Thứ Tư, 22 tháng 6, 2016

Căn bản của thiền Bankei

Tâm – theo Bankei mô tả, là một cơ cấu năng động, nghề của nó là phản chiếu, ghi lại và hồi tưởng những ấn tượng về thế giới bên ngoài; nó như một loại gương soi sống động luôn luôn vận hành, không bao giờ ở yên từ giây phút này sang giây phút kế. Trong cái tâm như gương sáng này, những ý tưởng và cảm giác cứ đến rồi đi, sinh, diệt rồi lại tái sinh tùy hoàn cảnh, tự bản chất chúng không tốt cũng không xấu. Nhưng khác với người an trú Bất sinh; người hay phản ứng phải chịu khổ vì thói bám víu ràng buộc. Người ấy không bao giờ tự nhiên thoải mái vì họ là một tên nô lệ cho những phản ứng của mình, không nhận ra được đấy chỉ là những cái bóng thoáng qua. Kết quả là người ấy luôn luôn bị treo, vướng vào những ý tưởng hay cảm xúc đặc biệt nào đó, làm trở ngại sự tuôn chảy tự nhiên của cái tâm bình thường.

Mọi sự sẽ vận hành suông sẻ, Bankei nhấn mạnh, nếu chúng ta làm ơn xê ra để cho mọi sự tự nhiên vận hành. Ngài chứng minh điều này bằng cách chỉ cho thính giả thấy rằng, ngay dù trong khi tập trung lắng tai nghe giảng, họ vẫn tự động ghi nhận được mọi sự khác ở xung quanh, như tiếng quạ kêu, chim sẻ chíp chíp, những màu sắc và mùi hương khác nhau, đủ hạng người đang ở trong phòng giảng. Không ai cố tình làm vậy, chuyện ấy chỉ xảy xa một cách tự nhiên. Bankei bảo, đó chính là cái cách mà Bất sinh vận hành.
Đối với Bankei, điều quan trọng là buông xả, phá vỡ cái khuôn ngã chấp và những thói quen xấu, những thành phần chính của si mê. Ngã chấp hay sự tập trung vào tự ngã, là căn để của cái tôi giả tạo. Chính ngã chấp khiến chúng ta phán đoán mọi sự trên một quan điểm ích kỷ hẹp hòi. Chất liệu nuôi dưỡng thái độ này là những thói quen xấu, những tì vết trong nhân cách, cũng như sự chấp ngã, vốn là hậu quả của hoàn cảnh.
Theo Bankei, chúng ta khi còn bé thường bắt chước những người lớn xung quanh mình, và dần dần tích tập một số thói xấu cuối cùng trở thành thâm căn cố đế tới nỗi ta lầm cho đó là bản ngã đích thực của mình. Tuy nhiên, khác với Phật tâm bất sinh ; thói xấu hay sự chấp ngã đều không phải bẩm sinh, được hấp thụ về sau, do ảnh hưởng bên ngoài. Mỗi khi bị si mê lầm lạc là chúng ta tạm thời bỏ rơi Tâm Phật mà ta đã có từ khởi thủy để đổi lấy những phản ứng mới học đòi này. Khi sự tình này xảy đến thì phát sinh đối đãi nhị nguyên, từ tính nhất thể nguyên ủy, ta sinh vào những cảnh huống khác nhau như ngạ quỷ (quỷ đói), a tu la (quỷ chiến đấu), súc sinh, địa ngục, đi từ loài này đến loài khác, bị vướng vào luân hồi bất tận. Cách duy nhất để ra khỏi ngõ bí này, theo Bankei là trở về theo con đường mà từ đó ta đã phát xuất, trở về cái Vô điều kiện, cái chưa từng được tạo tác – cái Bất sinh. Cái mà ta có được từ lúc mới sinh, ấy chính là cái Tâm Phật.
Tâm Phật là bất sinh và chiếu sáng một cách kỳ diệu, với cái bất sinh ấy thì mọi sự đều hoàn bị cả rồi. Hãy an trú trong Tâm Phật bất sinh. Đây là căn bản của thiền Bankei, cương yếu của ngài về Bất sinh. Ngài giải thích điều ấy nhiều lần bằng nhiều cách, vì theo ngài thì chân lý Bất sinh thực quá đơn giản, quá trực chỉ, ai cũng nắm được. Theo nghĩa ấy, thiền của Bankei quả là rất phổ thông. Cũng có nhiều thiền sư khác đã giảng dạy cho người thế tục, nhưng phần nhiều, thiền chính thống được xem là quá khó đối với người thường, nên giáo lý phổ thông của các thiền sư ấy không bao giờ nói đến thiền. Thay vì thế, họ chỉ nói về giáo lý chung chung, đề cao những việc công đức như lễ bái niệm Phật, và thảo luận về những khái niệm trong các kinh Phật.
Bankei hoàn toàn ngược lại. Ngài cho rằng cốt tủy của thiền hoàn toàn giản dị, trực tiếp, mà bất cứ ai có tâm hồn mở rộng cũng có thể hiểu khi được chỉ cho. Bankei nhấn mạnh, muốn dạy thiền, người ta phải đi ngay vào cốt lõi, lột hết những gì màu mè che đậy bên ngoài – những thuật ngữ khó hiểu, những danh từ ngoại lai lạ tai.
Đấy là lý do chính khiến Bankei phản đối sử dụng công án trong thiền. Theo ngài, toàn thể phương pháp thiền công án thật là gượng ép một cách thảm hại. Ngài thấy sự uyên bác là điều hoàn toàn không cần thiết để học thiền, lại còn là một sự vướng bận vô ích. Ngài loại bỏ công án vì cho đấy là một kỹ thuật giả tạo. Những công án nguyên ủy không phải là những mẫu mực mà là những sự thật xảy ra trong đời sống. Những thiền sư ngày trước chỉ đơn giản ứng phó với những tình huống đặc biệt mà họ gặp, tùy theo nhu cầu của những môn đệ đương thời. Bất cứ thiền sư nào cũng tùy cơ ứng biến như vậy cả.
Vậy thì, chỉ cần bảo họ nhìn vào những công án riêng của chính họ, cái cách mà tâm Bất sinh đang vận hành ngay tại đây và bây giờ, trong những hoàn cảnh sống hiện thực. Đây là điều mà Bankei gọi là lối dạy trực tiếp, đối lại với lối tham công án mà ngài gọi là tham cứu giấy lộn. Bankei bảo công án chỉ là một phương tiện, những bậc thầy nào còn dựa vào đó hay vào bất cứ kỹ thuật nào khác, thì cũng đều thực hành pháp thiền phương tiện. Tại sao cần phải dựa vào phương tiện khi ta có thể dùng ngay thứ thiệt? Bankei lập luận.
Theo nghĩa ấy, Bankei lại là một người theo truyền thống. Ngài quay về những thiền sư của thời hoàng kim – trước cả thời vinh quang của công. Bankei nhấn mạnh rằng giáo lý ngài cũng như của Lâm tế, và nhiều điểm tương đồng giữa những Bài giảng của ngài với Lâm tế ngữ lục cho ta thấy có lẽ bậc thầy Trung hoa đã có ảnh hưởng quan trọng trong pháp thiền Bankei. Nhưng nhìn chung, giáo lý của Bankei vẫn có gì rất thực độc nhất vô nhị.
Một điều mỉa mai, sở dĩ giáo lý ấy không thịnh hành cũng bởi chính những đức tính độc đáo của nó, những đức tính đặc biệt đã lôi cuốn những người đến học Bankei: đó là nó quá giống với cá tính ngài, không thỏa hiệp với bất cứ phương pháp hay kỹ thuật nào. Cuối cùng, pháp thiền Hakuin (Bạch Ẩn) khôi phục và hệ thống hóa thiền công án ở Nhật, đã quét sạch những tu viện thuộc tông Thiên thai và lại còn xâm nhập Long môn tự cùng các chùa khác thuộc hệ thống Bankei.
Hakuin cho rằng giáo lý Bất sinh của Bankei là phạm thánh và cực lực đả kích. Nhưng thế kỷ hai mươi lại bắt đầu chú ý đến thiền Bankei. Nhà học Phật D.T. Suzuki (1886-1975) là người tiên phong hiện đại đã đề cao giáo lý Bankei, hoan nghênh giáo lý này xem như một liều giải độc cho pháp tham công án quá khô khan, và xem Bankei như một trong ba thiền sư vĩ đại của Nhật bản, ngang hàng với Dogen và Hakuin (Đạo Nguyên và Bạch Ẩn). Suzuki cùng những học giả khác khởi sự sưu tập và ấn hành những ngữ lục và giáo lý của Bankei, mà phần lớn còn nằm rải rác bị bỏ quên trong các chùa ngoại ô – và hiện nay một lần nũa Bankei lại được nhiều người biết đến.
Tính lôi cuốn của Bankei cũng dễ hiểu. Mặc dù thế giới ngài sống khác xa với thế giới hiện đại, song vẫn có cái gì rất gần gũi với chúng ta trong nhiều điều ngài dạy. Cảm nghĩ về tự do giải thoát, tính nhân hậu của ngài, cách ngài đề cập những vấn đề tối hậu không tách rời với đời sống hàng ngày của con người, dường như hoàn toàn ăn nhịp với tinh thần thời đại. Và khi chúng ta đang lật xem những trang Bài giảng, thì Bankei dường như vẫn còn đấy, sống động một cách lạ lùng, và đang chiếu sáng một cách kỳ diệu.

***

Lắng nghe

Sư bảo chúng: Trong tất cả quý vị tại đây hôm nay, không một ai là người chưa giác ngộ. Mỗi người ở đây đều là một vị Phật. Bởi thế hãy lắng nghe cho kỹ. Cái mà tất cả quý vị thừa hưởng của cha mẹ lúc mới lọt lòng, chỉ là cái tâm Phật bất sinh. Không có cái bẫm sinh nào khác ở nơi quý vị. Cái tâm Phật mà quý vị có từ lúc mới sinh, thực sự là bất sinh và chiếu sáng một cách kỳ diệu. Hơn thế nữa, với cái bất sinh này mọi sự đều được thu xếp một cách toàn hảo. Bằng chứng về điều này là, trong lúc tất cả quý vị đang lắng nghe tôi nói, mà ngoài kia có tiếng quạ kêu, tiếng chim sẻ chíp chíp, tiếng gió xào xạc… mặc dù không cố tình phân biệt những âm thanh ấy, quý vị vẫn nhận ra và phân biệt được từng tiếng: tiếng chim quạ, tiếng chim sẻ, tiếng gió xao cành – quý vị nghe mà không lầm lẫn, đấy gọi là nghe với cái Bất sinh.
Với cái Bất sinh, tất cả mọi sự được thu xếp hoàn toàn ổn thỏa cũng y như vậy. Đấy là bằng chứng thực sự về cái Bất sinh. Hãy nhận ra một cách dứt khoát rằng cái không sinh và đang chiếu sáng kỳ diệu ấy đích thực là Tâm Phật. “An trú ngay trong Tâm Phật Bất Sinh ấy, thì từ đây cho đến mãi mãi quý vị là một đức Như Lai sống”.Vì khi đã nhận ra một cách rốt ráo thì từ nay trở đi quý vị sẽ luôn an trú trong Tâm Phật, nên trường phái của tôi mệnh danh là trường phái “Phật tâm”.
Thật vậy, trong khi đang lắng nghe tôi nói, quý vị vẫn không lầm lẫn tiếng chim sẻ với tiếng quạ kêu bên ngoài, không lầm lẫn tiếng chuông với tiếng trống, tiếng đàn ông với tiếng phụ nữ, tiếng người lớn với tiếng trẻ con – quý vị nhận ra và phân biệt rõ ràngtừng thứ tiếng quý vị nghe, không lẫn lộn chút nào. Đấy chính là cái diệu dụng linh động chiếu sáng của Bất sinh. Đó không là gì khác, mà chính là Phật tâm bất sinh đang chiếu sáng một cách kỳ diệu, là bằng cứ xác thực về bản chất chiếu sáng vi diệu của Tâm.
Mỗi người, khi dứt khoát nhận ra được cái bất sinh và chiếu sáng kỳ diệu ấy, an trú trong đó, thì từ nay cho đến mãi về sau là một vị Phật sống. Cả đến khái niệm Phật cũng chỉ là một tên gọi được đặt ra về sau, bởi thế, từ nơi Bất sinh mà nhìn, thì đó cũng chỉ là chuyện phụ thuộc, không có gì quan trọng. Con người của Bất sinh ở tận nguồn gốc của tất cả các vị Phật. Cái gì bất sinh thì đó là suối nguồn của tất cả mọi sự, là khởi điểm của mọi sự. Không có gì “nguyên sơ” hơn là cái Bất sinh, không có gì ở trước nó. Bởi thế nên khi quý vị trú trong Bất sinh là quý vị ở nơi ngọn nguồn của tất cả Phật, và bởi thế Bất sinh là một cái gì quý báu tuyệt trần. Ở đây không có vấn đề diệt, cho nên khi trú trong bất sinh thì cũng không cần gì nói đến bất diệt. Đấy là lý do tại sao tôi chỉ nói về Bất sinh mà không đề cập bất diệt. Cái gì không được tạo tác thì cũng không bị hủy hoại, bởi thế, khi nó đã bất sinh thì đương nhiên cũng bất diệt. Phải vậy không nào?
Dĩ nhiên, từ ngữ bất sinh bất diệt đã có rải rác trong kinh điển và ngữ lục từ xưa, nhưng chưa ai nói bằng chứng thực sự của cái Bất sinh. Ai cũng chỉ học từ ngữ bất sinh bất diệtrồi lặp đi lặp lại, nhưng đến việc nhận cho ra và thực sự đi thẳng vào trọng tâm vấn đề, thì không ai hiểu được Bất sinh là cái gì.

Giới luật

Một bậc thầy thuộc Luật tông đến hỏi: Ngài có tuân giữ giới luật không?
Sư trả lời: Từ khởi thủy, tất cả những gì mà người ta gọi là giới luật đều cốt dành cho những thầy tu tồi tệ phá giới. Với người an trú trong tâm Phật bất sinh thì không cần nói đến giới. Giới được dạy là để giúp chúng sinh, không để giúp Phật! Mọi người khi cha mẹ mới sinh chỉ có duy nhất cái Tâm Phật Bất sinh, bởi thế hãy an trú trong tâm bất sinh ấy. Khi an trú trong Bất sinh, thì bạn đã là một vị Phật sống ngay bây giờ rồi, và vị Phật ấy cố nhiên không vẽ vời những chuyện như thọ giới, bởi thế không có giới điều nào cho ông ta thọ. Bày đặt những chuyện như thọ giới thì không phải là ý nghĩa của Tâm Bất sinh. Khi ta an trú trong Bất sinh thì không cách gì phạm giới nổi. Từ nơi Bất sinh, giới luật cũng thành phụ thuộc nhảm nhí, trong chỗ Bất sinh, thực sự không có gì là giới luật.

Biết tâm người khác

Có người hỏi: Ai cũng nói ngài có tha tâm thông, có phải thế không?
Sư đáp: Trong trường phái của tôi, không có những chuyện phi thường. Và dù nếu có, chúng tôi cũng không sử dụng, vì tâm Phật vốn bất sinh. Khi nói với bạn, thì tôi làm việc với chính bản ngã của bạn, nên bạn tưởng là tôi có tha tâm thông. Nhưng tôi không có thần thông như thế. Tôi cũng giống như bạn mà thôi. Khi bạn trú trong Bất sinh, là bạn ở tận ngọn nguồn của tất cả thần thông diệu dụng của chư Phật, không cần tìm kiếm thần thông mà có thể xử lý mọi chuyện một cách êm thấm dễ dàng. Trong chính giáo lý về Bất sinh, bạn có thể dàn xếp mọi sự bằng cách làm việc với chính bản ngã của bạn, không cần đưa vào những vấn đề ngoại lai.
Có người hỏi: Tôi đã nỗ lực hết sức để tiến đừng lùi, nhưng dù làm gì đi nữa, khuynh hướng thụt lùi vẫn mạnh hơn, và có những lúc tôi lùi thực sự. Và càng cố tiến tới, thì tôi chỉ có thấy mình lại thụt lùi. Làm sao cho tôi khỏi thụt lùi?
Sư nói: Hãy an trú trong Tâm Bất sinh! Khi an trú, bạn không cần bận tâm về tiến hay thoái. Quả vậy, khi bạn an trú Bất sinh, thì nỗ lực tiến tới là lập tức đang lùi khỏi vị trí Bất sinh. Người của Bất sinh không can dự gì đến tiến hay lùi, mà vượt trên cả hai.

