đặc. Nếu sanh ý tưởng kỳ đặc liền rơi vào ma hoan hỷ, rồi khởi tri giải cuồng điên vô cớ. Cửa này rất nguy hiểm. Lão nhân chỗ này đều có thử cả.
Xưa nói:
       Khô mộc nham tiền thố lộ đa
       Hành nhân đáo thử tận sa đà,
       (Cây khô trước núi nhiều đường tẻ
       Người đi đến đấy thảy sa đà).
       Chẳng phải là việc nhỏ. Cho dù có sức vượt qua các thứ cảnh giới, chính nên tu hành, chính nên bảo hộ, chưa phải là đến nhà. Nếu cho đây là đủ, liền khởi các thứ niệm về chuyện ngũ dục thế gian. Cửa này rất khó qua. Trăm người chỉ qua được một, hai. Sở dĩ chẳng đến được ruộng đất cổ nhân, chính là lỗi lầm được ít cho là đủ. Dù người học các ông khổ tâm một đời được đến đất này, nếu bị ác tập này lôi kéo, vẫn là đọa lạc trong lầm sanh tử, công phu lúc trước vất bỏ hết, chẳng đáng buồn sao? Chuyện như thế, lời cổ nhân ghi chép không ít. Lão nhân lược nêu lên, vì trong đời mạt pháp khó được người học đạo chân chính, và cũng vì từng làm khách lãng tử, đáng thương!
       Đại khái người xưa trụ núi chẳng phải nuôi dưỡng sự biếng lười mong khoái hoạt, mà riêng vì việc lớn sanh tử của chính mình, do đó chạy vào núi lạnh muôn trùng, tạo kế sống, không có gì khéo léo. Nếu tại đây lần lửa qua ngày, hoa phí thời gian, há chẳng đáng buồn sao? Tuy nhiên dụng tâm sai biệt đã tự biết rồi. Trong núi những cảnh duyên huyễn biến trước mắt như nước chảy, gió thổi, vượn hú, chim hót, mây trôi, sương giăng; khua động ở trước, lại bị ồn náo tạp nhạp. Lời “thấy đạo quên núi” của Vĩnh Gia cần phải xem lỹ. Lão nhân ban đầu lúc ở Long Môn Ngũ Đài, dưới núi lạnh vạn trượng, trong khói băng tuyết như chôn người chết, núi lạnh thấu cả ngũ tạng, chỉ có một hơi thở nhỏ nhiệm, nhìn theo trong băng ra vào. Đến đây phản quan, tìm chỗ một niệm khởi của tự tâm trọn chẳng thể được. Cảnh này chính là duyên trợ đạo, lại lúc gió lớn nổi lên, tiếng rít cuồng nộ ở muôn hang, ngày đêm chẳng dừng, rồi tuyết tan, khe suối chảy, tiếng như sấm rền. Lại dường như thiên binh vạn mã phóng chạy. Cảnh giới tạp loạn như thế, ban đầu rất khó chống chọi. Nhân nghĩ người xưa có nói: “Nghe tiếng nước 30 năm không chuyển ý căn, có thể choa vào đạo”. Lão nhân bèn phát nhẫn, ngồi ngay trên cầu độc mộc; trọn ngày nghe tiếng nước. Ban đầu om sòm rất khó tiêu, lâu dần quả thật hốt nhiên tịch diệt. Từ đây tất cả cảnh giới đều tịch diệt. Nghĩa là vạn cảnh vốn nhàn, chỉ người tự ồn náo. Đây lại là dụng công phu đệ nhất của đạo nhân trụ núi. Thiền nhân nhớ lấy, chớ bỏ qua.

Dạy Thiền Nhân Quán Trí Vân
Người học đạo:
       Thứ nhất: Cần nhìn cho rõ ra tất cả cảnh giới thế gian để chẳng bị chuyển theo vọng duyên.
       Thứ hai: Cần niệm một tấm lòng sắt đá quyết định vì việc lớn sanh tử, chẳng bị vọng tưởng phan duyên đoạt mất chí mình.
       Thứ ba: Cần đem những tri kiến, ác giác, tập khí cũ từ trước, tất cả rửa sạch không còn một mảy.
       Thứ tư: Cần chơn thật buông bỏ thân mạng chẳng bị sanh tử, bệnh hoạn, ác duyên làm chướng ngại.
       Thứ năm: Cần phải chánh tín, chánh kiến. Chẳng được nghe tà sư làm lầm lẫn.
       Thứ sáu: Cần biết được chỗ dụng công chân thiết của người xưa, nắm lấy mà tham cứu thoại đầu.
       Thứ bảy: Cần trong tất cả chỗ nhật dụng được chánh niệm hiện tiền. Chẳng bị chuyễn hóa mê hoặc, tâm tâm không gián đoạn, động tĩnh như một.
       Thứ tám: Cần trực niệm hướng đến trước. Không được đem tâm đợi ngộ.
       Thứ chín: Cần có tâm lâu bền, chí không đến được ruộng đất cổ nhân, quyết không chịu thôi; không nên được chút ít cho là đủ.
       Thứ mười: Trong lúc hạ thủ công phu, cần phải buông xả, thôi dứt. Xả rồi lại xả, thôi rồi lại thôi, xả đến chỗ không thể buông xả, thôi đến chỗ không thể thôi. Tự nhiên thấy được tin tức tốt. Người học dụng tâm như thế, mới cùng bổn phận có chút phần tương ưng. Người có chí hướng thượng, nên lấy đây mà tự gắng sức.


~Trích Quyển Sáu~
Dạy Tây-Đường Kính-Sơn
Thiền Nhân Linh-Giám
       Kinh nói: “Tất cả pháp chẳng sanh. Ta nói là nghĩa sát-na. Vừa sanh tức có diệt chẳng vì người ngu mà nói”. Cổ Đức nói: “Người ngộ vô sanh, mới thấy sát-na”. Nhưng đã ngộ vô sanh, lại có sát-na nào có thể thấy? Nếu thấy có sát-na, thì chẳng phải ngộ vô sanh. Nay sao lại nói người ngộ vô sanh mới thấy sát-na, thế thì vô sanh và sát-na là một hay khác? Phật y nơi bất sanh thuyết sát-na thì chẳng phải khác. Tổ sư nói: “Ngộ vô sanh mới thấy sát-na thì vô sanh sát-na lại chẳng phải một; nếu lìa một và khác mà cầu, thì ý vô sanh cũng là cọc cột lừa. Quy Sơn nói: “Người đời nay một niệm chóng rõ tự tâm, gọi là ngộ. Rồi đem sở ngộ tịnh trừ hiện nghiệp lưu thức, gọi là tu”. Nhưng lưu thức là sanh diệt vi tế, tức là tâm sát-na vậy. Nói ngộ rồi tu tức là ngộ rồi sau mới thấy. Lại nữa ngộ rồi sau mới thấy sát-na thì ngộ trước chưa phải là chân vô sanh; đã rõ vậy. Nay tham thiền đề thoại đầu, tuy nói ra sức mà sanh diệt vi tế trôi chảy thầm thầm, như đá đè cỏ, đen tối chẳng thấy. Nếu chẳng đoạn sanh diệt, làm sao ngộ được vô sanh, lại lấy gì địch lại sanh tử? Nếu ngộ rồi sau thấy, thì Thế Tôn y sát-na mà thuyết vô sanh lại là pháp thừa Tây Đường ăn no nê giáo nghĩa, nay bỏ chỗ tập quen, riêng đề một đường hướng thượng. Ở đây thử định đúng xem! Nên chẳng được dùng nghĩa lý hòa hội, cũng chẳng hướng ý hiểu mà cầu, có thể ở trong một niệm sát-na chóng thấy vô sanh thì lỗ mũi Phật, Tổ một xâu xỏ hết.

