Chứng Đạo Ca Trực Chỉ Đề Cương
Nguyên tác: Huyền Giác Thiền Sư
Biên dịch: Từ Thông Thiền Sư
Sài Gòn 1998 – 2543
THI CA 10 - CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO: NHỮNG PHÚT
Phiên âm:
Thường độc hành, thường độc bộ
Đạt giả đồng du Niết bàn lộ
Điệu cổ thần thanh phong tự cao
Mạo tụy cốt cang nhân bất cố
Dịch nghĩa:
* Tôi chấp nhận cô đơn trên đường đạo
Vui một mình, vui theo nhịp bước chân đi
Tôi những mong có pháp lữ chung lòng
Cùng tiến bước vào Niết-bàn thường lạc
* Không như ý, tôi nguyền làm người cổ lỗ
Sống theo mình, sống với gió mát trăng thanh
Dù xương trơ, thân đét, thịt teo gầy
Không ân hận, tôi vui với lập trường kiên định ấy.
---o0o---
TRỰC CHỈ
Những phút giây TỰ NHỦ của tác giả CHỨNG ĐẠO CA, HUYỀN
GIÁC, nói lên ý chí quyết liệt và xác định lập trường kiên định của mình
trên con đường hành Đạo. Thực vậy, tu hành mà không có mục tiêu cho ý
chí vươn lên, không có lập trường để định hướng cho hành động, để rồi bạ
đâu theo đó, "vui đâu chúc đó", "nghe đâu tin đó" thử hỏi một cuộc đời như
thế con người đó sẽ ra sao?
Xác định lập trường là việc cần
Ý chí quyết liệt cũng là việc cần
Chấp nhận cô đơn cũng lại là việc cần.
Nhưng người tu hành cũng không biến mình trở thành một con người lập
dị. Lập dị là một thói xấu trong muôn ngàn thói xấu. Cho nên lập trường của
tác giả: có thể "cô đơn", có thể "vui một mình", nhưng rồi:
"… Tôi những mong có Pháp lữ chung lòng
Cùng tiến bước vào Niết-bàn thường lạc…"
Chưa hết, nếu ý chí đó, lập trường đó mà không được toại nguyện, vì một
lý do gì đó thì tác giả lại xác định lập trường thêm một bước nữa: Tác giả có
thể trở thành người lang thang nơi thâm sơn cùng cốc hoặc lê bước chốn cơ
nội hoa đồng để được sống cho lý tưởng của mình mà mình đã vạch ra bằng
bao nhiêu nhọc nhằn trên những năm tháng dài tu học.
Tác giả bằng lòng với cuộc sống đó:
"… Không như ý, tôi nguyện làm người cổ lỗ
Sống theo mình, sống với gió mát trăng thanh"
Cuối cùng, tác giả nâng lập trường lên một cấp cao hơn để "kiên định
hóa" ý chí của mình trở thành như một lời tuyên thệ:
"… Dù xương trơ, thân đét, thịt teo gầy
Không ân hận, tôi vui, với lập trường kiên định ấy"
---o0o---
THI CA 11 - CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỚI DANH
XƯNG BẦN ĐẠO
Phiên âm:
Cùng thích tử, khẩu xưng bần
Thực thị thân bần đạo bất bần
Bần tắc thân thường phi lũ hạt
Đạo tắc tâm tàng vô giá châu
Vô giá châu, dụng vô tận
Lợi vật ứng cơ chung bất lận
Tam thân tứ trí thể trung viên
Bát giải lục thông tâm địa ấn
Dịch nghĩa:
* Người thích tử với danh xưng BẦN ĐẠO
Thân có BẦN, ĐẠO có BẦN chi!
BẦN biểu hiện áo khâu áo vá
ĐẠO không BẦN, tâm chứa NHƯ Ý châu (1)
* Ngọc NHƯ Ý, dùng sao cho hết
Nó chứa đầy TỨ TRÍ (2), TAM THÂN (3)
Vẹn LỤC THÔNG (4), BÁT GIẢI (5) cùng tròn
TÂM ĐỊA (6) sáng độ sinh vô cùng số.