Sống như Phật

Cái gì đã khiến một đám đông người như thế này đến đây khi trời vừa mới sáng, để lắng nghe tôi nói, cái ấy không gì khác hơn là Tâm Phật Bất sinh. Nếu không thấy có cái gì thật phi thường trong những lời tôi nói, thì quý vị đã không quày quả ra đi sớm như vậy để đến nơi đây. Vậy là, trong số quý vị đến tham dự buổi giảng hôm nay, những người tuổi ngũ tuần thì đã sống 50 năm không nhận ra Tâm Phật ngay trong mình, những người tuổi ba mươi đã sống 30 năm mà cho đến ngày hôm nay vẫn chưa nhận ra được sự thật ấy – tất cả quý vị đều trải qua những năm tháng của đời mình trong sự mờ mịt.
Nhưng tại giảng đường hôm nay khi quý vị đã hoàn toàn nắm vững rằng mỗi người trong đây đều có sẵn tâm Phật Bất sinh ngay trong mình, thì từ hôm nay trở đi quý vị sẽ sống trong cái Tâm Phật ấy mà thôi, và sẽ mãi mãi thành những vị Phật sống. Điều tôi đang nói với tất cả quý vị chỉ cốt là làm cho quý vị nhận ra rằng Tâm Phật Bất sinh đang chiếu sáng một cách kỳ diệu. Khi đã hoàn toàn nhận ra điều này, thì từ đây mãi mãi về sau, quý vị sẽ có một thân Phật không khác gì thân đức Phật Thích ca, và sẽ không bao giờ đọa lạc trở lại vào ba ác đạo. Tuy nhiên, trong khi nghe giảng như thế này quý vị dù có thể hiểu rõ Tâm Phật Bất sinh, mà khi trở về lại nhà, những điều quý vị trông thấy và nghe thấy sẽ khởi động cái tâm giận dữ nơi quý vị trở lại. Và khi ấy, dù chỉ nổi giận một chút xíu, quý vị cũng sẽ mang tội gấp triệu lần trước khi nghe tôi giảng về Tâm Phật Bất sinh. Khi ấy quý vị sẽ chuyển từ cái tâm Phật Bất sinh mà quý vị đã biết, thành ra những chúng sinh ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, mãi mãi luân hồi.
Cái tâm Phật bất sinh đó là gì vậy? Trong khi tất cả quý vị đều tập trung thính giác nghe giảng như thế, mà bên ngoài có tiếng chó sủa, tiếng người hàng rong rao hàng, mặc dù không cố ý nghe, quý vị vẫn nghe được tất cả những thứ tiếng ấy: đó là nghe với cái Bất sinh, diệu dụng của Phật tâm. Ví như: Tâm Phật, vốn chưa từng sinh ra và đang chiếu sáng kỳ diệu, tâm ấy giống như một tấm gương sáng. Gương thì phản chiếu bất cứ gì xuất hiện trước nó. Nó không cố ý phản chiếu sự vật, nhưng bất cứ vật gì đến trước gương, thì màu sắc dáng hình của nó đều chắc chắn hiện ra. Cũng vậy, khi vật được dời đi, thì tấm gương cũng không cố ý không phản chiếu, nhưng khi vật đã bỏ đi thì bóng nó cũng không còn hiện trong gương. Cái tâm Phật Bất sinh cũng hệt như thế. Khi bạn cố ý nhìn và nghe điều gì, thì bạn sẽ nghe và thấy, đó là lẽ tự nhiên. Nhưng khi bạn thấy và nghe được những gì mà trước đấy bạn không dự định để thấy nghe, thì đó chính là nhờ cái diệu dụng linh hoạt của Tâm Phật mà mọi người ai cũng có. Đấy là ý nghĩa cái Tâm Phật Bất sinh. Khi tôi đã tìm cách giảng giải về cái Bất sinh sao cho tất cả quý vị đều hiểu được như thế, mà nếu có người vẫn chưa hiểu, thì dù vị ấy có nghe ngàn vạn lần cũng không ăn thua gì. Người nào dù chỉ nghe một bài giảng, đã nhận ra được Tâm Phật bẩm sinh nơi tất cả mọi người, thì người ấy từ đó trở đi trở thành Phật sống.
Lấy một ví dụ khác. Giả sử có người đi từ Takamatsu đến Marugame mà không biết đường, gặp một người biết rành đường lối chỉ bày cho. Sau khi nhớ kỹ những lời chỉ dẫn, người ấy theo đó mà đi và đến đích không khó khăn gì. Cũng thế, khi tất cả quý vị đã nắm được chính xác những gì tôi nói, thì từ đấy trở đi quý vị sẽ an trú trong tâm Phật bản nhiên. Ngược lại nếu không an trú được như thế, thì cũng như đã được người ta chỉ cho đường đến Marugame mà không theo, lại theo con đường dẫn tới nơi nào khác. Đó là lý do quý vị nên lắng nghe kỹ những gì tôi nói. Tôi không chắc có thể trở lại đây nói chuyện cùng quý vị nữa không. Cho dù quý vị đi nghe giảng nơi nào khác, cũng không chắc có người nào giải thích cho quý vị về cái Tâm Phật bất sinh mà chiếu sáng kỳ diệu này. Bởi vậy nếu chư vị thấy lời tôi nói có lý, thì hãy nên coi chừng ngăn chặn sự nổi lên đủ loại ý tưởng, để chấm dứt vòng luân hồi. Nếu không thành Phật ngay bây giờ thì trong mười ngàn kiếp quý vị cũng sẽ khỏi tái sinh lại trong cõi này, bởi thế hãy nỗ lực thực chứng một cách rốt ráo cái Tâm Phật Bất sinh, và chớ để bị mê lầm. Được như vậy thì ngay từ hôm nay, quý ông sẽ là những người nam an trú Tâm Phật, quý bà sẽ là những người nữ an trú Tâm Phật, tất cả đều hết si mê lầm lạc. Đó không gì khác hơn là Phật quả, là giác ngộ.
Tôi có thể nói cho quý vị vài điều về Tâm Phật nơi phụ nữ. Theo tôi hiểu, phụ nữ thường rất buồn khi nghe nói họ không thể thành Phật. Nhưng sự thực không phải vậy. Có gì khác nhau giữa nam và nữ? Thân nam là thân Phật, thân nữ cũng là thân Phật. Quý vị không nên nghi ngờ gì về điểm này. Khi quý vị đã hoàn toàn nắm được lý Bất sinh, thì trong Bất sinh, không có gì khác nhau giữa nam hay nữ. Mọi người đều là thân Phật.
Về phương diện hình thể, rõ ràng là nam nữ khác nhau, nhưng về phương diện Tâm Phật thì không có khác gì. Quý vị đừng bị tướng bề ngoài làm cho lầm lạc. Tâm Phật vẫn giống nhau, không có khác biệt nào giữa nam với nữ.
Tôi xin chứng minh với quý vị điều này. Trong giảng đường hôm nay có rất đông người tụ tập, nhưng khi nghe tiếng trống hay tiếng chuông ngoài kia, quý vị có nghĩ là phụ nữ lầm tiếng chuông là tiếng trống, tiếng trống là tiếng chuông chăng? Quý vị có thực nghĩ rằng có gì khác nhau trong cách đàn ông nghe với cách phụ nữ nghe những tiếng ấy? Tuyệt đối không khác chút nào. Lại nữa, thưa tất cả quý vị, đâu phải việc này chỉ đúng cho “nam giới và nữ giới” mà thôi. Trong giảng đường này, chúng ta có những người trẻ và người già, tăng và tục, đủ tất cả hạng người; nhưng nói đến sự nghe chuông trống, quý vị có thể nói được hay chăng, rằng người già nghe cách này, người trẻ nghe cách khác? Không có sự khác nhau trong cách tu sĩ nghe, cách cư sĩ nghe, cách đàn ông nghe, cách đàn bà nghe chăng? Điều ấy chứng tỏ tất cả mọi người đều sẵn có bẩm sinh một Tâm Phật đồng nhất. Vậy thì nói về nam và nữ chẳng qua chỉ là những danh từ, những cái bóng của tâm sản xuất ra. Trước khi những cái bóng ấy phát sinh, ở trong cảnh giới Bất sinh không có gì là nam hay nữ. Và vì sự tình là vậy, thì không có gì khác nhau giữa Tâm Phật nơi người nam và Tâm Phật nơi người nữ.
Giả sử trong lúc bạn đang an trú liên tục trong Bất sinh, trong Tâm Phật, quên hết những phân biệt nam nữ, nhưng đột nhiên bạn trông thấy hay nghe một việc gì rối rắm, chẳng hạn có người nào nói xấu bạn, hay những ý niệm tham dục bám víu khởi lên trong bạn mà bạn ràng buộc vào đó, thế là bạn đang chuyển tâm Phật thành ra ý nghĩ, chẳng hạn nghĩ “chỉ vì mình là một phụ nữ” hay đại loại như thế. Nếu không bị đánh lừa bởi hình tướng bên ngoài, hoàn toàn nắm lấy con đường duy nhất, cái Bất sinh, thì bạn sẽ thấy rằng không những nam hay nữ, mà chư Phật trong quá khứ hay vị lai cũng đều là một Tâm Phật đồng nhất ấy. Không lý do gì phụ nữ lại là một trường hợp đặc biệt, không thể chứng thành Phật quả.
Nếu sự thực có vài lý do khiến phụ nữ không thể thành Phật, mà tôi lại nói là họ có thể, để xí gạt tất cả quý vị, thì bảo đảm tôi sẽ phải đáp xuống địa ngục ngay lập tức. Chỉ vì mong thành Phật quả mà ngay từ tấm bé tôi đã phải chịu bao nhiêu gian khổ tu hành; không lẽ ngày nay tôi lại cố nói dối với quý vị để bị đọa xuống địa ngục? Những gì tôi nói với quý vị không phải là dối trá. Tôi muốn các vị phải nắm kỹ điều này, để từ nay trở đi, hãy an tâm mà sống những ngày tháng của các vị ở trong Tâm Phật Bất sinh…
Lại nữa, ngay cả nơi những người xấu ác, Tâm Phật vẫn không biến mất. Khi bạn lật ngược cái tâm xấu của họ, thì đấy là tâm Phật không gì khác. Tôi xin kể cho quý vị nghe một kẻ ác có tâm Phật là thế nào. Giả sử có hai người cùng đi với nhau từ đây đến Taka-matsu, một người thiện một người ác. Nhưng cả hai không ai để ý gì đến chuyện thiện ác mà cứ vừa đi vừa nói chuyện dọc đường. Hai bên đường hoặc trên đường có cái gì, thì mắt của người thiện cũng như người ác đều trông thấy như nhau. Nếu có con ngựa hay con bò xông tới trước mặt thì cả hai đều biết nhảy tránh, mặc dù không tính trước. Nếu có gặp hố nước, cả hai cùng nhảy qua, gặp sông thì cùng lội. Sở dĩ có phản ứng giống nhau như vây là vì người tốt lẫn người xấu đều cùng có một căn bảnchung là Tâm Phật Bất sinh.
Mỗi người trong đây cũng thế, từ trước đến nay, đã từng làm ác, bị ngốn ngấu bởi đủ loại bám víu và thèm khát, bị xâm chiếm bởi sân si, nên phải chịu luân hồi, chuyển đổi cái tâm Phật quý vị vốn có thành a tu la và quỷ đói. Nhưng sau khi nghe giải thích về tâm Phật Bất sinh rồi nếu quý vị hiểu rõ, thì chính cáitâm tham dục sân giận bám víu bấy lâu nơi quý vị lập tức sẽ chuyển thành Tâm Phật bất sinh, và quý vị sẽ không bao giờ mất tâm ấy, dù trải qua bao nhiêu kiếp. Khi quý vị an trú trong tâm Phật ấy, thì từ đây quý vị sẽ là những Phật sống. Nhưng đừng lầm; nếu bây giờ quý vị đánh mất tâm Phật ấy thì cả đến trăm ngàn kiếp sau quý vị cũng không thành Phật được. Hãy nên nhớ kỹ điều này.
Dù cho những thói tật thâm căn cố đế nơi quý vị sẽ khiến quý vị bám lấy những gì gặp phải, vọng tưởng chốc lát khởi lên, thì người có đức tin bền chắc sẽ không bám víu cũng không xua đuổi chúng – trong nháy mắt, người ấy sẽ dễ dàng quay trở về với Phật tính bất sinh. Ngay cả đối với chư Phật chư tổ, cũng không phải rằng các ngài hoàn toàn không có tư tưởng nào từ khởi thủy. Nhưng vì các ngài không bị vướng vào tư tưởng, và cũng như trẻ con, không có tưởng tương tục, nên cũng như thể là tư tưởng chưa từng sinh khởi. Chính vì vậy mà Phật, tổ giải thoát khỏi tư tưởng.
Khi tư tưởng không khởi lên, thì cái diệu dụng chiếu sáng linh hoạt của tâm Phật không hiện rõ, bởi thế sự sinh khởi những ý tưởng kỳ thực là diệu dụng của Phật tâmchiếu sáng. Nội cái việc tôi đang giải thích điều này và quý vị đang tiếp nhận đó cũng là do mọi người đều có được cái công năng chiếu sáng kỳ diệu của Tâm Phật bẩm sinh. Có phải điều ấy thật quý báu không? Vậy hãy nhớ kỹ điều này, nhận thức rõ rằng, gặp cảnh gì cũng dấy động tư tưởng thì chỉ chuốc lấy khổ đau. Bởi thế đừng chuyển cái Tâm Phật thành ra những tơ tưởng vốn không phải bẩm sinh nơi bạn, và hãy sống trọn ngày an trú trong Tâm Phật Bất sinh….
Chúng ta thường thấy, khi có người nào được ca tụng “Anh ta hay thật, giỏi thật!”, khi nghe vậy, một người khác sẽ tìm cách bôi nhọ cả đến những tài năng của người khác. Rõ ràng, đó là thói xấu của người kiêu ngạo. Có phải thái độ ấy thực sai lầm ghê gớm không? Chúng ta nên hoan hỉ khen ngợi người đáng khen, và khi nghe ai được hạnh phúc, hãy vui mừng như chính mình hạnh phúc. Sự thể đáng lẽ phải vậy. Người được như thế là người sáng suốt không để mờ tâm Phật. Nhưng nếu khi thấy hay nghe điều gì, mà bạn phản ứng với lòng kiêu căng hay cuồng tín, thì thế là bạn đã chuyển cái tâm Phật bẩm sinh nơi bạn thành một giống dân địa ngục…
Khi dẹp bỏ thói tức giận, tham lam, bám víu, chấp ngã, thì dù với kẻ tôi tớ, quý vị cũng không dữ dằn, mà bày tỏ lòng thương. Dù với tôi tớ, ta cũng không nên nghĩ họ không liên hệ gì đến mình. La mắng người khác xối xả, tức giận điên cuồng, đó là một lỗi lầm lớn. Từ trước đến nay, vì không hiểu nguyên tắc đằng sau sự việc, nên bạn tha hồ nổi nóng không cần suy nghĩ, tin rằng sự sân si tức giận là lẽ tự nhiên thường tình trong cõi người ta. Nhưng bây giờ, khi đã nghe về Tâm Phật bất sinh mà mỗi người đều sẵn có từ lúc mới sinh ra, thì từ đây về sau quý vị nên giữ gìn đừng làm hại cái tâm ấy.
Trên thế gian không có gì quý bằng Tâm Phật. Vì tất cả quý vị đều đang cố thực chứng Tâm Phật bất sinh, nên cần phải hiểu cho thấu đáo mới được. Tôi không bảo quý vị phải tu theo pháp này pháp nọ, phải giữ giới, phải tụng kinh, phải xem Ngữ lục của chư tổ, phải tọa thiền…Tâm Phật vốn đã sẵn nơi tất cả quý vị, không có cái chuyện tôi đem lại cho quý vị tâm Phật ấy. Khi lắng nghe bài giảng này, hãy nhận ra tâm Phật mà mỗi người đều có ngay trong chính mình, rồi từ nay về sau hãy an trú trong Tâm Phật bất sinh ấy. Một khi quý vị đã xác chứng được Tâm Phật mà mọi người bẩm sinh đều có, thì quý vị muốn đọc kinh cứ việc đọc kinh, muốn ngồi thiền cứ việc ngồi thiền, muốn giữ giới cứ việc thọ giới, muốn niệm Phật cứ việc niệm Phật, muốn trì chú cứ việc trì chú, hay cứ việc làm phận sự hàng ngày của quý vị – công việc sẽ là pháp chánh định của mỗi người. Tôi chỉ nói một điều duy nhất là: hãy nhận ra tâm Phật mà mỗi người quý vị bẩm thụ từ lúc cha mẹ mới sinh. Điều cốt yếu là nhận ra, và an trú trong tâm ấy với trọn vẹn niềm tin tưởng…
Sư dạy chúng: Như quý vị đều đã nghe tôi nói, mọi người bẩm sinh đều có tâm Phật, vậy quý vị chỉ cần làm mỗi một việc duy nhất là an trú trong cái tâm Bất sinh ấy. Thế nhưng, vì theo thói đời, quý vị đã vướng vào những tệ đoan và đã chuyển tâm Phật thành ra quỷ đói luôn bám víu thèm khát. Hãy nhớ kỹ điều này, để luôn trú trong tâm Phật bất sinh. Nhưng nếu vì mong mỏi nhận cho ra cái Bất sinh mà quý vị rán ngăn chặn những ý tưởng giận dữ thèm khát không cho chúng khởi lên, thì khi làm như vậy quý vị đã phân chia một cái tâm duy nhất ra làm hai. Cũng như thể là quý vị đuổi theo một cái gì đang trốn chạy. Khi ta còn cố ý ngăn tư tưởng khởi lên, thì cái ý ấy chống lại với những ý khác đang khởi lên liên tục, thế là không bao giờ có sự chấm dứt thật sự. Việc ấy cũng như thể là dùng máu để rửa máu, không bao giờ sạch được. Cũng vậy, mặc dù những tư tưởng giận dữ mà bạn ngăn chặn ấy có thể chấm dứt, nhưng cái tư tưởng sau dùng để ngăn chặn tư tưởng trước cứ tiếp tục không bao giờ dừng nghỉ. Bạn có thể hỏi, vậy phải làm sao? Nếu bỗng dưng ý tưởng giận dữ, hay thèm khát, hay bám víu… khởi lên nơi bạn một cách bất trị, ngoài ý muốn, thì đừng khai triển nó thêm, đừng để ý đến nó. Đừng bận tâm ngăn chặn hay không ngăn chặn, chỉ cần mặc kệ nó, thì nó không thể làm gì khác hơn là đi đến chấm dứt. Bạn không thể cãi với vách tường nếu bạn chỉ đứng một mình. Khi không có ai ở đấy để chiến đấu, thì mọi việc tự động đi đến chấm dứt.
Dù cho đủ mọi thứ tư tưởng tạp loạn thò mặt ra, thì cũng chỉ ló ra trong một chốc. Nếu bạn không bám víu một tư tưởng nào đặc biệt, như vui hay buồn, không nghĩ tới chuyện chấm dứt hay không chấm dứt nó, thì thế chính là an trú trong Tâm Bất sinh. Hãy giữ cho cái tâm duy nhất vẫn là cái tâm duy nhất. Nếu tâm bạn luôn luôn như vậy, thì dù cho điều tốt điều xấu gì khởi lên cũng tự động chấm dứt mà không cần bạn phải cố nghĩ hay không nghĩ. Cái mà bạn gọi là cơn giận hay niềm vui toàn là do bạn sản xuấtvới mãnh lực của tính chấp ngã, hậu quả của dục vọng ích kỷ. Khi vượt ngoài mọi ý tưởng bám víu thì những tư tưởng kia sẽ tự động tan biến. Sự biến mất ấy chính là cái Bất diệt. Và cái bất diệt chính là Tâm Phật bất sinh.
Tóm lại, điều chính yếu là luôn luôn nhớ đến Tâm Phật bất sinh, không hâm nấu những tư tưởng này nọ trên cái nền Bất sinh ấy, nghĩa là đừng bám lấy những gì bạn gặp phải và đổi cái tâm Phật thành ra những ý tưởng. Khi bạn không bị lay chuyển, thì không tư tưởng nào còn khởi lên dù tốt hay xấu và do đó cũng không cần gì phải diệt. Như thế có phải là bạn không tạo tác cũng không hủy diệt hay chăng? Đấy không gì khác hơn là cái Tâm Phật bất sinh bất diệt đó vậy. Hãy hiểu rõ điều này.

Tự tại trong sống chết

Khi bàn đến vấn đề tự tại với sống chết, người ta thường dễ hiểu lầm. Có những người công bố trước ngày giờ họ sẽ chết, rồi đến lúc ấy, không đau ốm gì họ lăn ra chết thực; hoặc đôi khi triển hạn qua ngày khác mới chết. Rất nhiều người xem đấy là tự tại trong việc sống chết. Tôi không phủ nhận điều đó. Nói về tự tại, thì những người ấy quả là tự tại kinh khủng! Nhưng những chuyện như thế chỉ là do năng lực khổ hạnh nơi họ, và thường họ chưa mở được con mắt tuệ (Tuệ nhãn hay Pháp nhãn của Bồ tát để thấy rõ thực chất mọi sự vật và để cứu độ hữu tình). Ngay trong số những người thường, ta cũng thấy những trường hợp biết trước cái chết như vậy, trong khi họ chưa mở khai đạo nhãn.
Con người của Bất sinh thì siêu việt cả sống chết. Bây giờ, có lẽ quý vị đang tự hỏi siêu việt sống chết là thế nào. Cái gì đã bất sinh thì bất diệt, và cái gì bất diệt thì không chết, nên gọi là siêu việt sinh tử. Vậy một người tự tại trước sống chết theo tôi, là một con người khi chết không bận tâm về chuyện sống chết. Hơn nữa, vấn đề sống chết vẫn xảy ra hàng ngày với chúng ta, không phải đợi đến lúc ta chạm mặt với cái chết thực sự mới gọi là chết. Một người tự tại trong sinh tử là người không bao giờ bận tâm đến sống chết, vì biết khi còn được sống thì cứ sống, khi đến thời chết thì cứ chết, dù chết ngay bây giờ cũng được, cái chuyện lúc nào chết không quan trọng lắm. Người như thế cũng là người đã rốt ráo thực chứng cái Tâm Phật bất sinh chiếu sáng kỳ diệu. Cứ nói và suy nghĩ về những chuyện vặt vãnh như bạn sẽ chết vào giờ ngày nào, quả thực là tâm lý hẹp hòi, phải vậy không?
Rồi lại có ý nghĩ cho rằng “sinh tử là niết bàn”, đây cũng lại là một cái gì vẫn còn ràng buộc với sinh tử. Ai cũng biết cảnh giới của sinh tử không khác gì cảnh giới của niết bàn. Cái lý do người ta phải nói lên như vậy là vì họ không thực chứng cái Tâm Phật mà mọi người bẩm sinh đã có và hiện tại đang giải quyết mọi sự với Bất sinh. Bị bao phủ, gói kín trong danh tự chữ nghĩa, họ cứ lang thang tìm khắp nơi cái sinh tử và niết bàn ở bên ngoài, đổi cái Tâm Phật bất sinh của họ để lấy những khái niệm về sống chết và niết bàn, khiến họ tối ngày cứ lẩn quẩn trong lĩnh vực sinh tử không có giây phút nào bình yên. Nghĩ thật đáng thương xót.
Vì Tâm Phật đang dàn xếp mọi sự một cách hoàn toàn ổn thỏa với cái Bất sinh, nên nó không cần biết đến sinh tử hay niết bàn. Từ vị trí Bất sinh, thì sinh tử và niết bàn cũng chỉ là một mớ tư duy trống rỗng. Nên ngay cả một người mới hôm nào vẫn ngụp lặn trong sinh diệt, mà hôm nay nhận ra mình đã lầm, từ đó không còn đổi cái Tâm Phật bất sinh thành ra ba độc (tham sân si) hay vướng vào sinh tử niết bàn nữa, thì người ấy cũng sẽ an trú trong Tâm Phật bất sinh. Khi ấy, lúc các yếu tố làm nên thân xác của mình đã đến thời tan rã, họ cứ để cho nó tan rã, và chết không chút lưu luyến. Đây là một con người mà đối với họ sinh tử là niết bàn chân thật, một con người tự tại trước sống chết.

Bản lai diện mục


Cái được gọi là bản lai diện mục cũng không khác gì Tâm Phật bất sinh. Cái mà bạn thừa hưởng của cha mẹ từ lúc mới sinh chỉ là Tâm Phật, không gì khác. Đây là từ ngữ mà một bậc thầy ngày xưa đã đặt ra cốt làm cho người học nhận ra rằng Tâm Phật bất sinh chính là mặt mũi nguyên ủy của mình, hay bản lai diện mục. Ngay danh từ cha hay mẹ cũng là những gì đặt cho cái đã sinh ra. Con người thực chứng được Tâm Phật thì ở tận ngọn nguồn của cha và mẹ, đó là lý do ta nói đến một cái “hiện hữu trước cả khi cha và mẹ ra đời”. Cái đó không gì khác hơn là cái Bất sinh; bởi thế Tâm Phật cũng chính là Bản lai diện mục của bạn…

Nước và băng


Vì cái Tâm Phật mỗi người sinh ra đã có, vốn không do tạo tác mà thành, nên nó không chứa đựng một chút mê lầm nào. Bởi thế, người nào bảo “tôi mê lầm, vì tôi là một con người không được giác ngộ” là một người con hết sức bất hiếu vì đã phỉ báng cha mẹ mình. Về cái Tâm Phật mà mỗi người có sẵn từ lúc cha mẹ mới sinh, thì chư Phật quá khứ và những con người hiện tại đều có cùng bản chất, không gì khác nhau. Việc ấy cũng như nước ở đại dương: Giữa mùa đông, nước đông lại thành băng giá nên có những hình thù khác nhau như vuông tròn, nhưng khi băng tan, thì tất cả chỉ là một thứ nước biển.
Khi bạn ngộ được bản chất bất sinh của Tâm Phật, thì đó chính là nước như xưa nay nó vẫn là, và bạn có thể tha hồ thọc tay vào đó. (Nghĩa là, khi cái tâm trở về nguyên trạng của nó – như băng trở lại thành nước – thì nó trở nên lưu nhuận, trong suốt, không gì ngăn bít dòng chảy tự do của nó)

Chấm dứt tư tưởng

Vì trong Tâm Phật bất sinh chiếu sáng kỳ diệu ấy vốn không có một chút thiên kiếnnào, nên nó tha hồ thích ứng, mỗi khi gặp cảnh là những tư tưởng lại ló ra. Nếu bạn không quan tâm đến chúng thì không sao cả; nhưng nếu bạn vướng vào chúng và tiếp tục triển khai, những ý tưởng ấy thì bạn không thể dừng lại. Khi ấy bạn làm mờ cái công năng chiếu diệu của tâm Phật và tạo nên si mê lầm lạc. Trái lại, vì từ khởi thủy, Tâm Phật vẫn chiếu sáng kỳ diệu, sẵn sàng soi sáng và phân biệt mọi thứ, nên khi bạn căm ghét những ý tưởng si mê đã khởi lên ấy, và cố ngăn chặn chúng, thì bạn bị vướng vào công việc ngăn chặn, tạo ra mâu thuẫn giữa người ngăn chặn và cái bị ngăn chặn (năng – sở). Nếu bạn cố dùng ý tưởng để ngăn ý tưởng, thì sẽ không bao giờ đi đến cùng tận. Việc ấy cũng như dùng máu rửa máu, dù bạn tẩy được lớp máu trước, vẫn còn lại lớp máu sau.