MỘNG DU TẬP


Mộng Du Tập


Lời Đầu Sách
            Phật Tổ gá thân mộng, dạo cảnh mộng, giáo hóa người trong mộng, mong tất cả mau ra khỏi mộng dài sanh tử, làm người tỉnh thức, tự tại thong dong.
            Chúng tôi nhân đọc Mộng Du Tập của ngài Hám Sơn, thâm cảm chỗ dạy chí tình của ngài, nên mộng đem lời quê mùa củng vốn liếng chữ Nho ít ỏi, trích dịch tập này, trước để tự xem, sau mong tất cả các bạn đồng mộng có duyên xem đến có được chút ít lợi ích nào chăng!
Hạnh Huệ

~
Thiền sư Hám Sơn
Đức Thanh

(1546-1623)
            Thiền tăng đời Minh, họ Thái, tự Trừng Ấn, Đăng Ấn, hiệu Hám Sơn, Hám Sơn Lão Nhân, Hám Sơn Đạo Nhân, người xứ Toàn Tiêu (nay thuộc tỉnh An Huy) Trung Quốc. Sư chủ trương dung hợp hai tông "Thiền và Hoa Nghiêm", ba giáo: Nho, Đạo, Thích cùng về một thuyết, cho rằng "Không biết xuân thu thì chẳng thiệp thế, không tinh thông Lão Trang thì chẳng thể quên thế gian; không tham thiền thì chẳng thể xuất thế".

Xin cảm ơn cô Chân Hiền Tịnh đã phát tâm đánh máy quyển sách này.

 

