Bá Trượng Hoài Hải
Bá Trượng1 hỏi Triệu Châu:
- Từ đâu đến?
Triệu Châu đáp:
- Nam Tuyền.
- Nam Tuyền nói pháp gì?
- Người chưa được đạo phải im lặng.
Bá Trượng liền hét to một tiếng, Triệu Châu giả bộ sợ. Bá Trượng nói:
- Im lặng rất tốt.
Triệu Châu bèn múa rồi đi.
1. Bá Trượng hiệu Hoài Hải, nối pháp Mã Tổ Đạo Nhất, đời thứ 2 dưới ngài Nam Nhạc.
BÁ TRƯỢNG ĐẠO HẰNG
Hòa thượng Bá Trượng đang đứng hầu Pháp Nhãn, nhân đó hỏi rằng:
- Có ông ngoại đạo hỏi Phật: “Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời”. Phật im lặng không đáp.
Pháp Nhãn1 nói:
- Dừng! Dừng! Ông phải hướng đến chỗ im lặng của Phật mà lãnh hội.
Đạo Hằng liền đại ngộ.
1. Pháp Nhãn Văn Ích là người sáng lập tông Pháp Nhãn, nối pháp La Hán Quế Sâm đời thứ 8 dưới ngài Thanh Nguyên.
BÀ XÁ TƯ ĐA
Bà-xá Tư-đa (Tổ 25) nghị luận Phật lý với ngoại đạo Vô Ngã.
Ngoại đạo nói:
- Xin Thầy im lặng mà luận, không dùng lời nói.
Tổ bảo:
- Không dùng lời nói làm sao biết ai hơn ai thua?
- Chỉ cần lấy nghĩa lý mà thôi.
- Ngươi lấy gì làm nghĩa lý?
- Lấy vô tâm.
- Ngươi đã vô tâm, làm sao hiểu được nghĩa lý?
- Tôi nói vô tâm nên tên chẳng phải nghĩa lý.
- Ngươi nói vô tâm nên tên chẳng phải nghĩa lý. Ta nói phi tâm nên nghĩa lý ấy chẳng phải tên.
- Nghĩa lý ấy chẳng phải tên, ai phân biệt được?
- Ngươi nói tên chẳng phải nghĩa lý, vậy tên ấy là tên gì?
- Vì phân biệt cái chẳng phải nghĩa lý nên tên ấy chẳng phải tên.
- Tên chẳng phải tên, nghĩa lý chẳng phải nghĩa lý, vậy ai là người phân biệt và phân biệt cái gì?
Bàn luận qua lại hơn 59 lần, cuối cùng ngoại đạo bí lối mới chịu quy phục.
Diệu Hỷ bình:
Bà-xá Tư-đa đâu cần nhiều lời? Nếu lúc ấy nghe ông ngoại đạo nói: “Xin thầy im lặng mà luận không dùng lời nói”, liền bảo: “Nói lầm rồi!”. Ta biết kẻ ấy làm kế sống trong hang quỷ.
BÁO ÂN KHẾ TÙNG
Có vị tăng hỏi Hòa thượng Báo Ân1:
- Sư tử khi chưa ra khỏi hang thì thế nào?
Báo Ân nói:
- Mũi nhọn khó cầm.
- Sau khi ra khỏi hang thì sao?
- Ẩn thân không lối.
- Muốn ra khỏi hang mà không ra được thì thế nào?
- Mạng như dây tóc đồng hồ.
- Việc sau này thế nào?
- Chặt đứt.2
1. Báo Ân Khế Tùng nối pháp Đức Khiêm Minh Chiêu, đời thứ 8 dưới ngài Thanh Nguyên.
2. Chặt dứt duy nghĩ.
BÀN SƠN BẢO TÍCH
Hòa thượng Bàn Sơn1 nói:
Thí như cầm kiếm quơ hư không, hư không không dấu vết, kiếm không thương tổn. Nếu được như thế thì mới tự tại.
Diệu Hỷ bình:
Chà chà chà! Kho báu nhà vua của ta không có con dao như thế.