Gương sáng

Vì tâm Phật vốn bất sinh và chiếu sáng kỳ diệu, nên nó ngàn vạn lần sáng hơn một tấm gương, không có cái gì mà tâm ấy không nhận ra và không phân biệt được. Với một mặt gương, hình thể của vật nào vừa đi qua trước mặt thì liền có bóng hiện ra. Gương không có ý định nhận vào hay bỏ ra vật gì, cũng không định phản chiếu hay không phản chiếu một cái bóng nào. Đấy là công năng của gương sáng. Vì không có ví dụ nào tốt hơn nên chúng ta đành phải mượn tấm gương để ví với diệu dụng chiếu sáng của Tâm Phật, kỳ thực Tâm Phật còn ngàn vạn lần kỳ diệu hơn thế nữa.
Với công năng chiếu sáng kỳ diệu của tâm Phật, mọi đối tượng xuất hiện trước mắt bạn đều được nhận ra và phân biệt rành rẽ, bạn không cần phải làm bất cứ gì. Bởi thế mặc dù không cố ý, bạn vẫn nhận ra trăm ngàn ấn tượng khác nhau qua hình sắc hoặc âm thanh. Đấy là những vật thể có hình dáng. Nhưng ngay cả những thứ vô hình, như những gì xảy ra trong tâm người, cũng được phản chiếu rõ ràng. Dù bạn gặp nhiều gương mặt khác nhau đủ loại, những tư tưởng thiện hay ác của họ đều được phản chiếu nhờ tâm Phật chiếu sáng kỳ diệu. Ví dụ trong chúng hội đang nghe pháp tại đây, nếu có người ho lên, thì mặc dù bạn không cố ý lắng nghe, mà vừa khi có tiếng ho, bạn có thể phân biệt ngay tiếng ho ấy là của đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ. Hoặc lấy ví dụ một người bạn đã hai mươi năm không gặp, nay tình cờ gặp lại trên đường, tự nhiên những biến cố thuộc hai mươi năm trước tuôn dậy rõ ràng trong ý thức. Việc này thật khác xa công năng của tấm gương!
Cái sự bạn nhận ra và phân biệt được ngay lập tức, một cách tự nhiên bất cứ gì bạn thấy và nghe, chính là công năng linh hoạt của tâm Phật mà bạn có được một cách bẩm sinh từ lúc mới lọt lòng, cái tâm Phật bất sinh và chiếu sáng kỳ diệu.
Một ví dụ khác về công năng bẩm sinh của tâm Phật là: khi bạn đang ngồi yên bỗng có ai dí vào tay một đóm lửa thì bạn giật mình, và tự động rụt tay lại. Điều này cũng chứng tỏ cái tâm Phật chiếu sáng kỳ diệu vốn bất sinh và dàn xếp một cách toàn hảo mọi sự.
Ngược lại, khi bạn nghĩ “vừa rồi là một đóm lửa” rồi nhận ra “lửa nóng” và tức giận kẻ nào đã đốt bạn, thì chính bạn đã rơi vào lãnh vực của kinh nghiệm phụ thuộc sau khi sự kiện đã xảy ra.

Không có gì gọi là giác ngộ

Một vị tăng từ Sendai 
đến bảo: Tôi nhớ đâu đó có một thành ngữ rằng: “Tâm bị lụy vì hình hài.” Tôi mong sống hợp với tâm nguyên thủy vào mọi thời, nhưng làm sao tu tập để được như thế? Xin Ngài chỉ giáo cho.
Sư dạy: Trong tông phái tôi, không có hình thức chỉ giáo nào đặc biệt về pháp tu, cũng không có phương pháp đặc biệt nào. Vì người ta không nhận ra rằng ngay trong chính mình đã sẵn đủ cái tâm Phật mà họ có từ thuở sơ sinh, nên họ mất hết tự do giải thoát và nói về chuyện muốn sống hợp với tâm nguyên thủy. Khi bạn ngộ được rằng tâm Phật bạn có từ cha mẹ sinh, vốn bất sinh và chiếu sáng kỳ diệu, thì tay chân bạn vận hành thoải mái, và đấy là công năng của tâm Phật chiếu sáng vốn bất sinh. Bằng chứng là, vì muốn nghe Bankei, bạn đã từ Sendai lặn lội đến đây qua một đoạn đường dài. Nhưng khi bạn dừng chỗ này chỗ kia dọc đường để nghỉ, thì không phải lúc nào bạn cũng nghĩ đến Bankei. Ban ngày, bạn ngắm phong cảnh trên đường, và nếu có người cùng đi, bạn nói chuyện với họ. Mặc dù trong lúc đi, bạn không nghĩ gì về cuộc gặp gỡ với tôi, cuối cùng bạn vẫn đến chỗ tôi. Đây là ý nghĩa về tâm Phật vốn bất sinh và dàn xếp mọi sự một cách êm đẹp.
Lại nữa, ở Sendai bạn thấy những con cò màu trắng và những con quạ màu đen không cần ai nhuộm. Ở đây cũng vậy, mặc dù không cố ý phân biệt, vừa khi thấy chúng xuất hiện, bạn biết ngay con trắng là cò và con đen là quạ. Không cần dấy lên ý tưởng nào, tất cả điều đó được dàn xếp một cách trơn tru phải thế không?
Khi ấy vị tăng hỏi: Tôi thấy không thể nào kiểm soát tất cả những sân si dục vọng trong tôi. Tôi phải làm sao, xin Ngài chỉ giáo.
Sư trả lời: Cái ý tưởng muốn kiểm soát của bạn chính là một vọng tưởng, đổi tâm Phật thành ra vọng tưởng. Vọng tưởng vốn không có thực chất khi nó sinh khởi. Sự thật chúng chỉ là những cái bóng, những sự việc bạn đã thấy và nghe khi gặp cơ hội lại trồi lên.
Vị tăng lại hỏi: Giác ngộ là gì?
Sư trả lời: Không có điều gì gọi là giác ngộ, đấy hoàn toàn là một đeo đuổi vô ích. Hãy nhận ra một cách rốt ráo rằng tâm Phật mà bạn có từ cha mẹ vốn bất sinh và chiếu sáng kỳ diệu – đó chính là giác ngộ. Không nhận ra điều này là si mê. Vì tâm Phật nguyên ủy vốn bất sinh, nên nó vận hành không có những ý tưởng về si mê hay mong cầu giác ngộ. Vừa khi có ước muốn giác ngộ là bạn đã rời khỏi vị trí của Bất sinh và đi ngược lại với nó. Vì tâm Phật là bất sinh, nó tuyệt nhiên không có tư tưởng gì cả. Tư tưởng là nguồn gốc của vô minh. Khi hết tư tưởng thì vô minh cũng diệt. Và khi bạn đã hết vô minh thì không cần gì nói đến mong muốn đạt giác ngộ, phải vậy không?

An trú trong tâm Phật


Một vị tăng hỏi: Con thường đọc kinh và tọa thiền, vì con cảm thấy những việc này có công đức. Bây giờ con có nên dẹp hết vì vô ích chăng?
Sư trả lời: Tọa thiền và xem kinh là việc tốt. Tọa thiền là việc mà tất cả tu sĩ muốn uống nước từ nguồn Thích Ca đều phải thực hành không được coi khinh. Mặc dù tất cả những pháp này thay đổi tùy hoàn cảnh khác nhau và tùy cách dạy của mỗi bậc thầy, song tất cả đều liên hệ đến việc bạn phải tự mình thực chứng cái tâm Phật bất sinh. Khi bạn không lầm tiếng chuông với tiếng trống, tiếng chim sẻ với tiếng chim quạ, tất cả những âm thanh nghe qua, bạn đều nhận ra và phân biệt từng thứ một, không sót tiếng nào. Đấy chính là cái tâm Phật chiếu sáng kỳ diệu đang lắng nghe. Những gì nói trong Lâm tế ngữ lục và những gì tôi nói chỉ là một thứ không có gì khác nhau. Vấn đề duy nhất là bạn có đức tin hay không. Nếu bạn không thể an trú trong tâm Phật bất sinh mà khuấy động lên đủ thứ tư tưởng như nuối tiếc quá khứ, lo lắng về tương lai, thì chính là bạn đang xoay vần biến hóa trong sinh tử mà không tự biết. Bạn đã đổi tâm Phật thành ra những tư tưởng phù du, không bao giờ có một giây phút an ổn.
Bây giờ bạn có thể tọa thiền đọc kinh, nhưng hãy an trú trong tâm Phật mà bạn có, và thực chứng cái bất sinh. Nếu bạn tọa thiền hay đọc kinh, với mục đích hay hy vọng tích lũy công đức, thì thế là bạn đổi tâm Phật lấy công đức, đổi tâm Phật lấy tọa thiền và tụng kinh! Thế đấy, nên điều bạn cần làm là nhận ra với niềm tin tưởng sâu xa rằng, mọi sự tự nó được nhận chân và được phân biệt mà không cần bạn phải để tâm suy nghĩ. Tất cả là vì tâm Phật chiếu sáng kỳ diệu vốn bất sinh, và thu xếp mọi sự một cách trôi chảy.

Khi tư tưởng khởi lên

Một chú tiểu hỏi: Khi con tọa thiền, tư tưởng lại khởi lên. Con phải làm sao?
Sư dạy: Phân biệt được và nhận ra được từng ý nghĩ khởi lên, đấy chính là công năng linh hoạt của tâm Phật. Vì tâm Phật vốn bất sinh mà cũng chiếu sáng kỳ diệu nữa, nên bất cứ gì được lưu giữ trong tâm con bây giờ trồi lên. Trong tâm Phật không có một tư tưởng hay một vật gì, bởi thế khi con không để mình vương vấn với chúng, tức là đã phù hợp với tâm Phật bất sinh. Đừng lo cố xua đuổi chúng hay ngăn chặn chúng.

Tâm Phật sống động


Sư bảo đại chúng: Với một người thực chứng tâm Phật một cách rốt ráo vào mọi lúc, thì khi vị ấy đi ngủ, cũng đi ngủ với tâm Phật; khi dậy là dậy với tâm Phật; khi ở là ở với tâm Phật; khi đi là đi với tâm Phật; khi ngồi là ngồi với tâm Phật; khi đứng là đứng với tâm Phật; khi nói là nói với tâm Phật; khi im lặng là im lặng với tâm Phật; khi ăn cơm là ăn với tâm Phật; khi uống trà là uống với tâm Phật; khi mặc áo là mặc áo với tâm Phật. Vào mọi lúc, vị ấy an trú liên tục trong tâm Phật, không có lúc nào là vị ấy không ở trong tâm Phật. Vị ấy hành xử ung dung tùy theo hoàn cảnh, cứ để mọi sự theo cách tự nhiên của chúng. Chỉ cốt là không làm những điều ác mà chỉ làm những việc lành.
Nhưng nếu bạn tự hào về những việc lành của mình, bám víu vào đó và ghét cái xấu, thì thế là đi ngược với tâm Phật. Tâm Phật không thiện cũng không ác, mà vận hành vượt ngoài cả thiện ác. Đó không phải là tâm Phật sống động hay sao? Khi bạn đã ngộ được điều này không còn một chút nghi ngờ nào cả, thì ngay lúc ấy bạn sẽ mở được con mắt thấy suốt tâm người. Bởi thế mà tông phái của tôi được mệnh danh là tông Mắt Sáng.

Đàn áp cũng là mê muội


Một vị Tăng hỏi: Con nhận thấy không thể nào đàn áp tất cả phiền não vọng tưởng của con. Con phải làm sao?
Sư đáp: Cố mà đàn áp vọng tưởng thì cũng là mê muội. Vọng tưởng nguyên ủy vốn không hiện hữu, mà chỉ do chính bạn tạo ra vì phân biệt.
Một vị Tăng từ Sendai đến hỏi: Làm thế nào con có thể thực chứng cái tâm bản nhiên?
Sư đáp: Ngoài con người đang hỏi tôi lúc này ra, thì không có tâm bản nhiên nào. Cái tâm bản nhiên ấy siêu việt tư duy mà phân biệt rõ ràng mọi sự. Bằng cớ điều này là, nếu tôi hỏi bạn điều gì liên hệ đến nơi bạn ở, có phải là bạn trả lời vanh vách không cần suy nghĩ hay không.

Buông xả

Một cư sĩ nói: Vài năm về trước, tôi hỏi Ngài phải làm sao để ngăn vọng tưởng sinh khởi, và Ngài đã dạy tôi cứ để mặc chúng sinh diệt tùy ý. Tôi vẫn làm theo lời khuyên của Ngài, nhưng tôi lại thấy thật khó mà cứ để cho những vọng tưởng cứ khởi và diệt như vậy.
Sư bảo: Lý do bạn gặp khó khăn là vì bạn tưởng rằng có một phương pháp đặc biệt nào để phó mặc cho ý tưởng cứ khởi và diệt.

Như bạn vốn là

Sư bảo đại chúng: Tất cả quý vị nên nhận ra cái tâm Phật vận hành sống động này! Từ nhiều trăm năm nay người học Phật đã hiểu lầm giáo lý Thiền, cố đạt giác ngộ bằng cách tọa thiền hoặc cố tìm cho ra “con người thấy và nghe”, tất cả điều này là một sai lầm lớn. Tọa thiền chỉ là một tên khác của tâm bản lai, nó có nghĩa là ngồi an tịnh với một cái tâm an tịnh. Khi ngồi thiền bạn chỉ cần ngồi như bạn vẫn ngồi; khi bạn thiền hành, thì bạn cứ tản bộ như bạn vẫn đi. Dù cho miệng của bạn rộng lớn đủ để nuốt trọng cả trời đất, cũng không thể nào diễn tả Phật Pháp bằng lời. Những người nói về Phật Pháp, phần đông chỉ làm cho người ta lòa mắt.
Trong cái “tâm” mà bạn thừa hưởng của Cha Mẹ từ lúc mới sinh, không có một chút mê lầm nào cả. Bởi thế, khi bạn quả quyết rằng “tôi mê mờ vì tôi là một người sinh ra đã ngu dốt” thì thế là bạn đổ lỗi cho cha mẹ mình một cách bất công. Chư Phật trong quá khứ với con người trong hiện tại đều có đồng một tâm Phật duy nhất ấy, không có khác gì nhau. Tôi sẽ lấy một ví dụ cho bạn hiểu: khi nước biển múc lên đổ vào những bình chứa khác nhau, và gặp thời tiết nước đông lại, thì tùy theo những bình chứa lớn nhỏ vuông tròn khác nhau mà nước đông thành đá sẽ có những hình dạng khác nhau; nhưng khi băng tan thì tất cả nước trở lại đồng là nước của biển cả. Vì không biết tâm Phật vận hành sống động như thế, nên bạn nghĩ bạn sẽ thành Phật nhờ tích lũy quả báo tu hành và giác ngộ. Bị rơi vào mê lầm, đi từ bóng tối vào trong bóng tối, thật là bi đát phải không? Tôi không giảng dạy về Phật giáo, nhưng khi nói chuyện tôi chỉ xử lý những ý tưởng sai lầm nơi các bạn.

Không một dấu vết

Một khách tăng hỏi: Con tu hành với mục đích là đạt giác ngộ. Ngài nghĩ sao về vấn đề này?
Sư dạy: Giác ngộ chỉ có khi có si mê. Nhưng mọi người đều có bản chất giác ngộ, nên một chút mê lầm cũng không hiện hữu. Thế thì bạn cần phải đạt đến cái gì?
Vị Tăng nói: Điều ấy tôi nghe thật điên rồ. Chính nhờ đạt giác ngộ mà tất cả thánh hiền xưa kể từ sơ tổ Bồ đề đạt ma, đã hoàn toàn chứng đắc về Pháp.
Sư bảo: Như Lai cứu độ hữu tình bằng cách “điên rồ” như thế đấy, không đến không đi, mà vẫn như tính bạn bẩm sinh, không để cho tâm trở nên mờ mịt – đấy chính là ý nghĩa của Như Lai. Và đấy cũng là đường lối chư Tổ trong quá khứ.

Bịt mắt

Một vị khách tăng hỏi : Tọa thiền có công đức gì không?
Sư nói: Tọa thiền là điều không nên coi thường, cũng không nên xem thường việc tụng kinh, lễ bái. Tổ Đức Sơn dùng gậy, Thiên Thai dùng tiếng hét, Đạt ma diện bích – Tất cả đều là những phương tiện của các bậc thầy, những phương pháp đối phó với những tình huống đặc biệt và đáp ứng những nhu cầu của từng cá nhân trong cuộc. Ngay từ đầu đã không có những quy luật cố định. Nếu bạn xem những phương tiện tạm thời ấy như những lời dạy bất di dịch, thì cũng như bạn tự bịt mắt mình. Chỉ cần vững tin vào lời tôi nói, giữ tâm hồn nhiên như lúc mới sinh không có những phân biệt phù phiếm, hệt như khi mọi vật phản chiếu trong gương, thì khi đó không có gì trên đời mà bạn không thâm nhập thông suốt. Đừng nghi ngờ!

Mọi sự đều được dàn xếp trơn tru


Một vị tăng từ Tamba đến hỏi: ước nguyện chân thành của con trong dịp này là chứng được giác ngộ và trở thành một con người toàn hảo về mọi mặt. Xin Ngài chỉ giáo cho con.
Sư nói: Bạn đã lặn lội từ xa đến và có những ước nguyện đáng khen, nhưng chúng toàn là vọng tưởng. Trong cái tâm nguyên ủy, không có vọng tưởng cũng không có ước nguyện. Trong cái công năng chiếu sáng kỳ diệu nội tâm, không hề có một ước nguyện nào cả, thế mà mọi sự vẫn được dàn xếp trơn tru. Ngay cả cái việc muốn thành Phật liền bây giờ cũng là một điều giả tạo. Chỉ cần nhận thức rằng mình đang tạo những ước nguyện, rồi cứ sống tự nhiên, đừng vướng mắc bất cứ sự gì, thì bản lai diện mục của bạn sẽ được hiển lộ.

Đi đâu

Một cư sĩ hỏi: Khi thành Phật rồi, ta sẽ đi đâu?
Sư trả lời: Nếu bạn thành Phật, không có nơi nào để đi cả. Khi đó bạn ở khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Chỉ khi bạn trở thành loại chúng sinh nào khác thì mới có nhiều chỗ khác nhau để đi.

Trái banh bằng vàng


Có lần Sư bảo : Không giống như những bậc thầy khác ở khắp nơi, trong giáo lý tôi, tôi không lập ra một mục tiêu đặc biệt nào như chứng đắc giác ngộ hay tham cứu công án. Tôi cũng không dựa vào lời Phật và tổ. Tôi chỉ thẳng vào sự việc, nên không có gì để bám lấy, và cũng vì vậy không có người nào sẵn sàng chấp nhận những gì tôi giảng dạy. Trước hết, những người thông minh và đa văn thì bị chướng ngại bởi chính sự thông minh tính toán của họ, nên họ không thể chấp nhận lời tôi. Ngược lại, có rất nhiều phụ nữ ngu dốt không biết đọc biết viết, lại không có tài năng đặc biệt nào, và cũng không thể đẩy họ lên làm thiền sư. Nhưng họ có được thực chứng và không vướng vào tri thức.
Sư lại thêm : Mặc dù vậy, dù không có ai chấp nhận hoàn toàn, giáo lý tôi giống như một trái banh bằng vàng bị đập vỡ ra nhiều mảnh tung tóe khắp nơi, để cho ai được một mảnh thì sẽ có được một mảnh giác ngộ, ai được hai mảnh thì sẽ có được hai mảnh giác ngộ…, từng mảnh nhỏ, nhưng không ai là không lợi lạc tùy theo chỗ chứng đắc của mình.

Nghi lớn

Một vị Tăng hỏi: Người xưa tuyên bố nghi lớn ngộ lớn (đại nghi đại ngộ). Tại sao Ngài không sử dụng cái nghi lớn của các bậc Thầy xưa?
Sư đáp: Về ý nghĩa của nghi lớn là như sau: ngày xưa khi Nam Nhạc Hoài Nhượng đến thăm Lục tổ, tổ hỏi, vật gì đến đó? Nam Nhạc hoàn toàn bối rối, thắc mắc về vấn đề này đến 8 năm, và cuối cùng đã trả lời: nói là một vật thì không trúng. Đây mới thực sự là đại nghi đại ngộ. Ví dụ khi một vị tăng mất chiếc y ca sa độc nhất, ông ta đi tìm khắp nơi không lúc nào không nghĩ đến nó – đấy là nghi thực sự! Người ngày ngày cứ khơi lên hoài nghi chỉ vì họ bảo những bậc thầy ngày xưa cũng làm như vậy; bởi thế họ chỉ phát sinh được một thứ hoài nghi bắt chước. Vì sự hoài nghi này không chân thật, nên họ sẽ không có ngày nào ngộ. Việc ấy cũng như thể là họ đi tìm khắp nơi tưởng mình mất một cái gì mà thực sự chưa từng bị mất.

Khác nhau trời vực

Vào một dịp khác, Sư bảo: Về cái chân lý mà tôi đã tìm ra năm tôi 26 tuổi khi nhập thất trong làng Nonaka – chân lý mà tôi đã tìm đến thiền sư Dosha để được ấn chứng – cái thấy lúc ấy với bây giờ không có chút gì khác nhau. Tuy nhiên, nói về sự thâm nhập Phật pháp với pháp nhãn hoàn toàn trong sáng và giải thoát tuyệt đối, thì từ ngày tôi gặp Dosha đến nay thực khác nhau một trời một vực. Tất cả quý vị hãy tin rằng điều này có thể xảy ra, và hãy đợi đến cái ngày quý vị hoàn toàn chứng được pháp nhãn.
Có người hỏi: Có phải pháp nhãn hoàn toàn trong sáng cần phải có thời gian mới chứng được? Người ta chứng pháp nhãn ngay lập tức có được không?
Sư trả lời: Đương nhiên là cần một số lượng thời gian. Khi đã phát sinh con mắt Pháp trong suốt không chút tì vết (pháp nhãn ly trần vô cấu) là bạn đã chứng ngộ một cách toàn vẹn. Và việc chứng ngộ của bạn tùy thuộc vào sự tu tập một cách nghiêm túc và nhất tâm.