Mộng Du Tập: Trích Quyển Bốn

~Trích Quyển Bốn~
Pháp Ngữ
Dạy Cư Sĩ Dung Ngọc
Lúc tôi ở am Tam Nhất, có cư sĩ Vương Dung Ngọc ở Hóa Châu đến thưa rằng:
- Đệ tử tâm hướng về đạo đã lâu mà chí chưa được chuyên nhất. Con nghĩ rằng sống phải có danh giáo, lấy trung hiếu làm đầu, thẹn mình chưa được công danh để tỏ lòng trung với vua, chưa gánh đá để tỏ lòng hiếu với từ thân, tâm con chưa yên nên khó định chí.
Tôi bảo:
- Đúng thay! Trung hiếu thực là gốc của đạo cả, là sự tốt đẹp của lòng người. Đâu thể bỏ trung hiếu mà nói đạo, ngược với tâm tánh mà nói đức hạnh sao? Nhà Nho cho lời Phật dạy là bỏ nhân luân, dẹp trung hiếu, cho là ngược dòng (bối trì). Họ không biết chỗ ngược là vết tích còn chỗ hướng đến là tâm. Truyện nói: “Muốn thờ cha mẹ, không thể không biết đến người, muốn biết người, không thể chẳng biết trời”. Người tức là lòng nhân, là đức của tánh vậy.
Xem đây thì luận về việc thờ cha mẹ mà không biết người, chẳng gọi là hiếu. Luận về biết người mà không biết trời, chẳng gọi là biết người. Nói biết trời mà không thấy tánh thì trời cũng hoang mang không có chứng cử. Thế thì tâm tánh tại ta tức là thiên chân sẵn có. Người biết được thiên tánh chân thật tức là Chân nhân. Dùng cái hiếu của thiên chân tức là chân hiếu. Hay dụng công thấy tánh để tu là chân tu. Dùng cái vui của chân tánh để làm vui cho cha mẹ tức là diệu hạnh. Đó tức là hiếu, là chí hiếu vậy. Nhiều người cho rằng: “Lấy sự cung kính làm trọng, còn miệng và thân là nhẹ”, chỉ là đè ở ngọn.
Dung Ngọc thưa:
- Đệ tử lòng đã rõ lời chỉ dạy, biết công của sự thấy tánh thật lớn, lấy đây để làm cha mẹ được vui, sở nguyện đã vững. Nhưng đạo bao la như biển, mênh mông không ai chỉ lối về, mong thầy chỉ dạy công phu thẳng tắt.
Tôi nói:
- Cổ đức có nói: “Có một đường tắt tu hành là niệm Phật A Di Đà. Tiếng Phạn “A Di Đà” nghĩa là “Vô Lượng Thọ”, Phật là giác. Tức là giác tánh thiên chân sẵn có của chúng ta. Đó là diệu môn đệ nhất của sự thấy tánh. Tánh này vốn có trước thiên địa mà chẳng già, còn sau trời đất mà không phải chấm dứt, ở trong sanh tử mà chẳng biến đổi, ở chỗ đổi thay mà không dời chuyển, vượt trên vạn vật, không chỗ tận cùng, nên gọi là Vô Lượng Thọ. Thọ này chẳng lệ thuộc hình hài dài ngắn, năm tháng chóng chầy. Nếu chúng ta có thể thấy được tánh này thì gọi là Phật.
Hơn nữa, Phật chẳng phải tên gọi Vị Thánh nhân ở phương tây, mà là ta nhập được vào tự tánh chân thật của chính mình. Các vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang là bậc thiên dân tiên giác (Dân trời biết trước), nhưng thiên dân do đối đãi mà biết được, còn thánh nhân sanh ra đã biết trước. Cái giác biết này chẳng phải là giác của Phật tánh sao? Mạnh Tử bảo Nghiêu Thuấn đồng với người, chỗ đồng chính là đây. Nếu biết được giác tánh này thì mọi người đều có thể là Nghiêu Thuấn thì mọi người đều có thể làm Phật, rõ ràng là thế. Than ôi! Người đời cứ khư khư ôm cái thấy nhỏ hẹp, chưa gặp bậc chân nhân chỉ dạy, chỉ bó buộc theo tục học, cho thức ăn của tai là chính đáng, không quái gỡ sao? Cứ mờ mịt không biết về chỗ an nghi.
Dung Ngọc thưa:
- Đệ tử nhờ onn khai thị, tin biết tự tâm là Phật, tự tâm làm Phật, không cần tìm cầu bên ngoài. Nhưng con không biết yếu chỉ làm Phật, công phu hạ thủ, cúi mong thầy chỉ dạy.
Tôi nói;
- Chúng ta nếu biết tự tâm là Phật, cần phải xét nhân đâu mà làm chúng sanh? Vì chúng sanh và Phật như nước với băng, tâm mê thì Phật làm chúng sanh, tâm ngộ thì chẳng sanh là Phật như nước đóng thành băng, băng chảy thành nước, chỉ đổi tên chứ không đổi thể. Nếu mê thì chẳng giác, chẳng giác tức chúng sanh. Chẳng mê thì giác, giác tức chúng sanh là Phật. Ông muốn cầu Phật, chỉ cầu tự tâm. Tâm nếu có mê, chỉ cần nhớ Phật, Phật khởi lên tức giác, giác thì tự tánh sáng suốt, bày lộ rõ ràng, vọng tưởng tham, sân, si từ trước ngay đó như băng tiêu. Nghiệp cấu đã tiêu thì tự tâm thanh tịnh. Giải thoát không hệ lụy thì khổ biến mất, còn lại an vui, tai họa bay đi, phước đức ở lại. Chân lạc đã còn thì không tánh nào chẳng vui, phước trời theo đây hiện thì gặp gì cũng an. Chỉ có đây là an lạc chân thật, há miệng và thân có thể đến, phú quý có thể với tới sao? Đây là chỗ nói “tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”. Công phụng sự tâm không ngoài đây, vốn liếng của tịnh độ cũng không ngoài đây.
Dung Ngọc thưa:
- Đệ tử nghe dạy tâm và mắt được mở sáng như thấy đường về nhà, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng nếu cho niệm Phật là hiếu, làm sao đến cái hiếu này? Đó là chỗ còn chưa an, xin thầy chỉ dạy.
Tôi nói:
- Ngày xưa, có người con hiếu đi xa, nhà có khách đến, người mẹ mong con không thấy về bèn cắn ngón tay, người con liền đau lòng, biết mẹ đang nghĩ tới mình, bèn trở về. Mẹ cắn ngón tay màlòng con đau, tức là do cùng thể mà tâm là một vậy. Ông nếu thấy rõ được tự tâm, hốt nhiên sẽ giác ngộ tâm tức tâm mẹ. Đem cái giác của mình để giác cho mẹ, đem niệm của mình mong mẹ niệm. Mẹ đã yêu thương thân con, lại không yêu thương tâm con sao? Nếu mẹ yêu thân con thì thân lụy, tâm sẽ khổ, còn nếu mẹ yêu tâm con thì quên thân mà tâm được vui. Hơn nữa, thể của tâm mẹ và con là một. Xưa mẹ nhớ con, cắn ngón tay mà lòng con đau. Nay con nhớ mẹ quên thân, há lòng mẹ chẳng an vui hay sao? Nhưng sợ con phụng sự tâm chẳng hết lòng, tập quên chẳng đến nơi, không bằng được sự tha thiết của mẹ nhớ con, để cảm được tâm mẹ vui. Vì thế, người con hiếu ngày xưa không dùng tâm sanh, ngũ đảnh để nuôi dưỡng cha mẹ, mà mặc lấy áo sặc sỡ nô đùa. Người đại hiếu là làm vui lòng cha mẹ chứ chẳng phải nuôi dưỡng thân của cha mẹ, hiếu ở đời là thế. Nếu có thể khiến cho mẹ, trong những năm cuối cuộc đời, đem tâm quay về tịnh độ, hưởng trọn cái vui của một ngày, vẫn hơn phú quý trăm năm. Còn khiến mẹ hằng ôm lòng lo lắng, thì tuy phú quý mà cha mẹ chẳng vui, tức là vui mà lại có lý do chẳng vui tồn tại. Nay ông do niệm Phật mà có thể khiến mẹ ông vừa an lại vui, vui lại lâu, đó không phải là Vô-lượng-thọ sao. Mẹ thọ vô lượng, con cũng thọ vô lượng thì Tịnh độ do ta chứ chẳng do người, Phật tại tâm mà không ở vết tích. Ông hãy vững chí.

Dạy Thiền Nhân Tự Am Hữu Trụ Núi
       Phật dạy: “Tất cả chúng sanh lưu lãng trong sanh tử, đều do vọng tưởng điên đảo làm căn bản”. Nếu tưởng điên đảo diệt và khẳng nhận tự tâm tức là thời tiết liễu thoát sanh tử, ra khỏi biển khổ. Nếu vọng tưởng chẳng dừng thì sanh tử khó ra. Nên nói: “Cuồng tâm chẳng dứt, nếu dứt tức Bồ đề”. Chúng ta nếu quả thật có thể chóng dứt cuồng loạn thì liền ra khỏi tam giới, dẹp quân ma, ngồi giữa trời xưng là đạo nhân vô sự. Lão Diêm la mặt sắt dù có ác tâm, ra tay tàn độc cũng không mò bắt được, tha hồ ngang dọc, tự do tự tại, làm một người đại giải thoát. Thời tiết như thế thì dù gọi là Phật là Tổ cũng chẳng chịu, huống nữa là kết bầy với bọn ruồi lằn ngu ngốc trong cầu tiêu, tranh dành đồ hôi tanh, thối tha hay sao? Mười phương thế giới đều thành tịnh độ, lấy Đại Viên Giác làm già lam của ta, thân tâm trùm khắp, cùng mười phương chư Phật nắm tay mà đi, được đại tự tại. Ở đây, am tức là mình, mình tức là am. Am tức là núi, núi tức là người, không trong, không ngoài, không kia, không đây. Như thế thì trụ không chỗ trụ, đi không chỗ đi, tu không chỗ tu, mới xứng là Tự Am. Còn nếu nuôi dưỡng sự biếng lười, mê ngủ thì ba đời sáu mươi kiếp chỉ là đầy tớ kẻ khác. Hãy nghĩ đó! Nghĩ đó!