1. Bàn Sơn Bảo Tích là thiền tăng đời Đường nối pháp Mã Tổ Đạo Nhất, đời thứ 2 dưới ngài Nam Nhạc.
BÀNG UẨN
Cư sĩ Bàng Uẩn1 nói:
- Chỉ mong tất cả cái có đều không, dè dặt tất cả cái không cho là thật.
Cư sĩ Bàng Uẩn hỏi Mã Đại Sư2:
- Người không làm bạn với muôn pháp3, là ai?
Mã Đại Sư đáp:
- Đợi ông uống một hớp cạn nước Tây Giang4, ta sẽ nói cho ông.
Có vị tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?
Mã Đại Sư đáp:
- Tức tâm tức Phật.
1. Tự Đạo Huyền, nối pháp Mã Tổ Đạo Nhất.
2. Mã Tổ Đạo Nhất.
3. Bản Tánh.
4. Bao dung muôn pháp, cũng có nghĩa là không thể mở miệng nói.
BẢO NINH NHÂN DŨNG
Hòa thượng Bảo Ninh1 dạy chúng, nêu ra bài kệ
Đêm đêm ôm Phật ngủ,
Ngày ngày cùng Phật dậy.
Đứng ngồi cùng theo nhau,
Nói nín cùng chung ở.
Phút giây chẳng tạm rời,
Như hình cùng với bóng.
Muốn biết chỗ Phật ngự,
Chỉ ngay lời nói ấy.
Dạ dạ bão Phật miên,
Tiêu triêu hoàn cộng khởi.
Khởi tọa trấn tương tùy,
Ngữ mặc đồng cư chỉ,
Phân hào bất tương ly,
Như thân ảnh tương tợ.
Khước thức Phật khứ xứ,
Chỉ già mặc ngữ thị.
(Phó Đại Sĩ)2
Bảo Ninh nói:
Đại chúng, Phó Đại Sĩ nói bài kệ này từ xưa đến nay không ai có thể lý giải nổi. Có nhiều người nghiên cứu bài kệ này, nhưng đa số đều hiểu lầm.
Bảo Ninh tôi cũng có một bài kệ:
Ưng ngủ thì ngủ khò,
Ưng dậy thì dậy ngay,
Nước rửa mặt sáng rỡ,
Chung trà miệng nhâm nhi.
Hồng trần trong biển cả,
Đất bằng nổi ba đào.
Ha ha a ha ha,
La lý lý la lý.
Yếu miên thời tức miên,
Yếu khởi thời tức khởi,
Thủy tẩy diện bì quang,
Xuyết trà thấp khước chủy.
Đại hải hồng trần sanh,
Bình địa ba đào khởi.
Ha ha a ha ha,
La lý lý la lý.
Có vị tăng hỏi:
- Thế nào là cảnh giới Bảo Ninh?
Bảo Ninh đáp:
- Ngọn núi chủ đảo ngược.
- Thế nào là người trong cảnh giới Bảo Ninh?
- Lỗ mũi không có một bên.
- Thế nào là gia phong (tông chỉ) của Bảo Ninh?
Bánh mè cứng, bánh bao mềm.
Bánh mè cứng, bánh bao mềm.
- Nếu gặp khách đến ngài đối phó thế nào?
- Ăn ngốn mau no, ăn chậm lâu đói.
Hòa thượng Huyền Sa3 bình:
Ngài Phó Đại Sĩ chỉ nhận được một tâm sáng rỡ.
Hòa thượng Động Sơn4 bình:
Ông hãy nói mỗi ngày thiền tăng có ngủ chăng?
Hai chuyển ngữ5 của hai tôn túc ai dám bảo trên đời này không có thần tiên? Phải tin rằng trong lời bình có trời.
Hòa thượng Bảo Ninh dạy chúng:
Có tay có chân mà không mặt trái, mặt phải, người sáng mắt nhìn cũng không thấy. Trời xoay bên trái, đất chuyển bên phải. Rồi vỗ vào đầu gối, nói:
Ào ào một trận gió tây,
Vài ba lá rụng cội cây lộ bày.
Tây phong nhất trận lai,
Lạc diệp lưỡng tam phiến.
Có vị tăng hỏi:
- Thế nào là đại ý Phật Pháp6?
Sư đáp:
- Nước nóng trong nồi không chỗ lạnh.