Hãy coi chừng nơi bạn đi

Khi tôi (tức Sonin đệ tử thừa kế của Bankei) mới gặp Sư lần đầu, tôi thọ giáo với Ngài nhưng vì không có được sự thấu hiểu sâu xa, tôi đã nói: Những gì thầy dạy là cảnh giới của bậc thầy. Nhưng với một kẻ như con chưa từng chứng ngộ, con nghĩ rằng thật khó mà với tới cảnh giới bậc thầy.
Sư đã bảo tôi: Nếu ông muốn chân lý, ông phải làm như tôi nói. Những người học đạo trước hết phải cẩn thận xem chừng mình đang đi ở đâu. Ví dụ, nếu một người muốn đi Edo và được người ta chỉ cho phải đi về phía đông. Nếu anh ta đi đúng hướng thì cứ mỗi dặm đường là tiến gần đến đích một dặm; nhưng nếu anh ta lầm đi sang phía tây, thì càng đi nhanh càng xa với mục tiêu của mình. Có lần tôi hỏi Sư: Trong việc học đạo, có cần đọc kinh Phật và ngữ lục của các vị tổ không?
Sư trả lời: Cũng còn tùy. Nếu ông đọc kinh điển và ngữ lục mà ông hoàn toàn lệ thuộc vào những nguyên tắc trong đó, tức là ông tự bịt mắt mình lại. Ngược lại, khi ông đủ trình độ để bất chấp nguyên tắc mà đọc những thứ ấy, thì ông sẽ tìm ra bằng cứ cho sự chứng ngộ của mình.
Một lần tôi hỏi Sư: Con luôn luôn bị khổ vì những thói quen xấu. Con có thể chấm dứt chúng bằng cách luôn luôn đề phòng hay không?
Sư hỏi: Nếu ông nhận ra rằng từ khởi thủy, không có thói quen xấu, thì có gì để chấm dứt?
Tôi trả lời: Con công nhận rằng khởi thủy không có thói quen xấu, con không nghi ngờ gì về điều ấy. Nhưng thỉnh thoảng những thói quen xấu của con lại xuất hiện, và khi con đề phòng chúng thì chúng không xuất hiện. Bởi thế mặc dù con hoàn toàn công nhận sự thật là, từ đầu thói xấu không hiện hữu, nhưng riêng về chuyện tu hành hằng ngày của con, thì có phải tốt nhất nên đề phòng?
Sư nói: Đó không phải là chân thật công nhận.
Bây giờ từ khi khắc cốt ghi tâm những lời dạy từ bi của bậc thầy, tôi đã thực chứng một cách rốt ráo thực tướng của chân lý. Vào một dịp khác tôi hỏi: Từ lúc mới sinh, con đã bị những cơn đau thắt ghê gớm trong bụng, mỗi lần như vậy con phải hoàn toàn nhịn ăn trong nhiều ngày, bị nhức đầu kinh khủng và cảm thấy đau đớn tới độ muốn đưa tay lên mà sửa cái gối cũng không thể được. Bình thường khi đang khỏe thì con hết sức dũng mãnh tinh tấn, sẵn sàng vì Pháp mà hy sinh mạng sống và tay chân. Nhưng vào những lúc cơn đau vừa nổi lên, là con hoàn toàn bất lực. Khi cơn đau đến tột đỉnh thì con yếu hơn bao giờ cả. Dường như là tinh thần dũng mãnh thường lệ của con bị ngọn gió bệnh làm cho điêu đứng. Con vô cùng buồn khổ vì chuyện này.
Sư hỏi: Một khi ông lành mạnh trở lại thì thế nào? Tôi trả lời: Khi con mạnh trở lại thì mọi sự lại trở lại như thường.
Sư bảo: Thế thì tốt. Từ đấy về sau vào mọi lúc, tôi luôn luôn giống như bây giờ, vượt ngoài phân biệt, hoàn toàn tự do thoải mái, không một chút gắng gượng.
Một lần tôi hỏi Sư: Con đã theo thầy khá lâu, và được may mắn hầu cận bên thầy trong nhiều năm làm thị giả. Về những điều cốt yếu trong giáo lý thầy, con không có một chút hoài nghi nào cả. Tuy nhiên điều con nhận thấy tuyệt vời khi gần Ngài là: Con càng vào sâu, thầy càng trở nên rắn chắc, con càng ngước lên cao mà nhìn, thì thầy càng bay cao hơn. Bởi thế con vô cùng thán phục. Thầy đáp ứng những nhu cầu của người học một cách lưu loát vô giới hạn đến nỗi trải qua bao nhiêu ngày tháng cũng không ai địch nổi. Làm sao chúng con cũng có thể đạt đến sự toàn hảo ấy?
Sư bảo: Những thiền sinh thường trong 10 điều có thể nắm được 7, 8 điều, nhưng không thể vượt qua được 2 hay 3 điều còn lại. Tôi nói: Có cách nào để vượt qua không?
Sư đáp: Không cách nào để vượt qua. Tôi hỏi: Lỗi nằm ở đâu?
Sư im lặng một lúc rồi trả lời: Nói cho cùng, thì chính là vì lòng khát khao đạt đến chân lý còn yếu.


Đối xử với kẻ hư

Khi Sư nhập thất ở chùa Jizoji, vị tăng tri sự ở chùa Long môn phái tăng sĩ Tenkyu đến vấn an Ngài và trình bày: Tại chùa Long môn có một số tăng bê trễ phận sự, hành vi thô tháo, xáo trộn quy củ thiền môn. Chúng con nghĩ nên gởi họ đi đến các chùa khác họa may họ có thay đổi. Kính mong được tôn ý của Ngài.
Khi Tenkyu nói xong, Sư triệu tập Shùin, Sokako và Shonin. Ngài nhắc lại cho họ nghe những lời Tenkyu vừa nói, và bảo: Một thiền viện được lập ra cốt là để quy tụ những bọn xấu xa như bọn ấy, chinh phục chúng bằng sự tiếp xúc thân mật để làm chúng trở thành người tốt. Thế mà các ông hoàn toàn thiếu từ bi, các ông muốn tẩy những bọn tội phạm đi nơi khác để cho chúng đi gây rối chỗ khác! Một người như thế có xứng đáng làm trụ trì một thiền viện không? Khi một người không có tâm từ bi quảng đại mà làm trụ trì chùa tôi, đó là bắt đầu thời suy tàn của giáo lý tôi dạy.
Sau lần quở trách nghiêm khắc ấy, tất cả mọi người gồm trụ trì, chức sự trong chùa cũng như các thị giả không ai còn dám phàn nàn gì với Sư về hành vi các tu sĩ.

Không quy luật

Vào một kỳ đại kiết thất ở chùa Long môn, có trên mười ngàn người tham dự. Mọi người bảo: “Trong kỳ hội này, chắc người ta sẽ phải lập ra những quy luật sách tấn mọi người khiến cho toàn thể phải sợ run!” Nhưng sau đó chẳng có một bản quy luật nào được đặt ra, mà mọi người vẫn an tịnh.
Thỉnh thoảng Sư thăng pháp tòa bảo đại chúng: “Cái bất sinh có từ khởi thủy – tất cả mọi người hãy bảo đảm là quý vị không làm nó ẩn mất trong quý vị! Cái bất sinh ấy giống như một quả bóng lớn bằng lửa: động vào nó bạn sẽ bị đốt cháy. Tôi có thể nói với quý vị về nó ngay bây giờ, nhưng nói không hết lời; tôi có thể sử dụng nó, nhưng dùng không bao giờ hết. Với tôi, muốn sách tấn người khác mà la lối um sùm khiến cho họ sợ hãi phải tuân hành, thì chỉ là một sự lừa dối vô ích. Không bao giờ nên làm vậy.” Khi những người trong chúng hội nghe điều này, tất cả hoài nghi của họ điều tiêu tan.


Như ông bây giờ

Khi Sư ở chùa Nyoroshi, Ngài dạy chúng: Tất cả các ông quả thật may mắn đã gặp được bậc thầy! Không cần phải đi mòn dép cỏ, phí sức theo đuổi hoa đốm giữa hư không, hay dấn mình vào những khổ hạnh đau đớn, các ông vẫn có thể đi thẳng vào chánh giáo. Thật là may mắn! Đừng phí thì giờ! Một vị tăng hiện diện nói: Duy chỉ có điều này. Ví dụ một người muốn qua sông để ra khỏi thành phố, mà nếu không dùng một con thuyền, cũng không đi một bước nào, thì anh ta sẽ không bao giờ đạt đến đâu cả.
Sư nói: Cũng như ông đang ở đây lúc này, phải không? Không có cái sự đi đến đâu hay không đi đến đâu. Đây là ý nghĩa đốn giáo. Bạn do dự thì nó tuột mất; chần chờ thì nó càng ngày càng xa.

Phương pháp tự nhiên của Bankei

Trong một kỳ kiết thất, có trên một ngàn ba trăm người tham dự, chưa kể tăng và tục từ ngoài đến chùa hàng ngày để nghe pháp. Những ngưòi tham dự chia nhau ở trong các phòng, nơi thì tọa thiền, nơi thì đọc tụng. Không cần lập ra quy luật, mỗi người theo đuổi hoạt động của mình một cách tự nhiên, tu tập một cách tinh cần và lặng lẽ đến nỗi dường như không có ai ở trong phòng.
Ngày nay, các thiền viện khắp nơi quy tụ năm ba trăm tu sĩ, đặt ra thời gian biểu cho đến từng phút, hạn chế khu vực lui tới, gần như trói tay chân người ta không khác gì ở tù. Nếu có ai phạm dù một lỗi nhỏ cũng bị đánh và ném ra khỏi chùa không bao giờ tha thứ. Sự rình rập và độc ác còn tồi tệ hơn những viên chức nhà nước! Mỗi khi xong các kỳ thất, có nhiều người ngã bệnh, nhiều người khác hoàn toàn suy kiệt. Thế là những mầm non chưa ra đã bị nổ tung, khiến cho cha mẹ và thầy đâm chán.
Đấy là hành động của những người tự xưng chuyên môn dạy thiền ngày nay. Than ôi! Những ông thầy theo phong trào ấy không thể vượt trên đám đông tầm thường, thật đáng thương. Người xưa dựng ra tấm ngăn là cái chết, mở ra cái hố để chôn sống những người học đạo thiền (1). Tất cả những điều này ngày xưa được làm là nhắm một mục tiêu đặc biệt, nhưng ngày nay người ta bắt chước một cách mù quáng, với hy vọng sai lầm là sẽ phát sinh cùng một hậu quả.

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2016

BA LẦN CẢNH CÁO KHI SẮP NHẬP NIẾT BÀN CỦA PHẬT THÍCH CA

BA LẦN CẢNH CÁO KHI SẮP NHẬP NIẾT BÀN CỦA PHẬT THÍCH CA PHẬT sắp nhập niết bàn, khai thị lần cuối cùng có ba lần cảnh cáo. Lúc bây giờ Đức Thế Tôn từ sơ thiền đến nhị thiền, tam thiền cho đến nhập diệt tận định, rồi từ diệt tận định trở ngược lại, cho đến sơ thiền. Thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng: “Ta dùng bát nhã thâm sâu, quán khắp tất cả lục đạo trong tam giới, căn bản tánh lìa, cuối cùng tịch diệt, đồng với tướng hư không, vô danh vô thức, tình chấp đoạn diệt, vốn là bình đẳng, chẳng cao chẳng thấp, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng tri chẳng giác, chẳng thể trói buộc, chẳng thể giải thoát, vô chúng sanh, vô thọ mạng, chẳng sanh chẳng khởi, chẳng tận chẳng diệt, phi thế gian phi phi thế gian, Niết Bàn sanh tử đều bất khả đắc, nhị tế (trước, sau) bình đẳng, các pháp bằng nhau việc làm đồng như chẳng làm, cứu cánh yên tịnh. Từ pháp vô trụ, hành theo pháp tánh, dứt tất cả tướng, chẳng có một vật, pháp tướng như thế đều bất khả đắc. Những kẻ biết được gọi là người xuất thế gian, việc này chẳng biết gọi là sanh tử bắt đầu, các người cần phải đoạn dứt vô minh, diệt sự bắt đầu của sanh tử”. Lần thứ nhì, cũng từ Sơ thiền cho đến Diệt tận định, rồi từ Diệt tận định trở ngược lại cho đến Sơ thiền. Thuận nghịch ra vào chín bậc thiền định xong, lại nói với đại chúng rằng: “Ta dùng Ma Ha Bát Nhã quán khắp hữu tình vô tình trong tam giới, tất cả người và pháp đều là cứu cánh, chẳng có kẻ trói buộc, chẳng có người giải thoát, vô trụ vô y (chẳng nơi nương tựa) chẳng thể nhiếp trì, chẳng vào tam giới, vốn là thanh tịnh, chẳng cáu bẩn, chẳng phiền não, bằng với hư không, bất bình đẳng, phi bất bình đẳng, tất cả tư tưởng động niệm trong tâm đều ngưng nghỉ, pháp tướng như thế gọi là đại Niết Bàn, chơn thật thấy được pháp này gọi là giải thoát, phàm phu chẳng thấy gọi là vô minh”. Nói xong nhập Siêu thiền lần thứ ba, từ Sơ thiền cho đến Diệt tận định, rồi từ Diệt tận định trở ngược lại cho đến Sơ thiền, lại nói với đại chúng rằng: “Ta dùng Phật nhãn quán khắp tất cả các pháp trong tam giới, thực tế của vô minh tánh vốn giải thoát, tìm khắp mười phương đều chẳng thể được. Vì căn bản của vô minh chẳng có, nên nhánh lá của vô minh đều sẵn giải thoát, vì vô mình giải thoát nên lão tử đều được giải thoát. Do nhân duyên này nay ta an trụ nơi Thường Tịch Diệt Quang (ánh sáng thường tịch diệt) gọi là đại Niết Bàn”. Lời cảnh cáo kể trên đều do lòng đại bi bất khả tư nghì của Phật, thuận nghịch nhập siêu thiền rồi nói ra. Kẻ gặp được sự dạy bảo này, nên lấy xương mình làm bút, lột da mình làm giấy, chích máu mình làm mực, viết ra để cạnh mình, chẳng nên giậy phút tạm quên, chẳng nên sát na mất sự chiếu soi. Theo ba lần cảnh cáo cuối cùng của Phật, quán tất cả pháp trong tam giới, nói bản tánh vô minh vốn là giải thoát, cho nên khắp mười phương trong pháp giới, hoặc hữu tình, hoặc vô tình, hoặc hữu tánh, hoặc vô tánh, núi sông, đất đai, cỏ cây, người, vật … Chẳng trong tam giới, chẳng ngoài tam giới, chẳng theo sanh tử, chẳng trụ Niết Bàn, đều đồng nhất tâm của chơn như diệu tánh. Nếu tín giải như vậy thì đốn ngộ được nhất thừa, chẳng còn lời bí mật nào hơn ý chỉ này! Hỏi: Theo tục đế thì thánh phàm khác nhau, phàm phu vọng chấp thấy nghe, ngoài tâm kiến lập các pháp, bậc Thánh đã liễu ngộ nhất tâm, lại sao lại đồng thấy nghe như phàm phu? Đáp: Bậc Thánh dù có thấy nghe, nhưng chẳng có chấp trước, luôn luôn diễn đạt vạn vật chẳng thật, đồng như huyễn hóa.  Như Kinh Đại Niết Bàn, Bồ Tát Ca Diếp bạch Phật rằng: Thế Tôn, nếu phiền não từ điên đảo tưởng sanh ra, thì tất cả các bậc Thánh đều thật có điên đảo tưởng, mà tại sao chẳng có phiền não, vậy nghĩa này là thế nào? Phật hỏi: Tại sao nói bậc Thánh có điên đảo tưởng? Ngài Ca Diếp nói: Thế Tôn, tất cả bậc Thánh thấy trâu cũng gọi là trâu, thấy ngựa cũng gọi là ngựa, thấy nam nữ, lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ và khứ lai đều cũng vậy, thế là điên đảo tưởng rồi! Phật nói: Phàm phu có hai thứ tưởng, một là thế lưu bố tưởng (thế gian phổ biến lưu hành), hai là trước tưởng (tư tưởng chấp thật). Bậc thánh chỉ có thể lưu bố tưởng, chẳng có trước tưởng. Phàm phu vì sự cảm giác sai lầm, nơi thế lưu bố mà sanh ra trước tưởng, bậc Thánh vì hay chiếu soi thật tướng; nơi thế lưu bố chẳng sanh trước tưởng, nên phàm phu gọi là điên đảo tưởng; bậc Thánh dù biết nhưng chẳng gọi là điên đảo tưởng. Lại cảnh vốn tự không, đâu cần phải phá hoại sắc tướng rồi mới là không! Vì chơn tâm của bậc Thánh thường tự chiếu, chẳng nhờ nhân duyên mới sanh khởi, phàm phu thì chấp trước tri kiến, có năng có sở. Nên Triệu Luận nói: “Hễ có sở tri thì có sở bất tri, chơn tâm của bậc Thánh vô tri nên vô sở bất tri, cái tri của bất tri mới được gọi là Nhất thiết tri”. Vậy Kinh nói: “chơn tâm của bậc thánh vô tri, vô sở bất tri là đáng tin lắm. Cho nên bậc thánh nơi tâm trống rỗng mà sự chiếu soi chẳng thiếu sót, suốt ngày tri mà chưa từng tri là vậy. Cũng như nước trong thì thấy bóng, đâu có sanh tâm năng sở, cảnh và tâm đều không, chẳng có cái tư tưởng giác tri”. Trong kinh Lăng Già, Phật nói với Bồ Tát Đại Huệ rằng: “Cảnh thế gian như bóng tượng trong gương, và cảnh giới chiêm bao, nhưng chẳng phải trước mắt của bậc thánh không có cảnh thế gian. Phàm phu vì tư tưởng mê lầm nên đuổi theo cảnh chấp thật, gọi là vô minh điên đảo, chẳng phải minh trí. Bậc Thánh thấy cảnh đồng như phàm phu, mà chẳng có tâm niệm chấp trước, nên chẳng gọi là điên đảo”. Giải thích rằng: Như thí dụ kể trên tỏ rõ cảnh chỉ có một, mà sự thấy có khác. Bậc Thánh chẳng phải không thấy cảnh thế gian, mà khi thấy đồng như thấy mặt trăng trong nước và bóng tượng trong gương vậy. Hỏi: Sự thấy của phàm phu có năng thấy sở thấy, nên tâm và cảnh rõ ràng, vậy thì so với sự thấy của bậc Thánh làm sao phân biệt? Đáp: Sự thấy của bậc Thánh thì Có và Không đồng thời chiếu soi, trong ngoài chẳng trụ, như tiếng dội trong hang, bóng hiện trong gương mà chẳng khởi tâm tác ý, sáng tỏ nhiệm mầu, tịch mà thường chiếu, nên nói là thường ở trong chánh niệm, cũng gọi là chánh tri. Kỳ thật, chẳng phải hữu niệm hữu tri, cũng chẳng phải vô niệm vô tri. Nếu chỉ vô niệm thì tịch mà mất sự chiếu soi, nếu chỉ có chiếu soi thì chiếu mà mất sự thường tịch, cả hai đều chẳng chánh. Chánh là ở chỗ Tịch và Chiếu đi song song với nhau. Trong HOÀN NGUYÊN TẬP nói: “Tự tánh khởi chiếu, chiếu soi tất cả, liễu liễu tri mà vô sở tri, liễu liễu kiến mà vô năng kiến, trong ngoài sáng tỏ, cùng khắp pháp giới, cũng gọi là vô chướng ngại, nhãn của Phật TỲ LÔ GIÁ NA, tràn khắp mười phương chiếu soi tất cả quốc độ Phật” tức là nghĩa này vậy. Lại nói: Tâm hay làm Phật, hay làm chúng sanh, hay làm thiên đàng, hay làm địa ngục, hễ tâm có sai biệt thì muôn ngàn cảnh giới sanh khởi, hễ tâm bình đẳng thì pháp giới trống rỗng yên tịnh. Tâm phàm thì tam độc nổi lên, tâm thánh thì lục thông tự tại, tâm không thì nhất đạo trong sạnh, tâm hữu thì muôn cảnh tung hoành, như tiếng  vang trong hang, lời hùng dội tiếng mạnh, như gương soi tướng, hình lõm hiện bóng co, thế thì biết vạn hạnh do tâm, tất cả tại ta. Bên trong hư thì bên ngoài chẳng thật, bên ngoài tế thì bên trong chẳng thô, thiện nhân tất gặp thiện duyên, ác hạnh khó tránh ác cảnh, sự vui của thiên đàng, sự khổ của địa ngục đều là tự tâm làm ra, chẳng phải người khác lãnh thọ, chẳng do trời sanh, chẳng do đất mọc, chỉ tại nhất niệm ban đầu của mình, nên có sự thăng trầm như thế. Muốn được bên ngoài an hòa thì bên trong cần phải bình tĩnh, tâm không thì cảnh tịch, niệm khởi thì pháp sanh, nước đục thì làn sóng đen tối, nước trong thì bóng trăng sáng tỏ. Sự cần thiết của người tu hành đều chẳng ra ngoài những việc kể trên, gọi là cửa ải của chúng diệu, cũng là quê nhà của vạn linh, căn bản của thâm trầm và nguồn gốc của họa phước. Chỉ cần tự tâm luôn luôn được chánh niệm, đâu thể nghi ngờ cảnh giới bên ngoài! Cho nên, hễ lìa được tội hạnh, phước hạnh, bất động hạnh của chúng sanh, thì chẳng có quả báo khổ vui của tam giới, hễ lìa được kiến văn giác tri của chúng sanh thì đâu có cảnh giới của ngũ uẩn, lục căn, lục trần và lục thức! Nên biết, mê ngộ do thức, nhiễm tịnh do tâm, ấy cũng là mục tiêu của tiền triết hậu học, chỉ thị của muôn ngàn Kinh Luận vậy. Trong kinh Lăng Già có bài kệ rằng: “Tâm niệm như nắm đất, làm ra như chén bát (chén bát dụ cho chúng sanh, nắm đất dụ cho tự tâm), mỗi thứ dụ khác nhau, tất cả do tâm tạo”. Nếu nhất niệm chẳng sanh thì các duyên tự dứt, nên nói: “Nhất niệm tâm chẳng sanh thì các duyên tự dứt, nên nói: “Nhất niệm tâm chẳng sanh, vạn pháp không sai”. Hiện nay, hoặc tham sanh sợ chết; hoặc lo sống lo già; hoặc bỏ vọng bỏ thân, tùy theo tư tưởng mà tạo tác, nghiệp quả xoay chuyển mãi không dừng. Nếu liễu đạt sanh tử vô sanh, vọng tức vô vọng, một niệm tâm tịch, vạn lự (tất cả tâm và pháp) đều tiêu. Vậy thì biết hễ tâm ngộ là xong, chẳng còn pháp nào hơn nữa. 

Thứ Năm, 9 tháng 6, 2016

BÀI HỌC ĐẮT GIÁ TỪ CÂU CHUYỆN CHÓ NGAO TÂY TẠNG THÁCH ĐẤU CHÓ GIÀ TRỤI LÔNG

Những người có bản lĩnh thật sự, họ luôn luôn bảo trì một trạng thái bình tĩnh ôn hòa, giống như ông lão và “con chó già” của ông, chỉ là điềm đạm ung dung mà tồn tại.

Có một anh chàng dắt theo một con chó ngao Tây Tạng trị giá cả bạc triệu ra ngoài đi dạo. Anh ta hễ gặp ai cũng đều đem con chó ra khoe, lại còn huyênh hoang mà nói rằng: “Người không có bốn năm trăm cân sức lực thì không thể kéo nổi chú chó của tôi”.

Lúc này, anh chàng nhìn thấy một ông già bị hói đầu bên đường cùng với một con chó gần như đã rụng hết lông đang ngồi bên cạnh.

Con chó ngao Tây Tạng của anh ta hướng về phía con chó đó kêu sủa ầm ĩ, nhưng con chó già kia không thèm để ý đến nó.

Chàng trai cảm thấy không vui. Nói rằng: “Ông lão này! Con chó của ông lớn thế kia, là giống chó gì vậy? Hãy để hai con chó của chúng ta đấu với nhau thử xem? Nếu chó của ông thua hãy đưa cho tôi 500 đồng, còn nếu chó ngao Tây Tạng của tôi thua thì tôi sẽ đưa cho ông 2000 đồng”.