Dạy Thiền Nhân Khánh Vân
Người xuất gia cầu sáng việc lớn:
       1- Cần chân thật vì sanh tử, tâm phải tha thiết.
       2- Cần nhất chí quyết định ra khỏi sanh tử.
       3- Cần liều một đời đến chết không đổi tiết tháo.
       4- Cần thật biết thế gian là khổ, hết sức nhàm chán xa lìa.
       5- Cần gần gũi bậc tri thức cao tuyệt, đủ tri kiến chân chánh, luôn luôn thưa hỏi, vâng lời dạy dỗ, theo lời mà làm. Siêng năng chẳng lười, không bị ngũ dục phiền não ngăn chướng, chẳng bị thói quen xấu ác sai khiến, chẳng bị bạn ác lay chuyển, chẳng bị duyên ác cướp đoạt, chẳng cho căn cơ ngu độn mà sanh lui sụt. Phát tâm như thế, dốc lòng như thế, lâu dần sẽ thuần thục, tự nhiên ăn khớp với chỗ nguyện cầu xưa như hộp với nắp. Dù đời này chẳng liễu ngộ, thấy rõ tự tâm, thì trăm kiếp ngàn đời cũng lấy hôm nay làm nhân đầu tiên. Nếu không thế mà chi dùng tri kiến hẹp hòi, tập khí hèn nhát, rụt rè cầu an, muốn đem thiền đầu môi, tâm cuồng vọng, hơi dơ dục, gốc rễ tà kiến toan cho là chánh nghiệp xuất gia, lấy đây mong ra khỏi biển khổ thì vẫn là ưa nước Việt mà đến nước Yên, không chịu bước mà đòi tiến đến trước. Than ôi! Đời mạt pháp người chánh tín hiếm hoi, thiền nhân đã biết được chỗ hướng về, nên xét biết bổn tâm, lấy quyết định chân thật làm nghĩa đệ nhất. Cố gắng! Cố gắng!

Dạy Thiền Nhân Như Thường
       Phật dạy: “Từ thân xuất gia, biết được tâm, đạt được gốc, hiểu pháp vô vi gọi là Sa môn thường hành 250 giới”. Lại nói: “Đoạn dục, trừ ái, biết nguồn tâm của mình, đạt lý sâu của Phật, ngộ pháp vô vi”. Lại nói: “Cắt bỏ râu tóc làm Sa môn, thọ nhận pháp Phật, bỏ tài sản thế gian, khất thực biết đủ, ăn ngày một bửa, ngủ dưới cây một đêm, cẩn thận không trở lại. Điều khiến người trở thành ngu tệ là ái và dục vậy”.
       Những lời dặn dò tha thiết như thế đều là những điều thiết yếu để làm đệ tử Phật. Khi xuất gia, việc đầu tiên là lấy ly dục làm hạnh đệ nhất. Con cháu đời sau, thân tuy xuất gia làm tâm say trong ngũ dục, chẳng biết cái hại nào cần phải xa lìa, đạo nào là đạo ra khỏi khổ, cứ triền miên mê muội chẳng tự tỉnh giác, rồi lại giả bộ oai nghi, làm vẻ đạo đức, ngoài dối người, trong dối lòng, che đậy tỳ vết không chịu tự giác. Những này muốn được niệm chân chánh thật khó vậy!
       Ngài Tịnh Danh nói: “Trực tâm là đạo tràng”. Như Thường đã có chí cầu pháp xuất ly, nên lấy trực tâm làm điều trên hết. Trân trọng.

Dạy Thị Giả Huệ
       Phật vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện ở đời. Đó là muốn cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Mà tri kiến của Phật tức là tri kiến của chúng sanh, tri kiến chúng sanh tức là tri kiến sanh tử. Nên nói: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến tư tức niết bàn” (Trên tri kiến không có hiểu biết tức gốc vô minh. Trên tri kiến không có hiểu biết tức là niết bàn). Thế thì tri kiến của phàm và thánh không phải là hai, mà có mê ngộ chẳng đồng, lỗi ở lập hay là chẳng lập. Tổ sư nói: “Nếu lập một trần, nước mất nhà tan”. Vì tri kiến vốn không phàm thánh, nếu có lập, tức có ngã. Có ngã thì các chướng chóng nổi lên, không ngã thì muôn pháp lặng lẽ. Vậy ngã là gốc rễ sanh tử. Đâu phải riêng phàm phu tạo tham sân si mà bị ngã làm chướng tất cả thánh nhân, những người tu hành nếu tri kiến chưa quên đều thuộc ngã chướng. Hơn nữa, vì gốc sanh tử khó nhổ, nên trong hai chướng có thô tế chẳng đồng. Thô thì dễ đuổi, tế thì khó trừ. Vì rễ tri kiến trong tâm khó nhổ, nên kinh nói: “Còn ngã giác ngã đều là chướng ngại”. Đây chính là Tri Kiến Lập Tri tiềm ẩn sâu xa như tính mạng, chẳng thể đoạn dứt. Do đó cổ nhân hai ba mươi năm tham học, dù cho ngộ được tự tánh đầy đủ như trăng sáng nơi đầm lạnh, tiếng chuông đêm vắng tùy ý gõ đánh không hề khuyết, chạm ba đào mà không tan, cũng vẫn là việc đầu bờ sanh tử. Đây là chỗ người xưa thật chẳng tự dối. Nếu tự dối mình dối người thì tự mình bị hoại và làm hoại người vậy.
       Thị giả Phước Huệ sớm theo hầu lão nhân xuất gia. Lúc mới gặp lão nhân, ông là một người xuẩn xuẩn, biệt đi mười năm lại càng xuẩn xuẩn thêm, nhưng thường vui vì trong cái xuẩn xuẩn có chỗ tỉnh tỉnh không xuẩn” này làm mạng căn. Nay đã được năm năm, cái xuẩn này ngày càng tăng, cái không xuẩn cũng âm thầm lớn lên. Do đây, người ta thấy thị giả xuẩn, thị giả cũng tự thấy mình xuẩn càng thêm xuẩn, mà người người chẳng tự biết đó là xuẩn. Hạ năm nay, lão nhân từ Tây Việt trở về núi, thị giả chợt ra khỏi tình trạng xuẩn, lão nhân cả cười. Cái xuẩn này không còn có lúc ló ra được nữa. Nếu bảo đây là người xuân lập xuẩn là đã lỗi rồi. Nếu có thể lấy xuân này làm chỗ thọ dụng cũng có lẽ tự đủ, cũng có thể liễu thoát sanh tử, cũng không phụ việc xuất gia hành khước. Còn nếu lấy đây để lập thêm cái xuẩn thì bịnh chẳng khác gì Tri Kiến Lập Tri. Thị giả nếu có thể đẩy ngã cái xuẩn này thì chẳng lo gì không được cùng lão nhân kết chặt lông mày.