---o0o---
TRỰC CHỈ
Người đạo sĩ trong đạo Phật hoặc cũng có hàng đạo sĩ không phải đạo
Phật, thường tự xưng BẦN ĐẠO. Bần đạo là cái từ khiêm tốn nhún nhường,
về kiến thức, đạo hạnh và phước đức… của một đạo sĩ. Nhưng theo tác giả
Chứng Đạo Ca thì người đạo sĩ của Phật giáo phải là người giàu chứ không
được nghèo. Người đạo sĩ phải phát hiện Như Ý châu vô giá của mình để lợi
vật ứng cơ trên đường sự nghiệp.
Người đạo sĩ "Thân bần", "Khẩu bần" có lợi hơn. Nhưng tâm thì không
thể "bần". "Thân bần", "Khẩu bần", hạn chế ngã mạn cống cao để tiến tới
diệt trừ cái "bản ngã", vĩ đại tiềm phục trong A-lạy-gia thức của con người
muôn thuở. Đạo tâm không thể "bần", cần có đủ những chất lượng như: Tam
thân, tứ trí, bát giải, lục thông… và nhị đế dung thông tâm địa ấn nữa. Được
vậy, mới thuyết pháp độ sinh, lợi mình, lợi người, mới là vị "thầy" đúng
nghĩa của người "bần tăng" trong dòng thích tử. Cho nên người Thích tử:
… "Khẩu xưng BẦN, ĐẠO bất bần"
Cái Bần của người Thích tử nghèo biểu hiện mặc áo chấp "phước điền
y". BẦN để làm ruộng phước cho chúng sanh, chớ không BẦN để than van,
cầu cạnh, để "quyên tởi" quá nhiều cách ấy.
Theo ý chí của tác giả Chứng Đạo Ca, Huyền Giác thì BẦN ĐẠO của
dòng họ Thích, là con người thân BẦN, khẩu BẦN còn tâm ý phải là đại
phú, phải phát hiện NHƯ Ý châu vốn có của mình thì sự nghiệp mình mới
rạng rỡ, mới xứng đáng ít nhất là "trung lưu chi sĩ" đó là cơ hội, là điều
kiện… "Báo Phật ân đức của mình".
---o0o---
THI CA 12 - CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VỀ CHỦNG
TÁNH VÀ CĂN CƠ
Phiên âm:
Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu
Trung hạ đa văn đa bất tín
Đản tự hoài trung giải cấu y
Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tiến?
Dịch nghĩa:
* Rồi tất cả, khỏi tu không cầu chứng
Đó là hạng Đại thừa, Thượng sĩ tối lợi căn
Diệt KIẾN TƯ diệt sạch hết cái TRIỀN
Rồi tất cả, mà khỏi để tâm tu chứng
* Bậc Trung hạ, những căn cơ thấp kém
Học thì nhiều, học trích cú tầm chương
Luôn mồm khoe, học vị với văn bằng
Cởi áo bẩn, còn không biết đường mở nút!
---o0o---
TRỰC CHỈ
Đứng bên "bình đẳng môn" thì Phật tánh ai cũng có như ai. Đứng bên
"sinh diệt môn: thì vấn đề CHỦNG TÁNH, CĂN CƠ, góp phần rất quan
trọng cho sự "nhất quyết" "nhất thiết liễu" của người tu hành. Phải cương
quyết, phải nhất quyết, quyết định cho mình một hướng đi, một mục đích
đến mà không thể do dự, phân vân bán nghi bán tín, bởi vì NGHI là một
trong "Tư hoặc", trong "Thập sử", trong "Ngũ cái". Một khúc gỗ ở thượng
nguồn, muốn trôi đến biển cả phải vượt qua năm điều cấm kkhông được
trôi tắp hai bờ. Không để cho người vớt. Không theo nước xoáy mà thôi.