Ông lão nói: “Tôi đang lo lắng về thức ăn tháng sau của anh bạn già này đây! Nếu được thì hãy đánh cược lớn hơn một chút? Nếu chó của tôi thua, tôi sẽ đưa cho anh 5 vạn, còn nếu chó của anh thua thì anh hãy đưa cho tôi 3 vạn”.

Anh chàng cười lớn: “Con chó này của tôi là giống chó ngao Tây Tạng thuần chủng. Sau này, ông đừng có nói là tôi đã không nói cho ông biết trước. Được thôi!”.

Hai con chó giao tranh chưa được hai phút, chó ngao Tây Tạng kia đã bại trận, cũng không còn dám kêu sủa gì nữa.

Anh chàng thua mất 3 vạn đồng, vô cùng sầu não: “Ông này, con chó đó của ông là chó gì thế? Sao lại dũng mãnh thế kia?”

Ông lão vừa đếm tiền vừa nói: “Đến bây giờ tôi cũng không biết nó là chó gì nữa, trước khi chưa rụng lông thì gọi là sư tử!”.

Anh chàng nghe xong thì cười không được mà khóc cũng không xong!!!

Bất cứ lúc nào thì cũng đừng có khoe khoang, hãy giữ khiêm tốn! Khiêm tốn! Khiêm tốn hơn nữa!

Bạn khoe khoang cái gì, điều ấy nói rõ bạn đang thiếu nó

Bạn đã là sư tử rồi, thì đâu cần phải chứng minh làm gì nữa? Đâu cần phải khoe khoang làm gì nữa?

Con người sống ở trên đời, không phải là để so đo với người khác. Bản thân hãy sống sao cho có ý nghĩa nhất, và làm ra những cống hiến vĩ đại nhất.

(ST)

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016

Lâm Tế Ngữ Lục

Lởi Dịch Giả

Bản tiếng Việt LÂM TẾ NGỮ LỤC này được trích từ quyển thứ 14 của Chỉ Nguyệt Lục và tập thứ 47 của Bộ Đại Tạng Kinh. Lý do là phần có trong Chỉ Nguyệt Lục không thấy in trong bộ Đại Tạng; Ngược lại, phần in trong bộ Đại Tạng lại không có trong Chỉ Nguyệt Lục, nên chúng tôi dịch cả hai cho đầy đủ.
 Ngữ Lục là bạch thoại đời xưa, thời bấy giờ ghi theo tiếng nói của chư Tổ, một số chỉ có âm mà không có chữ, những tiếng này không có trong tự điển ngày nay, nên dịch ngữ lục khó hơn dịch kinh, vả lại, ý của chư Tổ không phải ở nơi lời nói. Cũng như hỏi: "Thế nào là Phật? Đáp: ba cân mè", "Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Trúc đến? đáp: cây bách trước sân". vân...vân...
Chúng tôi dịch thẳng theo lời của chư Tổ. Người đọc nếu ngay đó ngộ liền là rất tốt, nếu không ngộ được tức nhiên phải không hiểu. Do sự không hiểu, sẽ phát khởi "Nghi Tình". Nếu giữ mãi nghi tình, sau này sẽ được ngộ. Không nên tự ý giải thích để tự bít cửa ngộ của mình.
Cho nên Lục Tổ nói:
"Nay ta gượng nói ra,
Khiến ngươi bỏ tà kiến
Chớ hiểu theo lời nói
Mới cho biết ít phần"
Tức là ý này vậy.
(Viết tại Garden Grove, Hoa Kỳ, mùa Xuân 1993)
Thích Duy Lực