Dạy Đặng Ti Trực
       Phật tổ ra đời thuyết pháp Bát nhã, dạy người tu hành phải lấy Bát nhã làm gốc, Bát nhã là tiếng Phạn, nghĩa là trí tuệ. Trí tuệ này là Phật tánh sẵn có của chúng ta. Còn gọi là tự tâm, tự tánh. Thể này xưa nay không mờ nên nói Quang minh, xưa nay rộng lớn bao dung nên nói là Hư không, xưa nay không vọng nên nói Nhất chân, xưa nay không động không biến nên nói Chân như, như như, xưa nay viên mãn không đâu chẳng chiếu nên nói Viên giác, xưa nay tịch diệt nên nói Niết bàn. Chư Phật chứng ngộ trọn vẹn nên nói Đại giác, còn gọi là Bồ đề. Vì chư Phật xử dụng nên là thần thông diệu dụng. Bồ tát tu gọi là diệu hạnh. Nhị thừa đắc gọi là giải thoát. Phàm phu mê thì là vọng tưởng nghiệp thức, từ đó phát ra tham sân si kiêu siêm khi trá, tạo nghiệp dâm sát vọng trộm, kết quả là các thứ dụng cụ đau khổ: dao, cưa, sắt, mài cho đến vặc dầu, đỏ than v.v… đến từ tâm mình biến hiện. Chính như người đang tỉnh táo vô sự, trước mắt có các việc vui vẻ, bỗng chợp mắt ngủ mê, mộng thấy chịu đủ đắng cay khổ sở ở địa ngục, với các việc khổ khó kham khó nhẫn. Ngay lúc muốn cầu cứu mà chẳng thể được đó, khách ngồi trước nhà vẫn còn tro chuyện huyên náo chưa dứt. Giật mình tỉnh giấc, ngáp dài mà dậy, thấy cảnh vui vẻ rõ ràng trước mắt, rượu còn ấm, đồ nhắm còn nóng. Chưa rời khỏi gối chiếu mà cảnh khổ vui đã chóng đổi khác. Điều cốt yếu là vui thì từ ngoài đến, khổ từ trong ra. Do đây mà xem thì thuyết thiên đường, địa ngục rõ ràng xuất hiện ở tâm mình, có gì là hư huyễn, kỳ quái? Đó đều vì mê mờ tâm mình mà ra cả. Kinh nói: “Tự tâm giữ tự tâm, không phải huyễn mà thành pháp huyễn”. Lại nói “Pháp trong ba cõi trên dưới đều chỉ một tâm tạo”. Xét đó thì đâu phải riêng Phật pháp nói nhất tâm, Thánh hiền từ trước cho đến cả chín dòng dị thuật cũng đều từ một tâm này mà thành, chỉ có lớn nhỏ, nhiều ít, lành ác, tà chánh, sáng tối không đồng nên chỗ dùng khác nhau. Nên nói: “Sơn hà đại địa toàn lộ thân pháp vương. Vảy vỏ, cánh lông đều hiện sắc thân tam muội”. Đây đều là chân quang của Bát nhã, bóng dáng của tự tâm chúng ta.
       Tâm thể sẵn có của chúng ta xưa nay bao dung rộng lớn, thanh tịnh quang minh như vầy, các cảnh tượng màu sắc trước mắt xen lẫn chập chùng, bốn bề la liệt lại đều là tâm ta hiện như thế. Chúng ta có cái tâm này mà chẳng biết, thật đáng thương! Lại còn ôm giữ những thứ do tâm hiện, cho là chỗ vui thích đáng yêu. Mắt hài lòng với sắc đẹp, tai thích tiếng dâm, mũi thích mùi thơm, lưỡi thích vị ngon, thân ưa xúc chạm, tâm ưa các pháp. Chúng đều từ tâm mà ra, mình lại giữ lấy cho là sung sướng, rồi tham sân si, tạo các thứ huyễn nghiệp dâm sát trộm vọng, chiêu lấy sự khổ kịch liệt trong tam đồ ở đời vị lai, như người mộng du không tịnh, không rất đáng thương sao?
       Vì tâm này cùng chư Phật đồng thể không hai, lịch đại Tổ sư ngộ rõ chẳng khác. Riêng có chúng ta đầy đủ mà chẳng biết. Như đứa con thơ bỏ trốn quên đường trở về, cha mẹ nhớ thương tìm kiếm. Do đó, đức Thích Ca ra đời, tổ Đạt ma từ Ấn Độ sang, cho đến ba mươi năm thuyết pháp ở Tào Khê, rồi chư Tổ có một ngàn bảy trăm công án đầy đủ để chỉ dạy người, đều là việc này vậy.
       Kinh nói: “Chỉ một việc này là thực, có cái thứ hai thì chẳng phải chân”. Như vậy, ngoài một việc này, tất cả đều là lời của ma, là hý luận. Thế thì chư Phật chứng đủ mà không xuất thế thì cô phụ chúng sanh, chư Tổ ngộ mà không xuất thế thì cô phụ chúng sanh, chư Tổ ngộ mà không thuyết pháp thì cô phụ chư Phật, còn người có nghe mà không tin, không hiểu, không nhận, không hành thì cô phụ chính mình. Phụ chúng sanh thì kiêu mạn, phụ chư Phật thì đọa, phụ chính mình thì ngu si. Vậy thì có thể phụ Phật Tổ mà không thể phụ chính mình, vì sẵn có mà chẳng cầ, đầy đủ mà chẳng khéo dùng, ví như cầm châu báu mà đi ăn mày, không rất đáng thương sao?
       Nay Ti Trực thân chạm biển trần, tâm đọa đường mê, bổng nhiên mảnh tỉnh, quay đầu tìm cầu việc này, giống như đứa con cầm châu báu hổ thẹn sống chung với bọn ăn mày, cứ hướng về người để cầu no đủ. Lão nhân vội đem pháp này chỉ thẳng cho, rõ ràng chỉ cho thần châu trong áo, nguyên là Ti Trực đã có sẵn, chứ chẳng phải lão nhân nắm đưa để lấy cảm tình. Nhưng bảo châu như ý này, tùy chỗ cầu mà ứng, các thứ sự nghiệp, hoàn cảnh nhận dùng chẳng chút thiếu thốn. Đến như cầu phương pháp để được đáp ứng thì cũng ở tự tâm của Ti Trực, nhờ sức khéo léo siêng năng, khắc khổ. Nếu quả có thể tự nhận, cực lực tự cầu, một ngày nào đó hoát nhiên đại ngộ thì một miệng có thể hớp hết sông núi, đất đai, các loài vẩy, vỏ, lông, cánh cùng chư Phật ba đời, lịch đại Tổ sư, và cả sự nghiệp của Nghiêu, Trăn, Chu, Khổng, chẳng nhờ vào sức ai khác. Nếu không có y như cũ, chỉ là một chúng sanh mộng tưởng điên đảo, lấy cái gì mà xưng là đại trượng phu?
       Ti Trực! Ti Trực! Ông tha có thể trên phụ Phật Tổ, dưới phụ lão nhân, muôn vạn lần chớ phụ chính mình, phụ vua, phụ người thân. Lão nhân hôm nay thuyết Bát Nhã, đều là pháp môn tâm địa của chư Phật Tổ ngàn xưa, tức là cùng với lời đại sư Lục Tổ thuyết đầu tiên. Đã đem một người sánh với một ngàn hai trăm chúng ngày xưa, lão nhân hoan hỉ khôn cùng nên cũng vì ông thuyết Bát nhã. Như Phật Tổ của chúng ta đã nói: “Như vì một người, vì chúng đông cũng thế”. Đặng Sinh giữ lấy điều này để tự lợi mình, lợi người, chưa chắc không phải là lưỡi rộng dài đâu nhé!