Hòa thượng Bảo Ninh nói:
Một là một, hai là hai, ba là ba, bốn là bốn7, số chữ rất rõ ràng, thứ tự trên dưới giúp nhau. Có việc gì để bàn?
Bảo Ninh cầm gậy vẽ một đường, nói:
Đại chúng, cả đời làm loạn rồi.
Hòa thượng Bảo Ninh dạy chúng:
Cái của người xưa người nay dùng, cái của người nay là do người xưa làm ra. Xưa và nay nào có khác (dung thông một thể), nhưng có mấy ai biết được xưa và nay. Ôi! Chín và mười gặp nhau mà chẳng ra tay.
Lại nói:
Linh miêu không giống trồng là hồng.
Cây sắt trên cành lại trổ bông,
Bỗng dưng đủ tháng kết thành quả.
Từ đâu chín mộng đượm hương nồng?
Vô chủng lình miêu hỏa lý tài.
Thiết hoa hoàn hướng thọ đầu khai,
Mạch nhiên kết cá đoàn loan quả.
Chỉ tự thời nhân xưa đắc lai?
Hòa thượng Bảo Ninh dạy chúng:
Ông già Thích Ca thuyết pháp 49 năm mà không nói một chữ. Ưu-ba Cúc-đa chất đầy thẻ trong thất mà chưa từng độ một người8. Đạt-ma chẳng ở Thiếu Thất, Lục Tổ chẳng trụ Tào Khê. Vậy ai là con cháu? Ai là Tiên thánh? Thế thì, họ vốn không thương tích, không nên làm tổn thương họ. Rồi vỗ gối nhìn chúng nói:
May thay thiên hạ được thái bình.
Bảo Ninh lại tụng điển cố gió cờ9:
Thênh thang dịch trạm một lối chung,
Sớm tối ngươi đi mặc thung dung,
Lão bà nào phải không tiến bước,
Cớ sao ngay cửa gai gốc bung.
Đãng đãng nhất điều quan dịch lộ,
Thần hôn tằng bất cấm nhân hành.
Lão bà bất thị bất tiến bộ,
Vô nại đương môn kinh cức sanh.
1. Thiền sư Bảo Ninh Nhân Dũng nối pháp Dương Kỳ Phương Hội, đời thứ 12 dưới ngài Nam Nhạc.
2. Phó Đại Sĩ bổn danh Phó Hấp, tự Huyền Phong, hiệu Thiện Huệ. Là bậc tôn túc trứ sanh trong Thiền Tông đời Lương, Nam Triều.
3. Thiền sư Huyền Sa Sư Bị nối pháp Vân Môn Văn Yển, đời thứ 6 dưới ngài Thanh Nguyên.
4. Thiền sư Động Sơn Hiểu Thông là tăng nhân tông Vân Môn, nối pháp Thiền sư Văn Thù Ứng Chân, đời thứ 9 dưới ngài Thanh Nguyên.
5. Lời nói khiến người chuyển mê thành ngộ.
6. Đây là câu hỏi thường sử dụng trong thiền môn. Ý hỏi chỗ căn bản của Phật pháp là gì?
7. Tỷ dụ thiền pháp xưa nay rõ ràng.
8. Ngôi thất của Ưu-ba Cúc-đa rất nhỏ, mỗi khi độ một người , ngài đánh dấu một thẻ. Thời gian sau thẻ chất đầy thất, đủ thất ngài độ người rất nhiều.
9. Trong kinh Pháp Bảo Đàn ghi: "Lúc Huệ Năng đến chùa Pháp Tánh, Quảng Châu, thấy hai vị tăng tranh luận về gió động và cờ động - một người nói gió động, một người nói cờ động - Huệ Năng nói: - Chẳng phải gió động, chẳng phải cờ động, chính tâm các ông động".
BẢO PHONG HỒNG ANH
Hòa thượng Bảo Phong dạy chúng:
Tiên Thánh1 nói: “Trăng rọi sông, gió thổi tùng. Đêm dài vắng lặng làm việc gì? Phật tánh, giới châu ấn tâm địa, sương móc ánh sáng thân mặc y”.