Lâm Tế Ngữ Lục I

Sư họ Hình hiệu là Nghĩa Huyền, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu. Thuở bé, Sư đã có chí lớn xuất gia, sau khi xuống tóc và thọ giới cụ túc, Sư liền ham mộ thiền tông.
Trong thiền hội Hoàng Bá, sư là người có hạnh nghiệp thuần nhứt.
Một hôm ngài Mục Châu, một vị Thiền Sư đã kiến tánh triệt để, là Thủ Tọa Thiền Hội gặp Lâm Tế hỏi:
- Thượng Tọa ở đây được bao lâu?
Sư đáp: "Ba năm".
Mục Châu nói: "Từng đi tham hỏi Hòa Thượng chưa?"
Sư đáp: "Chưa từng tham hỏi vì chẳng biết hỏi cái gì?"
Mục Châu nói: "Sao không đi hỏi Hòa Thượng Thiền Chủ, thế nào là đại ý đích xác Phật pháp?".
Sư liền đi hỏi, chưa dứt lời thì bị Hoàng Bá đánh. Sư trở về gặp Mục Châu, Châu hỏi việc hỏi pháp thế nào?
Sư nói: "Tôi hỏi chưa dứt lời liền bị Hòa thượng đánh và đuổi ra, tôi không hiểu gì hết".
Châu nói: "Đi hỏi lần nữa đi!"
Sư lại đi hỏi nữa, vẫn bị Hoàng Bá đánh đập như trước. Cứ như thế ba lần hỏi, bị ba lần đánh.
Sư bạch với Mục Châu: "Nhờ lòng từ bi khuyên bảo của Thầy dạy, tôi đến tham hỏi Phật Pháp với Hòa Thượng, ba lần hỏi ba lần bị đánh, tôi tự nghĩ, vì chướng duyên ngăn ngại, nên không lãnh hội được ý chỉ thâm sâu. Nay xin từ giã ra đi".
Mục Châu nói: "Nếu quyết định muốn đi, ngươi nên giã từ Hòa Thượng rồi hãy đi".
Sư lễ bái rồi trở về tăng phòng.
Mục Châu đến gặp Hòa Thượng ngay và thưa: "Thượng tọa hỏi pháp kia, tuy hãy còn trẻ nhưng rất kỳ đặc, nếu y đến từ giã, xin Hòa Thượng dùng phương tiện tiếp y, sau này y sẽ thành một cây đại thọ che mát người trong thiên hạ".
Sư đến từ giã Hoàng Bá, Hoàng Bá hỏi: "Đi đâu?"
Sư trả lời: "Chưa quyết định"
Hoàng Bá bảo: "Chẳng cần đi chỗ nào khác, cứ đến thẳng Cao An Thanh gặp Thiền Sư Đại Ngu, ông ấy sẽ vì ngươi mà thuyết pháp".
Sư đến gặp Đại Ngu, Ngu Thiền sư hỏi: "Từ đâu đến?"
Sư thưa: "Từ nơi Hoàng Bá đến".
- Hoàng Bá có lời gì dạy bảo? Đại Ngu hỏi
- Con ba lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị đánh, chẳng biết con có lỗi hay không có lỗi?.
- Hoàng Bá có lòng từ bi thắm thiết như thế đối với ngươi mà ngươi còn đến đây hỏi có lỗi hay không lỗi.
Ngay câu nói ấy, Sư hoát nhiên đại ngộ, rồi thưa: "Phật pháp của Hoàng Bá vốn chẳng có nhiều".
Đại Ngu nắm chặt Lâm Tế rồi nói: "Con quỷ đái dầm, ngươi vừa mới nói có lỗi hay không lỗi, giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá không có nhiều. Ngươi thấy lý lẽ gì nói mau! Nói mau!"
Sư liền thoi vào hông Đại Ngu ba cái. Đại Ngu xô Sư ra, nói: "Thầy ngươi là Hoàng Bá, chẳng dính dáng gì đến việc của ta".
Sư từ giã Đại Ngu trở về Hoàng Bá.
Hoàng Bá thấy Sư về, liền hỏi: "Thằng này đi đi về về tới chừng nào mới thôi?"
Sư thưa: "Chỉ vì lòng từ bi thắm thiết của Hòa Thượng." Sư đảnh lễ rồi đứng hầu một bên.
Hoàng Bá hỏi: "Vừa mới từ đâu về đây?"
- Hôm trước, thừa ý chỉ của Hòa Thượng đến tham hỏi Đại Ngu, rồi trở về đây.
- Đại Ngu có lời dạy gì?
Sư bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện khi gặp Đại Ngu.
- Lão hán Đại Ngu sao nhiều chuyện thế, sau này ta sẽ đánh cho một trận.
- Nói gì sau này, đánh ngay bây giờ. Sư bèn tát Hoàng Bá một tát.
Hoàng Bá nói: "Thằng điên khùng này dám đến đây vuốt râu cọp".
Sư liền hét lớn. Hoàng Bá gọi: "Thị giả, dẫn thằng điên khùng này về Thiền Đường!".
LỜI BÌNH PHẨM
Sau này, Qui Sơn kể công án này hỏi Ngưỡng Sơn: “Lâm Tế lúc ấy ngộ được là nhờ sức của Đại Ngu hay là được sức của Hoàng Bá?”. Ngưỡng Sơn nói: chẳng những cỡi đầu hổ, cũng biết nắm đuôi hổ.
Một hôm, Hoàng Bá phổ thỉnh (Phổ là phổ biến, thỉnh là mời, nghĩa là, mời tất cả tăng chúng cùng nhau đi làm công tác chùa) Sư đi theo sau, Hoàng Bá quay lại thấy Sư đi tay không bèn hỏi : "Cây cuốc đâu?"
Sư thưa: "Có người đem đi rồi".
Bá nói: "Qua đây, ta bàn với ngươi việc này".
Sư lại gần, Hoàng Bá dựng đứng cây cuốc bảo: "Chỉ một cái này, tất cả mọi người trong thiên hạ đều nhấc lên không nổi".
Sư bèn giựt lấy cây cuốc, đưa lên nói: "Tại sao bây giờ ở trong tay ta".
Hoàng Bá nói: "Hôm nay đã có người thay ta phổ thỉnh rồi". Liền trở về chùa.
Sư đang cuốc đất, thấy Hoàng Bá đến bèn ngưng cuốc, đứng thẳng.
Hoàng Bá hỏi: "Ông mệt phải không?"
Sư thưa: "Cây cuốc còn chưa nhấc lên, mệt nỗi gì?"
Hoàng Bá liền đánh, Sư chụp cây gậy của Hoàng Bá xô ngã Hoàng Bá.
Bá gọi: "Duy Na, Duy Na đỡ ta dậy!".
Duy Na chạy lại đỡ Bá dậy rồi nói: "Sao Hòa Thượng tha cho thằng điên khùng vô lễ như thế". Hoàng Bá vừa đứng dậy, liền đánh Duy Na. Sư vừa cuốc đất vừa nói: "Ở chỗ khác thì hỏa táng, còn ở đây người ta chôn sống".
Một hôm, Sư đương ngồi phía trước Tăng đường, thấy Hoàng Bá đến, liền nhắm mắt lại. Hoàng Bá làm bộ sợ hãi, liền trở về phương trượng, Sư theo đến phương trượng lễ tạ. Thủ tọa đứng hầu ở đó, Hoàng Bá bảo Thủ tọa: "Tăng này tuy còn trẻ nhưng lại biết có việc này".
Thủ tọa thưa: "Lão Hòa Thượng này gót chân chưa chấm đất lại ấn chứng cho thằng trẻ này".
Hoàng Bá tự vả miệng mình một cái. Thủ tọa nói: "Biết thì được".
Sư đang nằm ngủ trong Tăng đường, Hoàng Bá vào thấy, lấy gậy gõ vào đầu giường một tiếng. Sư ngó mặt lên thấy là Hoàng Bá, liền nhắm mắt ngủ tiếp. Hoàng Bá lại gõ lần nữa rồi đi lên nhà trên gặp Thủ tọa đang ngồi thiền. Hoàng Bá bảo thủ tọa: "Nhà dưới ông trẻ kia đang ngồi thiền ông ở đây vọng tưởng làm gì?"
Thủ tọa nói: "Lão hán này làm gì vậy?"
Hoàng Bá lại gõ đầu giường một cái, rồi đi ra.
LỜI BÌNH PHẨM
Qui Sơn kể việc này hỏi Ngưỡng Sơn: Ý của Hoàng Bá là thế nào? Ngưỡng Sơn nói: Lưỡng thái nhất tái (Hai do một mà có).
Một hôm, Sư đang trồng cây tùng, Hoàng Bá hỏi: "Trong núi sâu trồng nhiều cây tùng để làm gì?"
Sư thưa: "Một là làm cảnh trang trí cho sơn môn, hai là làm tiêu biểu cho người đời sau". Nói xong, Sư trở đầu cuốc đánh xuống đất ba cái.
Hoàng Bá bảo: "Dù như thế, Ông đã ăn ba mươi gậy của ta rồi". Sư lại dùng đầu cuốc đánh xuống đất ba cái nữa rồi cất tiếng hừ! hừ!
Hoàng Bá nói: "Thiền Tông ta đến ngươi sẽ đại hưng thịnh trên đời."
Một hôm Hoàng Bá vào trong bếp hỏi: "Phạn đầu (người nấu cơm) làm cái gì?"
Phạn đầu thưa: "Lựa gạo cho Tăng chúng".
Hoàng Bá nói: "Một bữa ăn bao nhiêu?"
- Hai giạ rưỡi, Phạn đầu trả lời.
Hoàng Bá nói: "Có phải quá nhiều chăng?
- Còn sợ thiếu nữa, Phạn đầu trả lời.
Bá liền đánh Phạn đầu. Phạn đầu kể việc này với sư.
Sư nói: "Để ta đi khám xét Lão hán này cho ngươi".
Tới giờ đến hầu, Bá kể lại việc nãy,
Sư nói Phạn đầu chẳng hội được ý, xin Hòa Thượng cho một chuyển ngữ.
Hoàng Bá nói: "Ngươi cứ kể đi".
Sư nói: "Phải quá nhiều chăng ?"
Bá nói: "ngày mai sẽ cho ăn một trận".
Sư nói: "Nói gì ngày mai, hôm nay ăn liền".
Thế rồi Sư tới gần Hoàng Bá, tát Hoàng Bá một cái.
Bá nói: "Thằng điên khùng này lại vuốt râu cọp nữa".
Sư hét lớn một tiếng rồi đi ra.
LỜI BÌNH PHẨM
 Qui Sơn đem việc này hỏi Ngưỡng Sơn: Ý của hai tôn túc này là thế nào? Ngưỡng Sơn nói: Hòa Thượng cho là thế nào? Qui Sơn nói: Có nuôi con mới biết lòng từ bi của người cha. Ngưỡng Sơn nói: Không phải vậy! Qui Sơn nói: Ngươi cho là thế nào? Ngưỡng Sơn nói: Giống như tự khuyến khích trộm cắp phá gia tài.
Lúc đương thời, Kỉnh Sơn có 500 chúng nhưng lại ít người tham hỏi. Hoàng Bá cử Sư đến Kỉnh Sơn và hỏi Sư rằng: "Ngươi đến chỗ kia sẽ làm sao?"
Sư thưa: "Đến chỗ ấy tự có phương tiện".
Khi Sư đến Kỉnh Sơn, gặp Kỉnh Sơn tại Pháp đường, Kỉnh Sơn vừa ngước đầu lên Sư liền hét lớn, Kỉnh Sơn định mở miệng nói, Sư phất tay áo đi ra.
Một vị tăng khác hỏi Kỉnh Sơn: "Ông tăng vừa rồi có lời nói gì mà hét Hòa Thượng?".
Kỉnh Sơn đáp: "Ông tăng này từ Thiền Hội Hoàng Bá đến đây, ngươi muốn biết thì tự đi hỏi ông ấy đi".
Sau đó 500 chúng ở Kinh Sơn tan rã hết phân nửa.
Lúc đang kiết hạ, Sư lại lên núi Hoàng Bá gặp lúc Bá xem kinh, Sư bèn nói: "Ta tưởng ông là người, lại vốn là lão Hòa Thượng đếm đậu đen"(Giấy trắng chữ đen). Sư ở lại mấy ngày rồi cáo từ.
Bá nói: "Ngươi phá hạ đến đây sao chẳng hết hạ rồi mới về?".
Sư nói: "Con tạm đến lễ bái Hòa Thượng".
Hoàng Bá bèn đánh đuổi đi. Sư đi mấy dặm, nghi việc này rồi trở lại ở cho đến hết hạ mới cáo từ.
Bá hỏi: "đi đâu?"
Sư đáp: "Chẳng phải Hà Nam thì về Hà Bắc".
Bá bèn đánh một cái, Sư nắm gậy lại, cho Hoàng Bá một bạt tai. Bá cười to, gọi: "Thị giả, đem thiền bản kỷ án của Tiên sư Bá Trượng ra đây".
Sư gọi: "Thị giả! đem lửa lại".
Hoàng Bá bảo: "Không phải vậy, ngươi cứ đem đi, sau này ngươi sẽ dẹp sạch ngôn ngữ của mọi người trong thiên hạ" (không có ai mở miệng được hết).
Sư đến Long Quang gặp Long Quang đang thượng đường, Sư bèn hỏi : "Không hiện ra kiếm bén thì làm sao chiến thắng?".
Long Quang ngồi im lặng. Sư nói: "Đại thiện tri thức há chẳng có phương tiện ư!"
Long Quang nhướng mắt lên "hê!" một tiếng.
Sư dùng tay chỉ rằng: "Lão hán này hôm nay thất bại rồi".
Sư đến Tam Phong gặp Hòa Thượng Bình, Bình hỏi: "Từ đâu đến?"
Sư đáp: "Từ Hoàng Bá đến".
Bình lại hỏi: "Hoàng Bá có dạy lời gì?"
Sư đáp: "Con trâu vàng đêm trước bị thiêu đi, cho đến bây giờ chẳng thấy dấu tích". (Kim ngưu tạc dạ tao đồ than, trực chí như kim bất kiến tông)
Bình nói: "Gió thu thổi sáo ngọc, ai là kẻ tri âm?" (Kim phong súy ngọc quản, na cá thị tri âm)
Sư nói: "Thấu thẳng muôn lớp cổng, chẳng dừng trong giữa đêm". (Trực thấu vạn trùng quan, bất trụ thanh tiêu nội)
Bình nói: "Lời hỏi của ông quá cao tột".
Sư lại nói: "Rồng sanh con phụng vàng, đụng bể pha lê xanh (Long sanh kim phụng tử, xung phá bích lưu ly)
Bình nói: "Hãy ngồi uống trà", rồi lại hỏi : "vừa từ đâu đến?"
Sư thưa: "Từ Long Quang đến".
Bình hỏi: "Long Quang gần đây thế nào?"
Sư bèn ra đi.
Sư đi Phụng Lâm, giữa đường gặp một bà lão già, bà già hỏi: "đi đâu vậy?"
Sư nói: "đi Phụng Lâm"
Bà già nói: "Vừa gặp Phụng Lâm, không có ở nhà".
Sư hỏi: "Đi đâu vậy?"
Bà lão liền đi.
Sư kêu bà đứng lại, bà lão ngó lại, Sư bèn đi.
Chiều đến Phụng Lâm.
Lâm hỏi: "Tôi có việc muốn hỏi thăm được chăng?"
Sư đáp: "Sao lại tự xẻ thịt làm thương tích".
Lâm nói: "Trăng biển lặng không bóng, cá lội tự làm mê". (Hải nguyệt trừng vô ảnh, du ngư độc tự mê)
Sư đáp: "Trăng biển đã không bóng, cá lội đâu thể mê". (Hải nguyệt ký vô ảnh, du ngư hà đắc mê) hay có bản ghi (Hải nguyệt nguyên vô ảnh, du ngư bổn bất mê)
Lâm nói: "xem gió biết sóng dậy, chơi thuyền thả bườm trôi". (Quán phong tri lãng khởi, ngoạn thủy dã bườm phiêu)
Sư đáp: "Một vầng trăng chiếu non sông lặng, chợt kêu một tiếng đất trời thu". (Cô thiềm độc diệu giang sơn tịnh, trừơng khiếu nhất thanh thiên địa thu)
Lâm nói: "Mặt kệ biện tài luận thiên hạ, đối cơ một câu thử nói xem". (Nhậm trương tam thốn huy thiên địa, nhất cú lâm cơ thí đạo khán)
Sư nói: "Gặp đúng kiếm khách nên trình kiếm, Chẳng phải nhà thơ chớ trình thơ". (Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm, bất thị thi nhân mặc hiến thi)
Phụng Lâm bèn thôi.
Sư có bài tụng rằng:
"Đại Đạo tuyệt đồng
Nhậm hướng Tây Đông
Thạch hỏa mặc cập
Điện quang võng thông"
Dịch nghĩa :
Đại đạo tuyệt đồng
Mặc hướng Tây Đông
Đá nhoáng vẫn trễ
Điện chớp chẳng thông
LỜI BÌNH PHẨM
Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: “Các bậc Thánh từ xưa lấy gì để độ người?”.
Ngưỡng Sơn nói: ý của Hòa Thượng thế nào?
Quy Sơn nói: Hễ có lời nói, chẳng phải nghĩa thật.
Ngưỡng Sơn nói: Không phải.
Quy Sơn nói: Vậy ông cho là thế nào?
Ngưỡng Sơn nói: "Quan bất dung kim, tư thông xa mã". (Nhỏ như mũi kim không cho lọt qua quan ải, lén lúc thì cả xe lớn cũng thông qua)
Sư đến Đại Từ, Đại Từ ngồi trong phương trượng.
Sư hỏi: "Lúc đang ngồi ngay trong trượng thất là thế nào?"
Từ nói: "Hàn tùng nhứt sắc thiên niên biệt, dã lão niêm hoa vạn quốc xuân". (Cây tùng ngàn năm một màu tuyết, lão già niêm hoa muôn cảnh xuân)
Sư nói: "Kim cổ vĩnh siêu viên trí thể, tam sơn tỏa đoạn vạn trùng quan". (Trí thể viên mãn siêu kim cổ, núi non phong tỏa vạn trùng quan)
Từ bèn hét!
Sư cũng hét!
Từ nói thế nào?
Sư liền phất tay áo ra đi.
Sư đến Trương Châu Hoa Nghiêm, gặp Hoa Nghiêm đang dựa cây gậy làm thế ngủ. Sư nói: "Lão Hòa Thượng tại sao buồn ngủ?" Hoa Nghiêm đáp: "Tắc gia thiền khách, rõ ràng chẳng động".
Sư bèn gọi thị giả châm trà mời lão Hòa Thượng uống. Hoa Nghiêm gọi Duy Na sắp chỗ ngồi thứ ba cho Thượng Tọa này ngồi.
Sư đến Thúy Phong, Thúy Phong hỏi: "Từ đâu đến đây?"
- Từ Hoàng Bá đến, Sư đáp
- Hoàng Bá có lời dạy gì? Thúy Phong hỏi tiếp.
Sư nói: "Hoàng Bá chẳng có lời nói gì".
- Tại sao không? Thúy Phong hỏi.
Sư nói: "Giả sử có cũng không có chỗ để kể".
Phong nói: "Cứ kể xem đi!"
- Nhất tiễn quá Tây Thiên, (bắn một mũi tên đã qua khỏi Tây Thiên) Sư đáp.
Sư đến Tượng Điền, hỏi: "Bất phàm, bất Thánh xin Sư nói mau"
Điền đáp: "Lão tăng chỉ như thế này"
Sư bèn hét rằng: "Bao nhiêu trọc đầu cứ ở đây tìm việc gì vậy?"
Sư đến Minh Hóa, Hóa hỏi: "Đến đến, đi đi làm cái gì?"
Sư đáp: "Chỉ mong dẫm mòn dép cỏ".
Hóa lại nói: "Thật ra muốn gì đây?"
Sư nói: "Lão hán này, thoại đầu cũng không biết".
Sư đến Tháp Sơ Tổ Đạt Ma, Tháp Chủ nói: "Lễ Phật trước hay lễ Tổ trước?"
Sư đáp: "Tổ và Phật đều chẳng lễ".
Tháp Chủ nói: "Không biết Phật với Tổ có oán thù gì với trưởng lão?"
Sư bèn phất tay áo đi ra.
Một hôm Sư đến Kim Ngưu. Ngưu thấy Sư đến bèn cầm cây gậy ngồi ngang trước cổng. Sư dùng tay gõ cây gậy ba cái rồi đến pháp đường ngồi đệ nhất tọa. Ngưu thấy bèn hỏi: "Chủ khách gặp nhau mỗi mỗi đều tỏ oai nghi, Thượng Tọa từ đâu đến mà quá vô lễ vậy?"
Sư đáp: "Lão Hòa Thượng nói cái gì?"
Ngưu định mở miệng, Sư bèn đánh một tọa cụ, Ngưu làm thế té xuống, Sư lại đánh thêm một tọa cụ nữa. Ngưu nói: "Hôm nay xui quá". Rồi về phương trượng.
LỜI BÌNH PHẨM
Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: hai vị tôn túc này có thắng bại hay không?
Ngưỡng Sơn nói : Thắng thì cùng thắng mà bại thì cùng bại.
Một ngày kia, Hoàng Bá bảo Sư mang thư đến Qui Sơn. Khi ấy Ngưỡng Sơn làm Tri khách, nhận được thư do Sư trao, liền hỏi: "Cái này là của Hoàng Bá, còn cái nào của sứ giả đây?"
Sư bèn bạt tai. Ngưỡng Sơn nắm tay lại nói: "Lão huynh biết việc này thì thôi".
Rồi hai người cùng nhau đi gặp Qui Sơn. Qui Sơn hỏi: "Hoàng Bá sư huynh có bao nhiêu chúng?"
Sư đáp: "Bảy trăm chúng".
Qui Sơn hỏi: "Người nào làm Quản-chúng?".
Sư nói: "Hồi nãy đã đưa thư rồi". Sư hỏi lại Qui Sơn: "Hòa Thượng ở đây được bao nhiêu chúng?"
Qui Sơn nói: "Một ngàn năm trăm chúng".
Sư nói: "Nhiều quá ha!"
- Sư huynh Hoàng Bá cũng không ít, Qui Sơn đáp.
Sư từ giã Qui Sơn, Ngưỡng Sơn đưa ra cửa nói: "Ngươi về sau đi hướng Bắc có chỗ ở".
Sư nói: "Há có việc này ư?"
Ngưỡng Sơn nói: "Hãy đi đi, về sau có một người phụ tá cho lão huynh, người này có đầu không có đuôi, có thỉ mà không có chung". (Sau này, Sư đến Trấn Châu, Phổ Hóa đã ở đó trước Sư, Sư khai đường kiến lập tông phong, Phổ Hóa phụ tá cho Sư, Sư trụ không bao lâu, Phổ Hóa mất trước).
Khi Sư đến trụ trì chùa Lâm Tế, kẻ học thiền đến rất đông. Một hôm, Sư nói với hai Thượng-tọa Phổ Hóa và Khắc Phù rằng: "Ta muốn ở đây kiến lập tông chỉ Hoàng Bá, hai ông hãy giúp ta". Hai vị lui ra.
Ba ngày sau, Phổ Hóa đến hỏi: "Ba ngày trước Hòa Thượng nói gì?"
Sư bèn đánh.
Ba ngày sau nữa, Khắc Phù lại đến hỏi: "Ba ngày trước Hòa Thượng đánh Phổ Hóa là sao?"
Sư cũng đánh.
Đến chiều tiểu tham, Sư dạy chúng:
"Có khi đoạt nhân không đoạt cảnh ;
Có khi đoạt cảnh không đoạt nhân ;
Có khi nhân cảnh đều đoạt ;
Có khi nhân cảnh đều không đoạt".
Khắc Phù hỏi: "Thế nào là đoạt nhân không đoạt cảnh?"
Sư đáp:
"Mặt trời phát sinh lụa trải khắp,
Hài nhi tóc dài trắng như tơ".
(Hi nhật phát sinh phô địa cẩm,
Anh hài thùy phát bạch như ti)
Khắc Phù lại hỏi: "Thế nào là đoạt cảnh không đoạt nhân?"
Sư đáp:
"Lệnh vua đã ban khắp thiên hạ,
Tướng quân biên thùy chẳng thấy nghe".
(Vương lệnh dĩ hành thiên hạ biến,
Tướng quân tắc ngoại tuyệt yên trần).
Khắc Phù lại hỏi: "Thế nào là nhân cảnh đều đoạt?"
Sư đáp:
"Biện Phần (hai tỉnh ở biên giới) bặt tin tức,
Một mình ở một nơi".
(Biện Phần tuyệt tin,
Độc xử nhất phương).
Khắc Phù hỏi: "Thế nào là nhân cảnh đều không đoạt ?"
Sư đáp:
"Vua lên ngôi bảo điện,
Lão ẩn dật ca ngợi".
(Vương đăng bảo điện,
Dã lão âu ca)
Khắc Phù nghe xong, liền khai ngộ.
Sư từng thị chúng rằng: "Người học từ bốn phương đến. Sơn tăng ở đây phân làm ba thứ căn cơ để tiếp độ. Như người trung hạ căn đến thì ta đoạt cảnh họ mà chẳng trừ pháp họ; như người trung thượng căn đến thì ta cảnh pháp đều đoạt; như người thượng thượng căn đến thì ta cảnh, pháp, nhơn đều chẳng đoạt; như có kẻ kiến giải xuất cách (siêu việt ba thứ căn cơ) đến thì sơn tăng ở đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng tùy căn cơ".
LỜI BÌNH PHẨM
 Đại Huệ Tông Cảo Thiền sư giải đáp "Tăng hỏi về Tứ liệu giản của ngài Lâm Tế".
Tăng hỏi: Lâm Tế thị chúng rằng: "Có khi đoạt nhân chẳng đoạt cảnh, có khi đoạt cảnh chẳng đoạt nhân, có khi nhân cảnh đều đoạt, có khi nhân cảnh đều chẳng đoạt".
Vậy thưa Hòa Thượng, thế nào là đoạt nhân chẳng đoạt cảnh?
Đại Huệ đáp: Ngoài ba ngàn dặm tuyệt lầm lẫn.
Vị tăng hỏi tiếp: Thế nào là đoạt cảnh chẳng đoạt nhân?
Đại Huệ đáp: Nhổ đinh trong mắt.
Tăng lại hỏi: Ngài Lâm Tế nói: "Mặt trời phát sinh lụa trải khắp, Hài nhi tóc dài trắng như tơ". Chẳng biết so với lời đáp của Hòa Thượng là đồng hay là khác?
Đại Huệ đáp: Ăn phẩn của người ta chẳng phải là con chó tốt.
Vị Tăng lại hỏi tiếp: "Khi lệnh vua đã ban khắp thiên hạ, tướng quân biên thùy chẳng thấy nghe" là thế nào?
Đại Huệ đáp: Hồi nẫy vẫn còn được, bây giờ lại bậy bạ. Việc này quyết định chẳng ở nơi ngôn ngữ.
Thế cho nên các bậc Thánh xưa tiếp tục ra đời, mỗi mỗi đều dùng phương tiện khéo léo nói đi nói lại cốt để người đời đừng bị kẹt nơi ngôn từ . Nếu ở nơi lời nói thì Đại-tạng giáo điển năm ngàn bốn trăm tám mươi quyển thuyết quyền, thuyết thực, thuyết hữu, thuyết vô, thuyết đốn, thuyết tiệm, đâu phải không có lời nói. Tại sao Tổ Đạt Ma phải đến Đông Độ nói là trao truyền tâm ấn, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Vì sao chẳng nói truyền huyền, truyền diệu, truyền ngôn, truyền ngữ chỉ cần người đương cơ, mỗi mỗi ngay đó ngộ tự bản tâm, thấy tự bản tánh nên bất đắc dĩ nói tâm nói tánh đã là quá dài dòng rồi! Nếu thật muốn nhổ sạch gốc rễ của sanh tử, điều cần thiết nhất là chớ nên ghi nhớ lời nói của ta, dẫu cho niệm được một Đại-tạng giáo điển như bình xả nước, cũng chỉ gọi là chở phẩn vào, không gọi là chở phẩn ra, lại bị những lời nói này chướng ngại làm cho chánh tri kiến của mình chẳng thể hiện tiền, thần thông sẵn sàng của mình chẳng thể phát hiện, chỉ cứ chói lòa sáng bóng trước mắt cho là hiểu thiền, hiểu đạo, hiểu tâm, hiểu tánh, hiểu kỳ lạ, hiểu huyền diệu, giống như quăng gậy đánh mặt trăng, chỉ phí sức tâm thần, Như Lai nói là kẻ đáng thương xót vậy!. 
Người xưa phàm có một lời nửa câu làm phương tiện khéo léo để các học nhân nuốt vô cũng không được mà nhả ra cũng không xong, như nuốt phải viên kẹo có gai. Nếu là kẻ anh linh độc thoát, kẻ ra ngoài tình thức siêu việt lý tánh thì những gai góc này cũng chỉ là những đồ chơi, những thứ cơm trà lễ cúng quỷ thần. Chỉ vì ông chẳng thể niệm niệm duyên khởi vô sanh, cứ chỉ hướng vào tâm ý thức mà đoán mò, hễ thấy tông sư mở miệng liền hướng vào trong miệng của tông sư để tìm huyền, tìm diệu, lại bị tông sư đảo ngược một cái thì bổn mạng của mình vẫn chẳng biết lọt vào chỗ nào, dưới gót chân vẫn đen tối, mịt mù như thùng sơn đen; Cũng như hồi nãy Thượng-tọa hỏi về "đoạt nhân chẳng đoạt cảnh" v.v.. Chỉ biết đọc theo sách!. Tôi đáp đúng như pháp mà họ cũng không hiểu được, cứ hỏi xong một đoạn lại hỏi một đoạn nữa, giống như người nhà quê truyền khẩu lệnh với nhau.