Dạy Hành Nhân Khoan Lưỡng
       Người xưa vì sanh tử đi hành khước. Người nay chỉ hành khước mà không biết sanh tử, rất đáng thương! Đó là dùng hàng ngày mà chẳng biết vậy. Lỗi tại không biết mình sẵn có, nêế người biết có, liền biết tự trọng, thì Kadampa bị vật chuyển mà có thể chuyển được vật. Có câu thơ: “tâm ta chẳng phải đá, không thể chuyển”. Phải biết nếu không phải tâm địa kim cương thì đều bị vật chuyển, đã bị vật chuyển thì đi theo nó, còn xưng là nạp tử hành khước được sao?
       Khoan Nhưỡng từ Bắc đến Nam, tới đây tức là đã an ủi ta vậy. Oôg không bị chuyển vì đường xá gian nan, đói lạnh khổ sở. Lão nhân chỉ biết gót chân này cứng nên gọi là Chân Sắt, nay thấy tâm ông chẳng đối, nên lại đem hai chữ Lòng Sắt khen ông. Nhưng lòng sắt là lão nhân biết, còn việc hành khước thì nhất định ông không biết. Nếu biết hành khước thì chẳng thình lình đi thẳng như thế. Lão nhân thương ông ngu, sợ ông không biết nên gởi thư này cho ông. Hành khước nữa đi! Nếu sau này rờ chẳng nhằm lỗ mũi, ngày nào đó chắc chắn khó gặp được như ngày hôm nay.

Dạy Chu Sướng Nhụ
Chu Tử thỉnh ích tông chỉ pháp tướng. Lão nhân nhân đây nêu bài tụng Thức Trí của Lục Tổ:
Đại viên cảnh trí, tánh thanh tịnh.
Bình đẳng tánh trí, tâm vô bịnh
Diệu quan sát trí, tánh phi công,
Thành sở tác trí đồng Viên cảnh.
Ngũ, bát, lục, thất quả nhân chuyển
Đản chuyển danh ngôn vô thực tánh,
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình,
Phồn hưng vĩnh xứ Na-già định
Dịch:
Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh
Bình đẳng tánh trí tâm không bịnh
Diệu quan sát trí, thấy không công
Thành sở tác trí đồng viên cảnh.
Năm, tám, sáu, bảy chuyển quả nhân
Chỉ chuyển tên gọi không tánh thực.
Nếu ở chỗ chuyển chẳng lưu tình
Xứ sở đông đúc thường đại định.
       Tám câu này đã phát ra hết cốt tủy cỷa tân Phật Tổ, nêu bày căn nguyên tánh tướng. Thường thường bọn đếm của báu, đếm số cát ham nhai cho nhiều ma chẳng nát, xem qua cho là đồ chơi, không chịu ngó kỹ, thật đáng thương xót. Hoặc cho là Lục Tổ không biết chữ, chẳng thông kinh, dựa vào đâu mà nói thế này? Họ đâu biết rằng huệ mạng của Phật Tổ chỉ gồm trong tám chữ này không sót, đó là: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Vì duy tâm nên ba cõi lặng lẽ, trọn không một vật, vì duy thức biến hiện nên cầu tự tâm, tự tánh ở đó đâu thể được. Do đó Phật Tổ dạy người, chỉ nói: ngoài tâm không một mảy may nào có được. tức là ở Hoàng Mai nửa đêm lộ ra “xưa nay không một vật”. Tức một lời này, mười phương ba đời chư Phật, lịch đại Tổ sư chẻ ra chẳng bể, nên y bát dừng lại Tức hai phái, năm tông đều từ một lời này tuôn ra, đâu từng có phân chia tánh hay tướng? Và tôi xem bài tụng Thức Trí, giải thích sơ lược:
       Nếu trong ba cõi duy tâm, thì không có chỗ mở miệng. Do mê, tâm này biến thành thức nên mất tên Chân như, chỉ gọi là thức A lại da, cũng gọi là Tàng thức. Thức này là toàn thể chân như biến ra. Đây chính là chỗ nói sanh diệt cùng bất sanh diệt hòa hợp mà thành. Đây là căn bản của chơn vọng, mê ngộ, gốc của sanh tử, phàm thánh. Kinh Lăng Già nói: “Biển tàng thức thường trụ, gió cảnh giới làm động, sóng mòi vỗ nơi hang tối, không có lúc đoạn dứt”. Đã nói tàng thức tức A lại da mà lại nói thường trụ thì vốn là không động, chỗ động không phải tàng thức mà là gió cảnh giới vậy. Kệ nói:
       “Cảnh trước nếu không, tâm cũng không”. Thế thì chấp giữ cảnh giới không phải là tàng thức mà là tâm sanh diệt. Tâm sanh diệt này gượng gọi là thức thứ bảy, kỳ thực là sự động niệm của thức thứ tám. Nghĩa là sanh cơ. Nếu cơ này dứt, tiền cảnh (cảnh trước mắt) liền trở thành không, thức thứ sáu dù hay phân biệt cũng không bám vào đâu được. Như năm thức trước vốn không có thể riêng, chỉ là cái dụng ứng duyên của tàng thức, chỉ hay chiếu cảnh chứ không thể phân biệt, nên nói đồng viên cảnh. Phân biệt năm trần không phải là năm thức mà là ý thức đồng thời, nên ý thức giữ lấy công. Nếu không khởi phân biệt thì thấy không công. Do đây mà quán, tàng thức vốn chân nên nói tánh thanh tịnh, lỗi ở một niệm sanh tâm, đó là tâm bịnh. Có sanh thì có diệt, duy cái sanh diệt này như dòng nước, chẳng phải ngoài nước có dòng riêng, nhưng tánh nước không dừng nên thấy có dòng, có dòng thì không phải vực sâu, rõ rồi vậy. Nên Lăng Già có nêu hai loại sanh trụ diệt là: tướng sanh trụ diệt và lưu trú sanh-trụ-diệt. Hai loại sanh diệt này đều thuộc tàng thức. Sanh diệt không diệt thì bảy thức trước sanh, sanh diệt nếu diệt thì chỉ một tinh-chân. Tánh chân-như này tự hồi phục lại. Phục lại thì thức chẳng gọi là thức mà gọi là trí, nên nói tâm không bịnh.
       Bài tụng của đại sư Lục Tổ căn cứ theo chuyển tám thức thành bốn trí: đại-viên-cảnh-trí là tàng thức chuyển, bình-đẳng-tánh-trí là thức bẩy chuyển, diệu-quan-sát-trí là thức thứ sáu chuyển, thành-sở-tác-trí là năm thức trước chuyển. Vì vọng thuộc về dụng của tàng thức, nên chân cũng đồng viên cảnh. Nhưng hai thức sáu và bảy chuyển trong nhân trước, còn các thức năm và tám một thể đến quả mới tròn. Như thế mà quán thì thức vốn không thực, vọng có hai tác dụng, nên nói chỉ chuyển tên gọi mà thôi, đổi tên không đổi thể. Thể này lại chẳng do thiền định, tu hành, chỉ ở chỗ dùng hàng ngày, tất cả phàm thánh đồng thời chuyển, chỉ ở trong chỗ lưu tình hay không lưu tình mà có mê ngộ, phàm thánh sai khác.
       Chu Tử có chí ở đây, phải thật lòng hướng vào chỗ chuyển việc làm hằng ngày mà để mắt. Thử đảm đương xem!