Các thiền đức, Tiên Thánh nói như thế chỉ uổng tương giấm mà thôi. Nếu là sơn tăng tôi thì không như vậy mà nói thế này:
Trăng rọi nước, gió thổi tùng.
Đêm dài vắng lặng làm việc gì?
Mục đồng trên núi ngồi thổi sáo.
Chim chóc kinh hồn lươn quanh cây.
Giang nguyệt chiếu, tùng phong xuy.
Vĩnh dạ thanh tiêu hà sở vi?
Mục đồng lãnh thượng nhất thinh địch.
Kinh khởi quần nha nhiễu thụ phi.
1. Tức Vĩnh Gia Huyền Giác, đoạn văn sau rút từ Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca. Huyền Giác còn gọi là Nhất Túc Giác, nối pháp Lục Tổ Huệ Năng.
BẢO PHONG VĂN CHUẨN
Hòa thượng Bảo Phong1 dạy chúng:
Pháp thân trùm khắp trên tất cả muôn vật, ngay muôn vật mà nhận ra pháp thân. Mây tan mặt trời ló dạng, nước trong hiện núi xanh.
Chợt cầm gậy đánh một cái nói: Đại sư Vân Môn nói: “Bồ Tát Quán Âm đem tiền mua bánh hồ2, khi đem về té là bánh bao”.
Đại chúng, Vân Môn chỉ thấy đầu dùi nhọn mà không thấy đầu đục vuông3. Bảo Phong tôi thì không nói như thế.
Khi ấy, ném cây gậy xuống, nói:
Chớ nên thờ Phật giữa đường,
Hãy mau chống gậy quê hương trở về.
Vật ư trung lộ sự Không Vương,
Sách trượng hoàn tu đạt bản hương.
Hôm sau có người từ Hoài Nam đến, không biết tin tức Phước Kiến thế nào, lại nói: “Con voi lớn Giạ Châu nuốt trâu sắt Thiểm Tây”.
Rồi hét một tiếng, nói:
- Nói cái gì?
Cười ngất thổ địa Vân Cư.
1. Tức Lặc Đàm Văn Chuẩn.
2. Làm từ đất Hồ (Ấn Độ) truyền qua nên lấy đó đặt tên.
3. Chỉ thấy hiện tượng các pháp mà không thấy bản tánh chân thật.
BẢO PHƯỚC TÙNG TRIỂN
Có vị tăng hỏi Bảo Phước1:
- Tuyết Phong bình thường nói ra điều gì cũng như con linh dương khi ngủ treo mình trên cây, không ai biết được tung tích2.
Bảo Phước đáp:
- Nói như thế, ta cũng không dám làm đệ tử Tuyết Phong.
Bảo Phước hỏi một vị tăng:
- Trong điện là Phật gì?
Tăng đáp:
- Mời Hòa thượng nói xem.
- Phật Thích-ca.
- Hòa thượng chớ gạt con.
- Chính ông gạt ta.
Bảo Phước lại hỏi một vị tăng:
- Ông tên gì?
Tăng đáp:
- Hàm Trạch.
- Nếu gặp người khô cạn đến phải làm sao?
- Ai là người khô cạn?
- Ta.
- Hòa thượng chớ gạt con.
- Chính ông gạt ta.
Bảo Phước lại hỏi Phạn đầu:
- Cái nồi chứa bao nhiêu?
Phạn đầu đáp:
- Hòa thượng thử nói xem.
Bảo Phước dùng tay làm bộ lường.
- Hòa thượng chớ gạt con.
- Chính ông gạt ta.
Bảo Phước lại thấy một vị tăng bèn nói:
- Ông làm việc gì mà được to lớn như thế?
Tăng lại hỏi Bảo Phước:
- Hòa thượng lùn bao nhiêu?
Bảo Phước ngồi xổm làm thế lùn.
- Hòa thượng chớ gạt con.
- Chính ông gạt ta.
1. Thiền sư Bảo Phước Tùng Triển, đệ tử nối pháp Tuyết Phong Nghĩa Tồn, đời thứ 6 dưới ngài Thanh Nguyên.
2. Tỷ dụ thiền sư khi khêu gợi người học lãnh ngộ thiền pháp không nương vào văn tự ngôn ngữ, tri thức kiến giải.