Nay ta chẳng tiếc khẩu nghiệp vì các ngươi mà dây dưa chú giải một phen.
Một hôm Lâm Tế thị chúng rằng: "Có khi đoạt nhân chẳng đoạt cảnh, có khi đoạt cảnh chẳng đoạt nhân, có khi nhân cảnh đều đoạt, có khi nhân cảnh đều chẳng đoạt". Có lãnh hội chăng? Ngài (Lâm Tế) im lặng giây lâu nhìn qua nhìn lại rồi xuống tòa. Sự kiện này tức là Bảo Kiếm Kim Cang Vương.
Lời nói của ta hôm qua là đem con rắn độc, con rít, con ngô công, đủ thứ độc đựng trong một cái lu, ông thử đem tay thọc vào mà lấy ra một con không độc xem, nếu được như vậy là có ít phần tương ưng; nếu không được, là tại căn tánh của ông chậm lụt, xưa nay chưa có tu, trách ta chẳng thể được.
Lúc bấy giờ Lâm Tế nói những lời ngắn dài, này nọ, trăm điều vạn mục. Còn đây, chỉ vì ngươi không hiểu, xem không ra, nếu ngươi lãnh hội ý này thì những lời nói của chư Tổ như "Từ khi nước Hồ làm loạn. Ba mươi năm chưa từng thiếu muối tương"([1]) hay "Tụng kinh trên lầu chuông, trồng rau ở dưới chân giường".v.v... Thì khỏi cần hỏi đều mỗi mỗi tự biết. Người xưa đưa ra một phương tiện đâu phải là mở miệng bậy đâu, cần phải biết ở trong đất sình có gai góc. Lúc bấy giờ có đạo giả Khắc Phù lãnh hội được ý Lâm Tế bèn ra hỏi: "Thế nào là đoạt nhân bất đoạt cảnh". Sư Lâm Tế đáp"Mặt trời phát sinh lụa trải khắp, hài nhi tóc dài trắng như tơ" các ngươi lãnh hội chăng?
"Mặt trời phát sinh lụa trải khắp" --- là cảnh
"Hài nhi tóc dài trắng như tơ" --- là nhân
Hai câu này, một câu là tồn cảnh, một câu là đoạt nhân. Khắc Phù lại có bài tụng rằng:
"Đoạt nhân chẳng đoạt cảnh
Duyên tự dính lầm lẫn".
Đại Huệ nói: "Có gì lầm lẫn mà muốn cầu huyền chỉ, suy lường để phản trách sao?"
Nên tin người xưa, rủ lòng từ bi thì phải có pháp, mà chẳng có pháp nào không rủ lòng từ bi. Nếu kẻ đạo nhãn chưa mở, đại pháp chưa rõ thì đâu thể tránh khỏi hướng vào miệng của người khác tìm thiền, tìm đạo, tìm huyền, tìm diệu, tìm được rồi lại e sợ người ta biết đến, khi thuyết ra lại sợ thuyết hết rồi sau này lại không có pháp để thuyết. Phải biết cái này là cái pháp vô hạn lượng mà ông muốn dùng cái tâm có hạn lượng để truy cứu là sai lầm lớn, cũng như Thế Tôn trên hội Linh Sơn trước mặt cả triệu chúng nói chánh pháp nhãn tạng (niêm hoa thị chúng) mà chỉ có một mình Ca Diếp mỉm cười đón nhận. Vậy Thế Tôn đâu có sợ người ta biết, đâu phải ở trong phòng kín bí mật truyền thọ tâm ấn đâu.
Thiền của ta ở đây chỉ cho các ngươi nghe, không cho các ngươi hiểu, như những lời giải thích "Tứ liệu giản kể trên, các ngươi cũng nghe rồi, cũng hiểu rồi, nhưng ý của Lâm Tế quả nhiên là như thế chăng ? Nếu như tông chỉ Lâm Tế quả là như thế thì há có thể truyền tới ngày nay chăng? Nếu các ngươi nghe ta nói ra mà cho rằng chỉ là như thế, thì nay ta nói thật cho các ngươi biết, đây là ác khẩu hạng nhất, hễ còn ghi nhớ một chữ là còn nguồn gốc sanh tử. Các ngươi ở các nơi học được những huyền lại thêm huyền, diệu lại thêm diệu là phẩn thiền gì?. Xưa nay cứ trong bụng cho là có việc thật.
Chớ sai lầm các Thượng-Tọa ơi !
Các ngươi nếu thật muốn tham thiền thì nên đem những gì học được ở các nơi mà quăng hết ra ngoài thế giới khác, chỉ còn lại trăm điều chẳng biết, trăm điều chẳng hiểu, trống rỗng tâm, rồi mới đến đây cùng ta lý hội. (Hết phần bình phẩm của Ngài Đại Huệ)
Có vị Tăng hỏi: "Thế nào là chơn Phật, Chơn Pháp, Chơn Đạo xin Sư khai thị?". 
Sư đáp: "Phật là tâm thanh tịnh, Pháp là tâm quang minh, Đạo là nơi nào cũng vô ngại. Ba tức là một, đều là giả danh mà chẳng thực có. Chơn đạo nhân niệm niệm tâm chẳng gián đoạn. Tổ Đạt Ma đến Đông Độ, chỉ tìm người chẳng bị người ta mê hoặc, sau gặp nhị Tổ chỉ nói một lời là xong ; mới biết từ trước uổng dụng công phu. Hôm nay chỗ thấy của sơn tăng cùng với chư Tổ chư Phật chẳng khác. Nếu trong câu thứ nhất lãnh hội được thì kham làm thầy cho Tổ và Phật. Nếu trong câu thứ nhì lãnh hội được, thì kham làm thầy cho cõi người cõi trời. Nếu trong câu thứ ba lãnh hội được thì tự cứu không xong".
Tăng hỏi: "Thế nào là câu thứ nhất?"
Sư nói:
"Ấn khai tam yếu điểm son hẹp,
Chưa cho suy nghĩ chủ khách phân"
- Thế nào là câu thứ nhì?
Sư nói: "Diệu giải chẳng cho vấn vô trước (chấp trước), Phương tiện đâu phụ (cô phụ) triệt lưu cơ".
- Thế nào là câu thứ ba?
Sư nói:
"Hãy xem trên đài hát múa rối,
Kéo dây đều nhờ người bên trong".
Lại nói: "Một cú ngữ phải đủ tam huyền môn, một huyền môn phải đủ tam yếu, có quyền có thực, có chiếu có dụng các người làm sao lãnh hội!".
Ngài Lâm Tế ứng cơ thường hay dùng hét, người ta gọi là "Vào Cửa Liền Hét". Bởi trong một tiếng hét sẵn đủ tam huyền tam yếu và tác dụng chủ khách.
Sư nói: "Có khi một tiếng hét như Kim Mao sư tử cự địa (thế sắp chụp người), có khi một tiếng hét như cây trúc dọ thám hình bóng trong đám cỏ, có khi một tiếng hét chẳng cho là tác dụng một tiếng hét, các ngươi làm sao lãnh hội!".
Có một vị tăng toan tính hỏi Sư, Sư bèn hét. Lúc bấy giờ, môn đồ tham học trong thiền hội đều học Sư hét, Sư nói: "Các ngươi cứ bắt chước ta hét. Nay ta hỏi các ngươi: Có một người từ bên Đông ra, một người từ bên Tây ra, hai người cùng hét một lượt, ở đây phân được chủ khách chăng ? Mà các ngươi làm sao phân biệt? Nếu phân biệt chẳng được, thì không nên bắt chước lão tăng hét".
Một hôm, Sư thượng đường, Thủ tọa của hai đường gặp nhau đồng thời cùng hét. Tăng hỏi Sư: "Có chủ khách hay không?"
Sư đáp: "Chủ khách rõ ràng". Xong, Sư thị chúng rằng : "Muốn lãnh hội câu chủ khách của Lâm Tế, xin hỏi hai vị Thủ tọa trong thiền đường".
Một hôm, Sư thượng đường, có một vị tăng ra đảnh lễ, Sư bèn hét, vị tăng nói: "Lão Hòa Thượng chớ ló đầu là tốt".
Sư nói: "Ngươi cho là lọt vào chỗ nào?"
Vị tăng bèn hét!. Thế rồi tăng lại hỏi: "Thế nào là đại ý Phật Pháp?"
Sư bèn hét!. Tăng lại đảnh lễ, Sư nói: "Ngươi cho là hét tốt hay không?"
Tăng đáp: "Thảo tặc đại bại".
Sư nói: "Lỗi ở chỗ nào?"
Tăng nói: "Không cho tái phạm".
Sư bèn hét!. Trong Thiền hội Lâm Tế có hai bạn đồng tham, vấn đáp với nhau, một người nói: "Lìa hai cơ trung hạ, xin huynh nói một câu đi", một người nói: "Tính muốn hỏi là sai", một người nói: "Nếu vậy thì lễ bái lão huynh đi", một người nói: "Thằng cướp này". Sư nghe rồi thượng đường thăng tòa thị chúng:
"Yếu hội Lâm Tế tân chủ cú.
Vấn thủ đường trung nhị thiền khách".
Rồi xuống tòa.
Sư thị chúng rằng: "Người tham học cần phải kỹ càng, như chủ khách gặp nhau thì có ngôn luận qua lại hoặc ấn vật hiện hành hoặc toàn thể tác dụng, hoặc nắm cơ quyền hỷ nộ hoặc hiện bán thân, hoặc cỡi sư tử hoặc cỡi tượng vương. Như tiếng hét của người học chân chính là đưa ra cái chậu bằng mủ, thiện tri thức chẳng biết là cảnh, bèn dính mắc cảnh họ mà làm dáng làm điệu, liền bị người học hét thêm tiếng nữa, thiện tri thức chẳng chịu buông xuống, ấy là bệnh tuyệt vọng chẳng thể trị gọi là "Khách nhìn chủ". Hoặc là thiện tri thức chẳng đưa ra vật gì, tùy chỗ hỏi của người học liền đoạt, người học bị đoạt thà chết chẳng chịu buông, ấy gọi là "Chủ nhìn khách". Hoặc có người học tỏ một cái cảnh trong sạch ra trước mắt thiện tri thức, thiện tri thức biết là cảnh, liền quăng vào hầm sâu, người học nói: "Tốt lắm thiện tri thức". Thiện tri thức liền nói: "Ngốc thay! Chẳng biết tốt xấu". Người học bèn lễ bái, đây gọi là "Chủ nhìn chủ". Hoặc có người học còng tay còng cổ ra trước mắt thiện tri thức, thiện trí thức lại cho còng thêm một lớp, người học hoan hỷ, hai bên đều chẳng biết, ấy gọi là "Khách nhìn khách". Các Đại-đức! Sơn tăng kể chuyện như thế đều là phân biệt ma quái để biết rõ chánh tà vậy".
Sư dạy chúng rằng: "Ta có khi chiếu (chiếu soi) trước dụng sau, có khi dụng trước chiếu sau, có khi chiếu dụng đồng thời, có khi chiếu dụng chẳng đồng thời".
- Chiếu trước dụng sau là còn có người - Dụng trước chiếu sau là còn có pháp.
- Chiếu dụng đồng thời là đuổi con trâu của người cày ruộng, là giựt lương thực của người đói, gỡ xương lấy tủy thống hạ kim dùi.
- Chiếu dụng chẳng đồng thời là có vấn có đáp, lập khách lập chủ, nước đất hòa hợp, ứng cơ tiếp vật.
Nếu là người quá lượng (đã ngộ) thì hướng vào trước khi chưa đề ra lời nói, xách lên đi liền còn tốt một chút.
Một hôm Sư thượng đường rằng: "Trên cục thịt đỏ có một chơn nhân vô địa vị, thường từ cửa mặt các ông ra vào. Kẻ chưa chứng ngộ hãy xem đi!".
Khi ấy có vị tăng ra hỏi: "Thế nào là chơn nhân vô địa vị?"
Sư bước xuống tòa nắm chặt vị tăng ấy bảo: "Nói! nói!"
Vị tăng ấy chưng hửng, đang do dự. Sư đẩy ông ta ra, nói: "Chơn nhân vô địa vị là cục cứt khô gì ?" Rồi trở về phương trượng.
Một hôm sư thấy một vị tăng đến. Sư giơ cây phất trần lên.
Ông tăng lễ bái.
Sư bèn đánh. Sau đó lại thấy một ông tăng nữa đến Sư cũng giơ phất trần lên.
Ông tăng không màng đến.
Sư cũng đánh.
Một vị tăng khác đến. Sư cũng lại giơ cây phất trần lên. Vị tăng này nói: "Tạ ơn Hòa-thượng khai thị!"
Sư cũng đánh.
Có một vị tăng hỏi: "Thế nào là đại ý Phật pháp?"
Sư giơ cây phất trần lên.
Tăng bèn hét.
Sư bèn đánh .
Một vị tăng khác hỏi: "Thế nào là đại ý Phật pháp?"
Sư cũng giơ cây phất trần lên.
Tăng bèn hét.
Sư cũng hét. Lúc ấy vị tăng do dự, sư bèn đánh.
Sư khai thị rằng: "Đại chúng, kẻ vì pháp mà chẳng tiếc thân mạng, trước kia ta ở nơi tiên sư Hoàng Bá, ba lần hỏi đại ý đích xác Phật pháp đều bị đánh cả ba lần như bị nhánh cây Hao phất qua. Hôm nay còn muốn thêm một trận, có ai vì ta mà hạ thủ chăng?"
Khi ấy có một vị tăng ra nói: "Để con hạ thủ cho". Sư đưa cây gậy cho tăng, vị tăng đưa tay muốn lấy. Sư bèn đánh.
Sư thăng tòa, có một ông tăng ra. Sư bèn hét. Vị tăng cũng hét, tăng lễ bái, Sư bèn đánh, rồi hỏi tăng rằng: "Từ đâu đến?"
Tăng đáp: "Từ Định Châu đến".
Sư lấy gậy, vị tăng do dự, Sư bèn đánh. Tăng không chịu. Sư nói: "Về sau gặp người mắt sáng sẽ biết".
Sau đó vị tăng ấy đi tham vấn Tam Thánh và kể lại việc này. Tam Thánh bèn đánh, tăng toan muốn nói, Tam Thánh đánh nữa.
Có một lão tôn túc đến tham vấn, hỏi: "Lễ bái là phải hay không lễ bái là phải?"
Sư bèn hét. Tôn túc lễ bái.
Sư nói: "Sơn tặc này tốt".
Tôn túc nói: "Tặc, Tặc!" rồi ra đi.
Sư nói: "Chớ nên cho là vô sự".
Khi ấy thủ tọa đang đứng hầu, Sư nói với thủ tọa: "Thế có lỗi hay không?".
Thủ tọa nói: "có".
Sư nói: "khách có lỗi hay chủ có lỗi"
Thủ tọa nói: "cả hai đều có lỗi".
Sư nói: "lỗi ở chỗ nào?"
Thủ tọa bèn ra đi.
Sư nói : "Chớ nên cho là vô sự".
Đại Giác đến tham vấn Sư. Sư giơ phất trần lên, Đại Giác trải tọa cụ. Sư quăng phất trần xuống, Đại Giác thu tọa cụ, Sư kêu: "Đi thiền đường đi!".
Tăng chúng thấy vậy nói: "Tăng này chắc là thân quyến của Hòa Thượng, không lễ bái mà cũng không ăn gậy".
Sư nghe rồi, cho người kêu Đại Giác, Giác đến sư nói: "Đại chúng nói: Ông không lễ bái cũng không ăn gậy, chắc là thân quyến của Trưởng lão".
Giác nghe, rồi cáo từ đi ra.
Một hôm Sư hỏi viện chủ "Đi đâu về ?"
Viện chủ đáp: "Đi trong phố bán gạo vàng về".
Sư nói: "Bán hết chăng?" "Bán hết" Viện chủ trả lời.
Sư dùng cây gậy quật một cái rằng: "Còn bán được cái này chăng?"
Viện chủ bèn hét, Sư bèn đánh.
Kế đó điển tọa (người quản lý nhà bếp trong tùng lâm) đến, Sư kể việc này, điển tọa nói: "Viện chủ không lãnh hội được ý của Hòa Thượng".
Sư nói: "Ngươi cho là thế nào? "
Điển tọa lễ bái, Sư cũng đánh.
Sư cùng Phổ Hóa đi dự trai tăng, Sư hỏi Phổ Hóa:
"Sợi lông nuốt cả biển lớn.
Hạt cải dung chứa tu di.
Ấy là thần thông diệu dụng hay là pháp giống như thế?"
Phổ Hóa đạp đổ bàn ăn cơm, Sư nói: "Thô lỗ quá vậy!"
Phổ Hóa nói: "Đây là chỗ gì mà nói thô nói tế".
Hôm sau cũng cùng đi dự trai tăng, Sư lại hỏi: "Sự cúng dường hôm nay đâu bằng hôm qua?"
Phổ Hóa cũng đạp đổ bàn ăn nữa, Sư nói: "Được thì được, sao thô lỗ quá vậy!"
Phổ Hóa hét rằng: "Thằng mù, Phật pháp nói gì thô với tế".
Sư le lưỡi.
LỜI BÌNH PHẨM
 Đại Huệ Tông Cảo Thiền-sư nói: "Công án này, Lâm Tế hai lần bị bịt miệng, không biết còn có chỗ thương lượng hay không? nếu có thì làm sao thương lượng?".
Một hôm Sư cùng với Hà Dương và trưởng lão Mộc Thấp ngồi trong tăng đường đàm luận nói tới Phổ Hóa hàng ngày ở ngoài đường giả điên giả khùng, không biết ông ấy là phàm hay là Thánh. Lời nói chưa dứt thì Phổ Hóa vào, Sư bèn hỏi (Phổ Hóa): "Ngươi là phàm hay Thánh?".
Phổ Hóa nói: "Ngươi cho ta là phàm hay là Thánh?"
Sư liền hét lên!
Phổ Hóa dùng tay chỉ rằng: "Hà Dương là con dao mới, Mộc Thấp là lão bà Thiền, chú tiểu Lâm Tế này lại đủ một con mắt".
Sư nói: "Kẻ tặc!".
Phổ Hóa nói: "Tặc! Tặc!". Bèn bỏ đi.
Một hôm Phổ Hóa đương ăn rau sống trước tăng đường, Sư thấy vậy nói: "Giống như một con lừa". Phổ Hóa bèn làm ra tiếng lừa kêu, Sư nói với vị tăng trực rằng: "Chăm sóc cỏ nuôi lừa cho kỹ nhé."
Phổ Hóa nói:
"Thiểu vọng nhân bất thức
Kỳ Lân hữu tái lai
Lâm Tế nhứt chiếc nhãn
Đáo xứ vị nhân khai"
Dịch nghĩa:
Danh vọng ít người biết
Kỳ Lân lại đến nữa
Lâm Tế một con mắt
Chiếu soi khắp mọi nơi.
Một hôm Triệu Châu đến viếng Lâm Tế, lúc đang rửa chân ở nhà sau, Sư thấy bèn hỏi: "Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Trúc đến?"
Triệu Châu đáp: "Gặp nhằm sơn tăng rửa chân".
Sư bước đến gần và làm thế lắng tai nghe, Châu lại nói: "Hội thì hội liền chứ cắn đắng làm gì?"
Sư liền trở về phương trượng.
Triệu Châu nói: "Ba mươi năm hành cước, hôm nay chú giải sai lầm cho người ta".
Sư hỏi Hạnh Sơn: "Thế nào là Lộ Địa Bạch Ngưu?"
Sơn nói: "Hồng! Hồng!"
Sư nói: "Câm sao?"
Hạnh Sơn nói: "Trưởng lão cho là thế nào?"
Sư nói: "Súc sinh này!"
Ma Cốc hỏi: "Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát có nghìn tay nghìn mắt, thử hỏi mắt nào là mắt chính ?"
Sư nắm chặt Ma Cốc nói: "Đức Đại Bi nghìn tay nghìn mắt, mắt nào là mắt chính. Nói mau! nói mau!"
Ma Cốc kéo sư khỏi tòa, tự ngồi lên tòa.
Sư vấn tín. Cốc do dự, Sư bèn hét rồi kéo Ma Cốc xuống tòa. Sư ngồi trở lại.
Ma Cốc bèn đi ra, nhưng lại hỏi: "Quán Âm mười hai mặt, mặt nào là mặt chính?"
Sư xuống tòa nắm chặt Ma Cốc nói: "Quán Âm mười hai mặt đi đâu rồi? Nói mau! Nói mau!"
Ma Cốc xoay người lại muốn ngồi, Sư bèn đánh, Cốc nắm cây gậy, hai người cùng giành nhau đi trở về phương trượng.
Sư khai thị rằng: "Sơn tăng chẳng có một pháp cho người, chỉ là trị bệnh mở trói. Các ngươi cứ lấy lời nói trong miệng của sơn tăng chẳng bằng thôi nghỉ, vô sự còn tốt hơn!. Sư lại nói, Một niệm duyên khởi vô sanh, siêu việt quyền học tam thừa".
Sư dạy chúng: "Thời nay người học Phật pháp cần phải có kiến giải chân chính. Nếu có được kiến giải chân chính thì chẳng nhiễm sanh tử, đi ở tự do, chẳng cần cầu thù thắng, mà thù thắng tự đến.
Này chư đạo hữu, các bậc tiên đức từ xưa đều có đường lối hướng dẫn mọi người ; riêng lối chỉ dẫn người của sơn Tăng đây, chỉ cốt giúp các ngươi không bị người ta mê hoặc, muốn dùng, liền dùng chớ đừng chần chờ thắc mắc. Hiện nay kẻ học chẳng được khai ngộ là bệnh ở chỗ nào? Chính là bệnh ở chỗ chẳng tự tin. Nếu chẳng có tự tin, tức thì các ông tự rộn ràng lan man theo cảnh, bị muôn cảnh lôi cuốn chẳng được tự do. Nếu các ngươi thôi nghỉ cái tâm niệm niệm tìm cầu thì với chư Tổ chư Phật chẳng khác. Các ông muốn nhận biết chư Tổ, chư Phật chăng? Chính là ngươi đang nghe pháp trước mắt đây. Học nhân thiếu tự tin bèn hướng ngoại tìm cầu. Dẫu cho tìm được cũng đều chỉ là văn tự danh tướng trọn chẳng được ý của Tổ sống. Nếu thời nay không gặp, thì ngàn đời vạn kiếp luân hồi trong tam giới, trôi theo cảnh thiện ác, rồi phải vào thai trâu bụng lừa.
Các đạo giả, theo chỗ thấy của sơn tăng cùng với Thích Ca chẳng khác, mỗi ngày mỗi mỗi thứ dụng đều đầy đủ chẳng thiếu cái gì. Sáu thứ thần quang chưa từng gián đoạn, nếu thấy được như thế tức là người vô sự trên đời.
Chư Đại-đức, tam giới không yên, giống như nhà lửa. Đây không phải là chỗ ở lâu của các ngươi. Con quỉ vô thường giết người trong khoảnh khắc, chẳng kể già trẻ, sang hèn. Các ông muốn cùng Tổ và Phật chẳng khác, chỉ cần không hướng ngoại tìm cầu. Trên một niệm thanh tịnh sáng suốt chính là Pháp thân Phật trong nhà ngươi. Trên một niệm vô phân biệt sáng suốt chính là Báo thân Phật trong nhà ngươi. Trên một niệm vô sai biệt sáng suốt chính là Hóa thân Phật trong nhà ngươi. Ba thứ thân này chính là ngươi đang nghe pháp trước mắt đây, chỉ vì chẳng hướng ngoại tìm cầu thì có công dụng này.
Theo các nhà kinh luận lấy ba thứ thân này làm chỗ lý cùng tột. Theo chỗ thấy của sơn Tăng thì chẳng phải vậy. Ba thứ thân này chỉ là danh tự, cũng là ba thứ y. Người xưa nói: "Thân y nghĩa lập, độ y thể luận" (Thân tựa nghĩa mà lập, quốc độ tựa thể mà luận). Vậy Pháp tánh thân và Pháp tánh độ rõ ràng là quang ảnh (những phản ảnh của ánh sáng).
Chư Đại-đức, các ông phải nhận biết người làm quang ảnh này, là cội nguồn của chư Phật, cũng là quê nhà của các ông. Sắc thân tứ đại của các ông không hiểu thuyết pháp, nghe pháp; tì, vị, gan, mật của các ông cũng không hiểu thuyết pháp, nghe pháp; hư không cũng không hiểu thuyết pháp, nghe pháp. Vậy thì cái gì hiểu thuyết pháp, nghe pháp? Ấy là cái chẳng hình dáng mà sáng sủa rõ ràng trước mắt của các ông đó! Nếu thấy được như thế, thì cùng với Tổ và Phật chẳng khác. Chỉ có điều, trong mọi thời đừng để gián đoạn (khắp thời gian) chạm mắt đến đâu là thấy nó ở đó (khắp không gian). Chỉ vì tình sanh trí cách, tưởng biến thể khác (nghĩa là tình thức sanh khởi thì trí tuệ bị ngăn cách và tư tưởng biến đổi thì vật thể cũng trôi theo), nên bị lăn lóc luân hồi trong tam giới chịu đủ thứ khổ não. Nếu theo chỗ thấy của sơn tăng thì không có chỗ nào là chẳng phải giải thoát.
Chư đạo hữu! Các ông phải biết, Tâm pháp vô hình thông suốt mười phương, ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, ở mũi gọi là ngửi, ở miệng gọi là nói bàn, ở tay gọi là nắm bắt, ở chân gọi là chạy nhảy, vốn là một cái tinh minh, phân thành sáu hòa hợp. Một tâm đã không thì mọi nơi đều giải thoát. Sơn tăng nói như thế, ý ở chỗ nào? Chỉ vì tất cả tâm tìm cầu của các ông chẳng thể thôi nghỉ, mới lọt vào cái bẫy cơ cảnh (cảnh cơ xảo) của người xưa.
Chư đạo hữu! Nếu các ông nhận được chỗ thấy của sơn tăng, các ông có thể ngồi ngay đó cắt đứt những đầu mối Báo thân Phật, Hóa thân Phật. Chư Bồ-tát Thập Địa, cho đến Đẳng-giác, Diệu-giác là những kẻ gông cùm; La Hán, Bích Chi Phật là những thứ ô uế nhà cầu; Bồ Đề, Niết Bàn như cọc cột lừa. Tại sao như thế? Chỉ vì các ông không thông đạt được cái không của ba A-tăng-kỳ kiếp, nên mới có chướng ngại này. Nếu là đạo nhân chân chính, trọn chẳng như thế, chỉ tùy duyên tiêu nghiệp cũ, cứ mặc tình mặc áo quần, muốn đi thì đi, muốn ngồi thì ngồi, tâm không một niệm mong cầu Phật quả. Tại sao như thế ? Người xưa nói: "Nếu muốn tạo nghiệp cầu Phật, thì Phật là cái triệu chứng lớn của sinh tử!".
Chư Đại-đức! Thời giờ quí báu, cứ lê lết nơi này nơi nọ mà học thiền học đạo, nhận danh nhận cú, cầu Phật cầu Tổ, cầu thiện tri thức. Chớ nên sai lầm như thế! Các ông chỉ có một cha mẹ, còn cầu cái gì nữa?. Các ông hãy tự phản chiếu xem! người xưa nói: "Diễn Nhã Đạt Đa quên mất đầu, tâm cầu dứt sạch liền vô sự". ([2])
Chư Đại-đức! Chỉ cần giữ tâm bình thường, chớ làm dáng làm điệu. Có một bọn binh đầu trọc chẳng biết tốt biết xấu, thấy thần thấy quỷ, chỉ Đông chỉ Tây, cầu mưa cầu tạnh. Bọn này, chắc chắn có ngày đến trước mặt Diêm Vương 