Dạy Lưu Bình Tử
       Hướng về đạo chẳng khó mà khó ở phát tâm. Học đạo chẳng khó, mà khó ở cầu bên ngoài. Hội đạo chẳng khó, mà khó ở giản trạch (chọn lựa). Vào đạo chẳng khó mà khó ở chỗ tự cho là đủ. Ngộ đạo chẳng khó mà khó ở chỗ cầu huyền diệu. Người học đạo ở đây mỗi mỗi khám phá ra được thì chẳng bị người lừa, tâm thênh thang, thần vui vẻ, thư thái bươớ một mình. Đây là bậc thông huyền vậy.
       “Tánh tương cận, tập tương viễn”, lời này chỉ thẳng đường tắt tu hành từ ngàn xưa. Chúng ta nếu biết tự tánh vốn gần chỉ do tập khí làm xa, thì chóng có thể chận dứt cửa bến trọng yếu. Tập khí bên trong không cho ra, tập khí bên ngoài không cho vào, ngồi dứt hai đầu, ở giữa đậc lập. Chỗ một mình trơ trọi chính là “như có chỗ đứng cao vót”.
       Tử Dư có nói: “Đạo học vấn không có gì khác, mong là buông được tâm mà thôi”. Tuy nhiên cũng có tâm chưa từng chẳng cầu mà người học hỏi vẫn chẳng sáng. Sao vậy? bịnh tại không buông mà buông, cầu mà chẳng cầu lờ mờ phảng phất, xem nó thì 4 thước giống 6 thước. Nếu biết không buông mà buông thì tự chẳng buông, cầu mà không cầu tức là chân cầu. Tử Dư minh tâm kiến tánh, chỗ truyền riêng chỉ thẳng chỉ là đây mà thôi. Người có chí hướng về đạo nên lấy đây làm tiêu chuẩn.
       Đạo ở chỗ dùng hằng ngày mà chẳng biết. Đạo ở trước mắt mà không thấy. Vì chỉ biết việc hằng ngày mà không biết đạo, thấy trước mắt không thấy đạo. Chẳng phải đạo xa người mà người tự xa đạo, nên nói: “Đạo ở trước mắt, chẳng phải là trước mắt. Pháp cũng chẳng lìa trước mắt, nhưng chẳng phải chỗ tai mắt đến được”. Nếu có thể thấu qua cái trước mắt, thì chẳng phải bị lôi kéo theo cảnh khen chê, thuận nghịch, xoay mình đi thẳng. Dụng tâm như thế thì thánh nhân chẳng ở ba đời, xưa nay không lìa một niệm. Ông có chí hướng về đạo, lúc mới phát tâm neê theo đây mà vào.

Dạy Lương Đằng Tiêu
       Bậc quân tử xử thế, ngay lúc chưa gặp thời, ai cũng có chí nguyện phò vua, giúp dân, xây dựng sự nghiệp bất hủ. Đến lúc lên làm quan, chỉ lo để tâm lập danh tiếng, quên mất lý do lập công, lâu ngày nhiễm dần thói tục, tâm thần bị vẩn đục, bất giác trôi vào đường phú quý, đến nỗi danh dự cũng không có chỗ kiêng dè. Xét lại tâm ban đầu, chẳng thể được. Sao vậy? Vì chí nguyện đầu tiên không đặt trên căn bản thực tế mà đến, chỉ là vọng tưởng hâm mộ phù phiếm mà thôi, vốn không phải chỉ kiên cố không lay chuyển được, thì đâu có thể lập nên sự nghiệp bất hủ! Lương sinh Đẳng Tiêu xương cứng, khí khoáng dật, thật chẳng phải là người trong phong trần. Mỗi lần đi theo tôi, nghe câu nào, chữ nào cũng kinh tâm lo sợ. Lúc rảnh thường thưa hỏi, tôi bảo:
       Người học phải nên cầu chí ở đạo đức, phàm để chí ở đạo đức, trước hết phải nghiên cứu căn bản thực tế của chúng ta thiết yếu từ chân tánh lưu xuất. Chân tánh này rất rộng, rất lớn, quang minh, thanh tịnh, mảy bụi cũng quét sạch. Thể tánh của ta đây tức là nhân. Trong thể này một hạt bụi cũng chẳng lập. Nếu có một niệm vọng tưởng liền có ngã. Có ngã thì đối đãi với vật. Vật ngã đã phân thì ta-người hai bên đều lập. Ta-người đã lập thì thể đại đồng bị mờ mịt, bít lấp, là nhân sao được? Bổn thể bị bít lấp mờ mịt thì làm đủ các vọng. Dù có chí công danh, đều từ vọng tưởng phát huy, có hành động gì đều chẳng phải chân thật, căn bản đã vọng thì gót chân chẳngổn. Do đó một lần nhập vào duyên đời là nhiễm liền thói tục. Lương sinh tử nay nên làm công phu tự tánh, tham cứu căn bản từ thực tế, chỉ đem câu Không Nghĩ Thiện, Không Nghĩ Ác, ngay lúc đó thế nào là Bản Lai Diện Mục của Thượng Tọa?” của Lục Tổ chứa ở trong ngực suốt mười hai thời khẩn thiết tham cứu. Tham đến chỗ một niệm chẳng sanh, hốt nhiên biết được bổn lai diện mục, mới thấy Lão Lư chẳng lừa dối ta.