Không vướng vào cồn đảo. Tự nó không ruỗng mục bên trong. Phải thẳng
tắp mà trôi mới ra biển được. Chần chờ, do dự "không nhất quyết" thì không
đến đích giải thoát giác ngộ được. Vì còn vướng, còn "tắp" chưa chịu trôi!
Học theo kiểu tầm chương trích cú, học hiểu để ngâm phong vịnh nguyệt,
uốn ba tấc lưỡi nói chuyện trên mây, trên "trời" để dọa hù những người cả
tin nhẹ dạ. Với cuộc sống của tự mình, việc làm, chuyện nói rặt mùi ám
chướng u mê. Hở môi ra thì khoe khoang học vị văn bằng. Chạm mặt với
phiền não đành nằm gác tay lên trán mà chịu đựng cho lương tâm hành hạ.
Miệng oang oang nói về Cực lạc, Thiên đàng lòng u uẩn đắm chìm trong A
tỳ ngục.
Đó là cái học của kẻ "hạ lưu". Dưới nhãn quan của tác giả Chứng Đạo
Ca, vấn đề Chủng Tánh Căn Cơ, người Thích tử phải lưu tâm bồi dưỡng nó.
---o0o---
THI CA 13 - CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO VẤN
ĐỀ THỊ PHI
Phiên âm:
Tùng tha báng, nhậm tha phi
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì
Ngã văn kháp tự ẩm cam lộ
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì
Dịch nghĩa:
* Tốt và xấu nhà nhà đều có
Thị với phi, chốn chốn "hưởng" đồng nhau
Mặc tâng khen, mặc phỉ báng, đừng nao
* Lời phỉ báng, nghe như ru, như gió thoảng
Họ tự bỏng, bằng ngọn lửa đốt trời trong tay họ
Ngọt như cam lồ, mát tợ xuân phong
Tìm đâu ra! Bực bội với u sầu?
Nó tan biến trong cảnh giới "bất tư nghì" giải thoát.
---o0o---
TRỰC CHỈ
Thị phi, nhơn ngã, hỉ nộ, ái ố… suốt ngày ở đâu cũng có, nhà nhà đều có.
Hay dở, khen chê, tốt xấu, xứ nào cũng có. Tất cả những cái đó, muốn cho
nó trở thành không có, thì: Một, không nghe. Hai, nghe mà không để dạ,
không tư duy về nó, thì tự nó "tiêu dung".
"Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì"
Đó là việc có thật. Mọi người có thể tự thí nghiệm bằng cuộc sống của
mình, trong những trường hợp mình "lỡ" bị thị phi ập đến.
Người tu hành rất cần "chánh niệm" để kịp thời đối phó với nghịch cảnh,
nếu có. Trường hợp bị phỉ báng, thị phi, ta nhớ: Họ sẽ tự bỏng bởi ngọn lửa
đốt trời trong tay họ. Miệng họ tự ô uế trước, vì máu họ ngậm để phun
người. Quán chiếu và tư duy như vậy, người tu sẽ nhẹ nhõm ngay, cơn bực
tức sẽ hạ tức thời, nếu chánh niệm đến kịp lúc.
Người chân tu nghe thị phi như gió thoảng, như ru hời, ngọt như cam lồ,
mát như xuân phong, tỉ tê như nhạc thính phòng, nỉ non như tiếng sáo
Trương Lương… là chuyện có thật. Đó là ý thú của câu và của người.
"Kiến sắc phi can sắc
Văn thanh bất thị thanh
Sắc thanh vô quái ngại
… Thị đáo pháp vương thành"
"Ngã văn pháp tự ẩm cam lộ"
"Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì"
Là chuyện có thật của người chân tu, biết tu, thường giữ được… "Chánh
niệm" và chánh định trong đời sống tu hành.
Tu mà không đem lại kết quả, không hóa giải được vô minh phiền não,
không có chút an lạc nào trong đời sống hiện tại là "Tu sai" cần phải sửa.
Hy vọng kết quả ở đời sau, sau khi chết càng sai nghiêm trọng.
---o0o---