Lâm Tế Ngữ Lục II

Nếu thấu hiểu được như thế thì chẳng bị cảnh chuyển. Nơi nơi dùng được cảnh, nổi bên Đông, lặn đằng Tây, nổi bên Nam lặn đàng Bắc, nổi ở giữa lặn ở biên, nổi ở biên, lặn ở giữa, đi trên nước như đi trên đất, đi trên đất như đi trên nước. Tại sao được như vậy? Vì đã thấu đạt tứ đại như mộng huyễn.
Các ngươi hiện nay đang nghe pháp đó, chẳng phải tứ đại của các ngươi, chính cái đó hay dùng được tứ đại, mà không bị tứ đại dùng. Nếu thấy được như vậy là đi ở tự do. Chỗ thấy của sơn tăng là cái pháp không thể chê. Nếu ngươi ghét Phàm yêu Thánh thì bị cảnh Thánh Phàm buộc.
Có một số học nhân lên Ngũ Đài Sơn cầu gặp Văn Thù đã là sai lầm rồi vậy. Trên Ngũ Đài Sơn không có Văn Thù.
Các ngươi muốn biết Văn Thù chăng? Chỉ là chỗ dùng trước mắt của các ngươi, xưa nay chẳng khác, mọi nơi chẳng ngại, cái ấy là Văn Thù sống. Các ngươi một niệm tâm sáng suốt không sai biệt, nơi nơi thảy là Phổ Hiền. Các ngươi một niệm tâm tự tại, tùy chỗ giải thoát ấy là Quán Thế Âm. Ba pháp thay phiên nhau làm chủ-bạn, hiển thì nhứt thời hiển, ẩn thì nhứt thời ẩn, một tức ba, ba tức một. Hiểu được như thế mới có thể xem Kinh Giáo. Đại thiện tri thức mới dám báng Phật báng Tổ, mới dám thị phi thiên hạ, bài xích Tam Tạng Giáo-điển, chưởi mắng nơi nơi như mắng tiểu nhi. Hướng trong cảnh nghịch thuận mà tìm người nên nói ta ở trong mười hai năm, (thập nhị nhân duyên) tìm một nghiệp tánh nhỏ như hạt cải cũng chẳng thể được. Nếu như kẻ bị xưng là "Thiền sư con dâu mới" thì phải sợ bị đuổi ra khỏi thiền viện hay bị phạt không cho ăn cơm, suốt ngày không yên ổn. Các bậc tiền bối xưa đến nơi nào cũng bị người không tin đuổi ra, vậy mới biết ấy là quý. Nếu đến chỗ nào đều có người tin thì kham làm cái gì? Nên nói sư tử rống lên một tiếng thì con cho sói bể đầu bể óc".
Các ông! Các nơi đều nói có đạo để tu, có pháp để chứng, ngươi nói thử xem chứng pháp nào? tu đạo nào?
Nay chỗ dụng của ngươi có thiếu vật gì, tu bổ chỗ nào, kẻ tiểu sư hậu học không hội được, lại đi tin bọn dã hồ tinh, bọn chúng thuyết những việc trói buộc người khác, họ nói rằng: "Lý hạnh tương ưng, hộ tiếc tam nghiệp. (Nói và làm phù hợp với nhau thì giữ được thân, khẩu, ý chẳng tạo nghiệp). Mới được thành Phật". Kẻ thuyết như thế nhiều như mưa phùn mùa xuân. Người xưa có nói:
"Lộ phùng đạt đạo nhân,
Đệ nhất mạc hướng đạo".
Dịch nghĩa:
Giữa đường gặp người thông đạt đạo
Tốt nhất chớ nên hướng vào đạo.
Cho nên nói:
"Nhược nhân tu đạo, đạo bất hành
Vạn ban tà cảnh, cạnh đầu sanh.
Trí kiếm xuất lai vô nhất vật
Minh đầu vị hiển ấm đầu minh".
Dịch nghĩa:
Nếu người tu đạo, đạo chẳng hành
Muôn thứ cảnh tà giành nhau sanh
Kiếm trí huệ ra, không một vật
Bên sáng chưa hiện, bên tối sáng.
Cho nên người xưa nói: "Tâm bình thường là đạo".
Các Đại đức, còn muốn tìm vật gì, kẻ đạo nhân vô y trước mắt hiện đang nghe pháp đó phân minh rõ ràng chưa từng thiếu sót cái gì. Nếu ngươi muốn so bằng Tổ bằng Phật, chỉ cần thấy như vậy, chẳng còn nghi ngờ, tâm tâm chẳng khác của ngươi gọi là Tổ sống. Tâm nếu có khác thì tánh tướng khác, vì tâm chẳng khác nên tánh tướng chẳng khác.
Hỏi: "Thế nào là chỗ tâm tâm chẳng khác?"
Sư đáp: "Ngươi muốn hỏi đã là khác rồi vậy, tánh tướng đã phân biệt khác nhau. Các ông chớ hiểu lầm, các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng tự tánh cũng chẳng sanh tánh, chỉ có không danh mà danh-tự cũng không. Ngươi cứ nhận lầm cho rằng cái tên gọi là thật có, ấy là sai lầm lớn rồi đó. Giả sử là có, đều chỉ là cái cảnh y biến có, như: Bồ Đề y, Niết Bàn y, giải thoát y, tam thân y, cảnh trí y, Bồ Tát y, Phật y... Ngươi cứ hướng vào trong quốc độ y biến, tìm vật gì? Cho đến tam thừa mười hai phần giáo đều chỉ là giấy lau chùi những bất tịnh. Phật là huyễn hóa thân, Tổ là tỳ kheo già, ngươi còn là kẻ có mẹ sanh mình chăng? Ngươi nếu cầu Phật thì bị ma Phật nhiếp. Ngươi nếu cầu Tổ thì bị ma Tổ buộc. Ngươi nếu có cầu đều là khổ não, chẳng bằng vô sự thì tốt.
Có bọn tỳ kheo trọc đầu nói với người học đạo rằng: "Phật là cứu cánh, trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp tu hành viên mãn mới thành đạo quả". Các ông nếu nói Phật là cứu cánh vì sao mà tám mươi năm sau, lại đến rừng Sa-la song-thọ nằm ngang mà chết đi ? Nay Phật ở chỗ nào? thế thì biết rõ sanh tử của Phật so với sanh tử của ta cũng chẳng khác. Ngươi nói nếu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi thứ vẻ đẹp là Phật, vậy Chuyển Luân Thánh Vương cũng phải là Phật, vì Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng tốt vậy, nên biết tất cả chỉ là huyễn hóa.
Người xưa có bài kệ rằng:
"Đức Phật hiện thân tướng
Vì thuận tình thế gian
E người sanh đoạn kiến
Phương tiện lập giả danh
Giả nói có ba hai
Tám mươi cũng vẫn không
Có thân phi giác thể
Không tướng là hình chân".
Dịch âm:
Như Lai hiện thân tướng
Vi thuận thế gian tình
Khủng nhân sanh đoạn kiến
Quyền giả lập hư danh
Giả ngôn tam thập nhị
Bát thập diệc không thanh
Hữu thân phi giác thể
Vô tướng nãi chơn hình.
Ngươi nói Phật có lục thông là bất khả tư nghì. Vậy tất cả chư thiên, thần tiên, A-tu-la, đại lực quỷ cũng có thần thông phải là Phật chăng?
Các ông chớ sai lầm, cũng như A tu la cùng Đế Thích đánh nhau, bị thua rồi lãnh 84 ngàn quyến thuộc dấu trong lỗ củ sen, thế là Thánh chăng? Những việc kể của sơn tăng đều là nghiệp thông, y thông. Cái lục thông của Phật thì chẳng phải vậy. Nghĩa là: vào sắc giới chẳng bị sắc mê hoặc, vào thanh giới chẳng bị thanh mê hoặc, vào hương giới chẳng bị hương mê hoặc, vào vị giới chẳng bị vị mê hoặc, vào xúc giới chẳng bị xúc chạm mê hoặc, vào pháp giới chẳng bị pháp mê hoặc. Cho nên nói thấu đạt sáu thứ : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều là tướng KHÔNG, chẳng bị trói buộc, ấy là đạo nhân vô y. Dù mang thân xác ngũ uẩn cũng là địa hành thần thông.
Các ông phải biết: Chơn Phật vô hình, chơn pháp vô tướng. Các ông cứ muốn ở trên đầu huyễn hóa, làm dáng làm điệu, đủ thứ mong cầu, dẫu cho cầu được cũng là dã-hồ-tinh, chẳng phải là chân Phật, đều thuộc kiến giải ngoại đạo. Nếu là người chân học đạo thì chẳng lấy Phật, lấy Bồ Tát, La Hán, chẳng lấy thù thắng của tam giới, thản nhiên độc thoát, chẳng bị tâm cảnh giựt trói, dù trời đất đảo lộn ta cũng không nghi, mười phương chư Phật hiện tiền cũng không có một niệm tâm vui mừng, địa ngục tam đồ bổn hiện cũng không nổi một niệm sợ hãi ; tại sao như thế ? Tại ta thấy chư Phật tướng KHÔNG, biến hóa thì có, chẳng biến hóa thì không.
Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, nên nói như mộng huyễn, như hoa đốm trên không, cần gì phí sức nắm bắt. Thực ra chỉ có các ông là người hiện nay đang nghe pháp ngay trước mắt đây, vào lửa chẳng thiêu, vào nước chẳng chìm, vào địa ngục tam đồ như đi dạo vườn hoa, vào ngạ quỷ súc sinh mà chẳng thọ ác báo. Tại sao như thế? Theo cái pháp không có chỗ chê này thì:
"Nếu ngươi yêu thánh ghét phàm
Chìm nổi trong biển sanh tử
Phiền não do tâm mới có
Không tâm phiền não ở đâu?
Chẳng nhọc phân biệt lấy bỏ
Tự nhiên ngay đó đạo thành".
Các ông cứ muốn đuổi theo nhà này nhà nọ, gắng sức mà cầu học. Dẫu cho học được trong ba A-tăng-kỳ kiếp, rốt cuộc lọt vào sanh tử, chẳng bằng vô sự, hướng vào góc sàn trong tùng lâm xếp bằng mà ngồi.
Các ông muốn được đúng như Pháp, cần phải có lòng tin vững chắc, chớ nên sanh tâm nghi ngờ. Bản thể của chân tâm phóng thì trùm khắp pháp giới, mà thu thì tơ hào chẳng lập, sáng tỏ chiếu soi rõ ràng chưa từng thiếu sót, mắt không thấy, tai không nghe gọi là việc gì? người xưa nói rằng: "Nói tựa như một vật thì không đúng". Các ông hãy tự xem còn có cái gì để nói nữa. Mỗi mỗi tự dụng công phu đi! Trân trọng!
Các ông nên tin rằng chỗ dụng trước mắt của các ông với Tổ, với Phật chẳng khác. Chỉ vì không tin bèn hướng ngoại tìm cầu. Chớ nên sai lầm, hướng ngoại chẳng có pháp, hướng nội cũng bất khả đắc. Các ông muốn lấy lời nói trong miệng của sơn tăng, không bằng thôi nghỉ chớ tạo nghiệp, hãy làm người vô sự đi!
Nếu niệm đã khởi chớ nên tiếp tục, nếu niệm chưa khởi đừng cho sanh khởi. Làm được như thế thì hơn đi hành cước mười năm. Đừng để bất cứ nội ngoại vật nào trói buộc, gặp chướng ngại nào cứ đạp bỏ: gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, cho đến gặp gì cũng giết cả. Đó là con đường duy nhất để đi đến giải thoát (chữ "Giết" ở đây là ám chỉ giết cái tâm chấp trước của chúng sanh, nên gặp gì giết nấy để khỏi bị tâm và cảnh dính mắc, cũng là cái nghĩa vô sở trụ vậy).
Các ông nên biết, chỗ một niệm tâm thôi nghỉ của ông gọi là cây Bồ Đề. Chỗ một niệm tâm không thể thôi nghỉ gọi là cây vô minh. Vô minh chẳng có trụ xứ, vô minh chẳng có thỉ chung, nếu tâm của ngươi niệm niệm thôi nghỉ chẳng được thì leo lên cây vô minh, đi vào tứ sinh lục đạo mang lông đội sừng. Nếu ngươi thôi nghỉ được, tức là thanh tịnh pháp thân. Nếu ngươi một niệm chẳng sanh thì leo lên cây Bồ Đề, vận thần thông trong tam giới, biến hóa thân tự tại.
Có một bọn mù trọc đầu ăn cơm no rồi ngồi thiền quán hạnh, chụp bắt niệm lậu không cho sanh khởi, tránh ồn ào, cầu tĩnh lặng; ấy là pháp ngoại đạo. Tổ sư nói: Nếu ngươi trụ tâm khán tịnh, cử tâm ngoại chiếu, nhiếp tâm nội trừng (trong lặng), ngưng tâm nhập định; bọn người như thế đều là tạo tác. Người hiện nay đang nghe pháp này làm sao muốn tu nó, chứng nó, trang nghiêm nó. Nó vốn chẳng phải vật để cho tu, chẳng phải vật để trang nghiêm được. Nếu bảo nó trang nghiêm ông được, thì tất cả vật đều được trang nghiêm. Sơn tăng nói hướng ngoại chẳng có pháp, học nhân không lãnh hội được bèn cho là hướng trong, rồi liền dựa vách ngồi trạm nhiên chẳng động ; chấp lấy cái này là Phật Pháp của Tổ môn, thực là sai lầm lớn. Nếu ngươi chấp lấy cảnh thanh tịnh, bất động là đúng. Vậy tức là ngươi nhận cái vô minh làm chúa tể. Người xưa nói chỗ hầm sâu đen tối mịt mù thật đáng ghê sợ là lý này vậy. Nếu ngươi nhận cái động là phải, thì tất cả cỏ cây cũng đều biết động, cũng nên gọi là đạo chăng? Thực ra kẻ động là phong đại, bất động là địa đại. Động với bất động chẳng có tự tánh. Nếu ngươi hướng vào chổ động mà nắm bắt nó thì nó hướng vào chỗ bất động đứng. Nếu ngươi hướng vào chỗ bất động bắt nó thì nó lại hướng nơi chỗ động đứng. Ví như con cá ẩn trong suối nhảy ngược dòng.
Các Đại-đức! động với bất động là hai thứ cảnh, còn đạo nhân vô y thì động cũng dùng, bất động cũng dùng.

Đại Tạng Kinh

Tri Phủ Vương-Thường-Thị cùng các quan trong phủ thỉnh sư thăng tòa. Sư thượng đường bảo: "Hôm nay, do sự bất đắc dĩ, Sơn tăng thuận theo nhân tình mới lên tòa này. Nếu theo dưới cửa Tổ Tông hoằng dương đại sự thực là mở miệng chẳng được, chẳng có chỗ để đứng chân. Hôm nay, do quan Thường Thị cố thỉnh, sơn tăng không dám ẩn dấu cương tông, chẳng biết có tác gia, chiến tướng nào cầm cờ xuất chiến chăng? Nếu có thì trước mắt đại chúng để chứng cớ xem".
Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý Phật Pháp?"
Sư bèn hét! Tăng lễ bái, sư nói: "Tăng này lại kham trì luận".
Tăng hỏi: "Sư tuyên nói gia khúc tông phong nào? nối pháp vị nào?"
Sư đáp: "Ta ở nơi Hoàng Bá ba lần hỏi Phật Pháp, ba lần bị đánh". Tăng do dự muốn nói, Sư bèn hét rồi nói rằng: "Không lẽ hướng vào hư không mà đóng đinh chăng?"
Có Tọa chủ hỏi: "Ba thừa và mười hai phần giáo há chẳng phải là Phật tánh ư?"
Sư đáp: "Cỏ hoang chưa từng cuốc".
Tọa chủ nói: "Phật há có chê người sao?"
Sư đáp: "Phật ở chỗ nào?"
Tọa chủ không trả lời. Sư nói tiếp: "Trước mắt thường trụ, muốn lừa lão tăng, lui mau! lui mau! Chớ làm chướng ngại người khác thưa hỏi".
Sư lại nói, Hôm nay pháp hội này vì một đại sự, có kẻ nào muốn hỏi thì mau mau hỏi đi? Nhưng mới mở miệng đã không dính dáng rồi. Tại sao như thế? Chẳng nghe Phật Thích Ca nói: "Pháp lìa văn tự, chẳng thuộc nhân, cũng chẳng thuộc duyên" vì các ông tin chẳng được, cho nên hôm nay mới có sự dây dưa, e rằng Thường Thị cùng các quan viên chưa rõ Phật tánh, chi bằng hãy lui. Sư hét một tiếng! nói tiếp, người thiếu căn tín, chẳng có ngày xong, đứng lâu mỏi chân, trân trọng!.
Sư thượng đường, Tăng hỏi: "Thế nào là việc trên lưỡi kiếm?"
Sư đáp: "Tai họa! Tai họa!"
Tăng do dự muốn nói, Sư bèn đánh.
Tăng hỏi: "Cũng như hành giả trong phòng giã gạo, chân đạp xuống mà quên nhấc lên, vậy ý hướng chỗ nào?"
Sư đáp: "Bị chìm mất trong suối sâu".
Sư lại nói: "Hễ có kẻ không thiếu nợ đến, họ đều biết chỗ họ đến, nếu đến như thế thì giống như mất hẳn, chẳng đến như thế thì không giây tự trói, bất cứ lúc nào chớ nên đoán mò bậy bạ, hội với không hội đều là sai lầm, rõ ràng nói như thế, mặc cho người thiên hạ bình phẩm, đứng lâu mỏi chân, trân trọng".
Sư thượng đường, nói: "Một người ở trên đỉnh núi chẳng có đường đi ra, một người ở giữa ngã tư đường cũng không biết chỗ xu hướng. Vậy người nào ở trước, người nào ở sau. Không làm Duy Ma Cật, không làm Bố Đại Sĩ, trân trọng".
Sư thượng đường nói: "Có một người suốt kiếp ở giữa đường mà chẳng lìa nhà cửa, có một người lìa nhà cửa mà chẳng ở giữa đường, vậy người nào đáng thọ cúng dường của trời người?" rồi xuống tòa.
Sư thị chúng rằng: "Hiện nay người học đạo cần phải tự tin, chớ hướng ngoại tìm cầu mà lọt vào cảnh trần của người khác, không phân biệt được tà chánh cũng như có Tổ, có Phật đều là việc trong giáo tích. Có người đề ra một câu nói, hoặc ẩn hoặc hiện liền sanh ra nghi ngờ, chiếu khắp trời đất, thăm hỏi từng nhà cũng không hiểu được. Nếu là kẻ đại trượng phu chớ nên luận chủ, luận khách, luận thị, luận phi, luận sắc, luận tài, luận thuyết..., những lời nói nhàm qua ngày. Sơn tăng ở đây, không kể tăng tục, hễ có kẻ đến đều biết được y, mặc cho y từ chỗ nào đến. Hễ có tên gọi ngữ cú đều là mộng huyễn. Người gặp cảnh được làm chủ, là huyền chỉ của chư Phật. Cảnh Phật chẳng thể tự xưng ta là cảnh Phật, người làm chủ vẫn là đạo nhân vô y này. Nếu có người ra hỏi ta cầu Phật, thì ta liền ứng cảnh thanh tịnh mà ra. Có người hỏi ta Bồ Tát thì ta liền ứng cảnh từ bi mà ra. Có người hỏi ta Bồ Đề, ta liền ứng cảnh tịnh diệu mà ra. Có người hỏi ta Niết Bàn ta liền ứng cảnh tịch tĩnh mà ra. Cảnh tức là muôn điều sai biệt, người thì chẳng sai biệt, cho nên ứng vật hiện hình như mặt trăng trong nước".
Các đạo hữu! Nếu muốn đúng như pháp, càng phải là đại trượng phu mới được. Nếu qua loa chẳng tự chủ thì chẳng được, như là kẻ đại căn khí chẳng bị mê hoặc, nơi nơi đều làm chủ, thì chỗ đứng đều là chân thật. Hễ có kẻ đến, nói gì ta cũng chẳng thọ nhận. Có một niệm nghi, ma liền nhập tâm, cũng như lúc nghi Bồ Tát thì ma sanh tử được phương tiện để nhập. Hễ được ngưng niệm, chớ hướng ngoại tìm cầu. Việc đến thì chiếu soi, ngươi chỉ tin cái dụng hiện nay một việc gì cũng KHÔNG. Ngươi trong tam giới sanh một niệm, liền tùy duyên bị cảnh chia làm sáu trần. Chỗ ứng dụng hiện nay của ngươi đâu có thiếu cái gì. Trong một sát na vào tịnh vào uế, vào lầu các Di Lặc, vào tam nhãn quốc độ, nơi nơi du lịch chỉ thấy danh không?
Hỏi: "Thế nào là tam nhãn quốc độ?"
Sư nói: "Ta cùng ngươi vào tịnh diệu quốc độ, mặc áo thanh tịnh, thuyết pháp thân Phật; lại vào vô sai biệt quốc độ, mặc áo vô sai biệt, thuyết Báo Thân Phật; lại vào trong quốc độ giải thoát mặc áo quang minh, thuyết Hóa Thân Phật. Cái tam nhãn quốc độ này đều là y biến. Theo nhà kinh luận, lấy Pháp thân làm căn bản, báo hóa hai thân là dụng. Chỗ thấy của sơn tăng thì Pháp thân lại chẳng hiểu thuyết pháp, như người xưa có nói: "Thân y nghĩa lập, Pháp tánh thân, Pháp tánh độ", biết rõ là pháp kiến lập, là quốc độ y thông, là lá cây vàng, là nắm tay không, dùng để lừa gạt con nít. Trong xương khô tìm nước tủy, ngoài tâm chẳng có pháp, ở trong cũng bất khả đắc, vậy muốn cầu vật gì? Các ngươi nghe các nơi nói rằng có tu có chứng. Chớ sai lầm! Nếu do tu mà đắc được, đều là nghiệp sanh tử. Ngươi nói Lục Độ Vạn Hạnh cùng tu, ta thấy đều là tạo nghiệp. Cầu Phật, cầu Pháp tức là tạo nghiệp địa ngục, cầu Bồ Tát cũng là tạo nghiệp, xem kinh, xem giáo cũng là tạo nghiệp, Phật với Tổ là người vô sự, cho nên hữu lậu, hữu vi, vô lậu, vô vi là nghiệp thanh tịnh".
Phổ Hóa thường đi khắp đường phố rung chuông rao rằng: "Bên sáng đến thì đánh bên sáng, bên tối đến thì đánh bên tối, bốn phương tám hướng đến thì xoay vần đánh, hư không đến thì cả mình đánh".
Sư nghe người ta kể lại, bèn sai thị giả đi gặp ông ấy. Khi vừa nghe ông ấy nói như thế liền đến ôm chặt rồi hỏi: "Lúc tất cả đều không đến thì phải như thế nào?"
Phổ Hóa liền xô ra nói: "Ngày mai trong viện Đại Bi có cơm chay ăn".
Thị giả về kể lại với Sư, Sư nói: "Ta lúc nào cũng nghi ông này!".
Sư nghe trụ trì đời thứ nhì Đức Sơn thị chúng rằng: "Nói được cũng cho ba mươi gậy, nói không được cũng cho ba mươi gậy".Sư bèn sai Lạc Phổ đi hỏi: "Tại sao nói được cũng cho ba mươi gậy?" Đợi y sắp đánh, ngươi liền tiếp nắm cây gậy rồi đẩy một cái xem y làm thế nào! Lạc Phổ vâng lời làm theo, đẩy một cái thì Đức Sơn bèn trở về phương trượng.
Lạc Phổ về kể lại với Sư, Sư nói: "Ta lúc nào cũng nghi ông này". Mặc dù như thế ngươi còn thấy được Đức Sơn chăng? Lạc Phổ do dự chưa nói, Sư bèn đánh.
Vương Thường Thị, một hôm đến thăm sư, cùng sư đến trước tăng đường xem và hỏi rằng: "Cả tăng chúng trong tăng đường này còn có xem kinh chăng?"
Sư nói: "Không xem kinh".
Thường Thị hỏi: "Còn có học thiền chăng?"
Sư nói: "Không học thiền".
Thường Thị nói: "Kinh không xem, thiền cũng không học, rốt cuộc làm cái gì?"
Sư nói: "Trọn bảo họ thành Phật thành Tổ đi!"
Thường Thị nói: "Mạt vàng dù quí, lọt vào mắt cũng làm xốn mắt, đâu có ích gì!"
Sư nói: "Tưởng ngươi là một kẻ tục hán (kẻ tầm thường)".
Sư hỏi Lạc Phổ rằng: "Xưa kia, có một người hay dùng gậy, một người hay dùng hét, vậy người nào hay?"
Lạc Phổ nói: "Đều không hay".
Sư hỏi: "Chỗ hay là thế nào?"
Lạc Phổ bèn hét, Sư bèn đánh.
Sư thấy tăng đến, đưa hai tay ra, tăng không nói gì, sư hỏi: "Lãnh hội chăng?"
Vị tăng đáp: "Không lãnh hội".
Sư nói: "Sức mạnh mở không ra, cho ngươi hai điếu tiền".
Có Thượng Tọa Định đến tham vấn, hỏi: "Thế nào là đại ý của Phật Pháp?"
Sư xuống thiền sàn, nắm chặt Định rồi cho một bạt tay, liền xô ra.
Định đứng chưng hửng. Vị tăng bên cạnh nói: "Thượng-Tọa Định sao không lễ bái?". Định vừa lễ bái, hoát nhiên đại ngộ.
Sư hỏi một ni: "Thiện đến hay ác đến?"
Vị ni bèn hét, Sư đưa gậy lên bảo rằng: "Nói lại đi! nói lại đi!"
Ni cũng hét, Sư bèn đánh.
Long Nha hỏi Sư: "Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây Trúc đến ?"
Sư nói: "Đưa thiền bảng cho ta".
Nha bèn đưa thiền bảng cho sư, sư cầm được bèn đánh. Nha nói: "Đánh thì cứ đánh, nhưng không có ý Tổ sư".
Sau đó Nha đi tham vấn Thúy Vi, hỏi: "Thế nào là ý Tổ sư từ Tây Trúc đến?".
Thúy Vi nói: "Đưa bồ đoàn cho ta"
Nha bèn đưa bồ đoàn cho Thúy Vi, Vi cầm được bèn đánh. Nha nói: "Đánh thì cứ đánh, nhưng không có ý Tổ Sư".
Sau này Nha trụ trì ở tu viện. Có một vị tăng vào thỉnh ích (hỏi đạo) rằng: "Lúc Hòa-thượng đi hành cước đối với nhân duyên tham vấn hai vị tôn túc, Ngài cho họ là đúng hay không đúng?"
Nha nói: "Đúng thì thật đúng, nhưng không có ý Tổ Sư".
Một hôm, Phổ Hóa đi dạo khắp đường phố, gặp ai cũng xin cái áo, mọi người đều cho, nhưng Phổ Hóa không nhận. Sư sai viện chủ đi mua một cái quan tài. Khi Phổ Hóa về, sư nói: "Ta làm cho ngươi một cái áo rồi đây!" Phổ Hóa liền tự vác cái quan tài đi dạo khắp phố và rao rằng: "Lâm Tế đã cho tôi cái áo rồi, nay ta đi ra thành cửa đông để viên tịch". Người trong chợ tranh nhau đi theo xem, Phổ Hóa nói, "Hôm nay ngày không tốt, ngày mai đi cửa Nam tịch". Cứ như thế đi luôn ba hôm qua ba cửa thành, mọi người đều không tin nữa. Đến ngày thứ tư, không có ai đi theo, một mình ra ngoài thành, tự nằm vào quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp đóng đinh giùm. Tin tức truyền đi khắp cả chợ, mọi người trong chợ tranh nhau mở quan tài ra xem, thì thấy Ngài đã viên tịch, chỉ nghe trong hư không có tiếng rung chuông dần dần đi xa.
Một hôm, Sư biết sắp tịch nên nói kệ truyền pháp rằng:
"Duyên lưu bất chỉ vấn như hà
Chơn chiếu vô biên thuyết tợ tha
Ly tướng ly danh nhân bất bẩm
Xuy-mao dụng liễu cấp tu mồ”.
Theo dòng chẳng ngưng hỏi cái chi
Chiếu soi vô biên nói cho y
Lìa danh lìa tướng người không hiểu
Xuy-mao ([1]dùng xong liền quên đi". 
Rồi Sư dạy chúng: "Sau khi ta nhập diệt, không được diệt mất Chánh Pháp Nhãn Tạng của ta".
Tam Thánh ra nói: "Đâu dám diệt mất Chánh Pháp Nhãn Tạng của Hòa Thượng".
Sư bảo: "Về sau có người hỏi ngươi, ngươi nói với họ thế nào?"
Tam Thánh hét!
Sư nói: "Ai dè Chánh Pháp Nhãn Tạng của ta đến bên con lừa mù này diệt mất". Nói xong, sư ngồi an nhiên thị tịch, nhằm niên hiệu Hàm Thông nhà Đường, năm thứ tám (868 Tây lịch), ngày 10 tháng 4 năm Đinh Hợi. Vua ban cho sư hiệu là Huệ Chiếu Thiền sư. Toàn thân nhập tháp nơi Phủ Tây núi hướng Bắc Trấn Châu.

([1]) Xuy mao : là một thành ngữ  ám chỉ một sợi tóc để trên lưỡi cây bảo kiếm, chỉ thổi một cái là đứt liền.