Dạy: Thiền Nhân Tịch Giác Lễ Phổ Đà
       Thiền nhân Tịch Giác sắp về phương Đông lễ Phổ Đà, xin dạy một lời quan trọng để hành khước. Lão nhân dạy rằng:
       Người xưa xuất gia đặc biệt vì việc lớn sanh tử nên đi các nơi hành khước, tham phỏng thiện tri thức, lên núi xuống sông, đến lúc triệt ngộ mới thôi. Nay người xuất gia mang suông cái tên hành khước, năm nay lên Ngũ Đài, Nga My, sang năm đến Phổ Đà, Phục Ngưu. Miệng nói là viếng danh sơn, tùy hỉ đạo trường, kỳ thực không biết danh sơn là vật gì? Đạo trường là việc gì? Lại chẳng biết người nào là thiện tri thức. Chỉ nhớ non cao, nước sâu, cháo cơm tùng lâm ngon dở mà thôi, cứ lo chạy khắp thiên hạ, không có một lời trở về núi nhà cửa, chẳng đáng thương sao?
       Biển Nam không bờ là biển sanh tử sóng trôi, màu núi Phổ Đà là pháp thân Đại-sĩ thường trụ, biển động tiếng hải triều là đại-sĩ Phổ Môn thuyết pháp. Thiền nhân nếu quả muốn qua biển sanh tử, gặp Đại-sĩ ở phổ môn, nghe pháp âm ở bờ biển, thì hãy nghe ngược lại tự tánh, không cần ra khỏi cửa một bước, hà tất phải đợi đến Phổ Đà mới thấy! Nếu chưa như thế, đường lộ xa xôi, tới lui uổng phí, Đại-sĩ có hiện trên đỉnh đầu cũng chẳng nhổ nghiệp căn sanh tử cho ông được. Thiền nhân tự nhận định xem! Nếu Đại-sĩ có nói lời gì, trở về kể lại cho Lão nhân nghe. Cẩn thận chớ để uổng phí tiền giày cỏ.

Dạy Lương Trọng Thiên
       Lương Tứ Tướng tự là Trọng Thiên, theo Lão nhân đi cả năm. Lão nhân mến tâm ông chất trực, khẳng khái. Mỗi lần thấy việc bất bình, chẳng kể làm được hay không, nếu là việc nghĩa có thể làm thì ông buông bỏ thân mạng mà gánh vác. Mỗi lần như thế, lão nhân đều trách ông nông nổi, vì có đạo thể mà thiếu công hàm dưỡng, gìn giữ đức hạnh, như cỡi tuấn mã mà không có giây cương, chẳng khỏi bị ngã ngựa.
       Lão nhân sắp đi, đưa nhau lên thuyền Thiều Dương, ông thỉnh pháp ngữ để sửa mình. Tôi bèn viết lời này gởi ông. Tôi bảo:
       Lương Tử có đạo, chất thực không quanh co, đây là gốc đạo vậy. Khẳng khái gần như dũng mãnh, hấp tấp gần như từ bi, quên mình để theo là không lượng sức. Chẳng xét rõ quyền biến, chẳng tìm gốc mà lo ngọn, đều do khí sốc nổi sai khiến, chẳng phải do đạo lực phát ra. Thánh nhân đời xưa giao thiệp với đời, có thể và dụng hoàn toàn, nên ứng cử đúng lúc gương sáng soi rõ đẹp xấu, cân nhắc để định khinh trọng, thật chẳng phải lạm dụng khí huyết. Lương Tử từ nay về sau trước hết nên tẩy trừ tập khí, dụng tâm sâu vào đạo, đem câu “Bổn lai vô nhất vật” của Lục Tổ đặt trong ngực, giờ giờ khắc khắc để ý chỗ niệm khởi, không luận thiện ác, cứ đem thoại đầu đập một phát, ngay đó tiêu vong. Ông hãy miên miên mật mật, đem thoại đầu này làm bổn mạng nguyên thần, lâu ngày thuần thục tự nhiên tâm cảnh rỗng rang. Hễ gặp động tĩnh lăng xăng thì thoại đầu hiện tiền liền, tức là chiếu dụng phân minh chẳng loạn, định lực gìn giữ, tự không rơi trong giới lỗ mãng thô phù, chẳng chuyển theo gót người. Tức là đọc sách viết văn cũng không ngại bổn tham đọc xong, viết xong, buông xuống thì lại trở về “Bổn Lai Vô Nhất Vật”, tự nhiên trong ngực bình bình bén sát, lâu ngày chợt thấy vốn không tâm thể, như ở trong kho quang minh, khắp các lỗ chân lông đều là sự nghiệp lợi sanh, lại còn thân mạng nào để buông bỏ? Dụng tâm như thế, gìn giữ trưởng dưỡng, tâm tính sẽ hiện tiền, xem sách tức cùng thánh nhân tâm tâm soi chiếu, viết văn là từ tự tánh tuôn ra. Đây là việc đúng khả năng của bậc trượng phu khẳng khái. Nghĩa là chốt cửa đã được vào khớp, đã được ứng dụng vô cùng, thì chỗ kiến lập công nghiệp đều thành bất hủ. Lương Tử đã có căn bản, lại lo gì mà chẳng làm đi!

Dạy Lưu Trọng An
       Tôi ở Ngũ Dương, một thưở có chúng đi theo, gặp được Lưu Tử, xương cứng, khí vận hồn hậu, có thể bảo là xưa đã đủ duyên Bát Nhã, có chủng tử gần với đạo. Tôi sắp đi Nam Nhạc, Lưu Tử đưa đến thuyền, xin chỉ dạy thưa:
- Đệ tử đạo tâm rất tha thiết, nhưng vì tập khí cũ nồng hậu, bị vọng tưởng quấy nhiễu, không thể buông bỏ ngay mà hướng thượng. Mong Thầy chỉ dạy.
Tôi bảo:
- Ông biết vọng tưởng thì vọng tưởng tự nó không thể quấy rối. Đã gọi là vọng tưởng thì vốn không có thể thật, ví như hoa đốm ở hư không, đâu thể kết thành trái ở hư không được? Do ông không đạt vọng tưởng vốn là không, cho nó là pháp thực, cùng nó đối đãi, niệm niệm chen lẫn, dồn dập tuyệt không có lúc một niệm dừng nghỉ. Thế thì chỉ do vọng tưởng làm chủ mà bổn thể bị chôn vùi, vì thế thấy đến đạo rất khó. Há ông không thấy tăng hỏi Cổ Đức:
- Lúc vọng tưởng chẳng dừng thì thế nào?
Cổ Đức nói:
- Vọng tưởng chẳng ác.
Lục Tổ ở trên hội ngài hoàng Mai, chỉ nói câu: Bổn Lai Vô Nhất Vật. Ông từ hôm nay dụng công phu, chỉ nên đem câu Bổn Lại Không làm thoại đầu, trong 12 giờ thiết tha tham cứu. Chỉ cần xem chỗ khởi của vọng tưởng, chớ lưu chuyển theo nó, ngay đó đánh một cái, tự nhiên quét sạch mọi dấu vết.