Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

TUYỆT QUÁN LUẬN



       Thô là câu hỏi.
       Duyên Môn xin quyết.
       Chú là lời Đáp,
       Nhập Lý trừ nghi,
       Đó gọi là Tuyệt Quán Luận.
    

I
Xét về Đại Đạo vốn rỗng thênh như hư không, lặng lẽ, sâu xa vi diệu, chẳng thể dùng tâm lĩnh hội, chẳng thể dùng lời tỏ bày. Nay tạm lập ra hai người cùng bàn nhau về chân thật: Thầy tên Nhập Lý, trò hiệu Duyên Môn.
Lúc ấy, Thầy Nhập Lý im lặng không nói năng, Duyên Môn chợt dấy lên hỏi thầy Nhập Lý:
Thế nào gọi là tâm? Thế nào là an tâm?
Đáp: Ông chẳng cần lập tâm, cũng chẳng cần gượng an, chính là an vậy.
Hỏi: Nếu không có tâm, làm sao học đạo?
Đáp: Đạo chẳng phải tâm niệm, đâu ở nơi tâm.
Hỏi: Nếu chẳng phải tâm niệm, sẽ lấy cái gì niệm?
Đáp: Có niệm tức có tâm, có tâm tức trái đạo. Không niệm tức không tâm, không tâm tức đạo chân thật (chân đạo)
Hỏi: Tất cả chúng sanh thật có tâm chăng?
Đáp: Nếu chúng sanh thật có tâm tức là điên đảo. Chỉ vì trong không tâm lập có tâm bèn sanh vọng tưởng.
Hỏi: Không tâm thì có vật gì ?
Đáp: Không tâm tức không vật, không vật tức thiên chân (chân thật vốn sẵn có), thiên chân tức Đại đạo.
Hỏi: Chúng sanh vọng tưởng làm sao diệt được ?
Đáp: Nếu thấy vọng tưởng và thấy diệt là chẳng lìa vọng tưởng.
Hỏi: Chẳng khiến cho diệt, có được hợp đạo lý chăng ?
Đáp: Nếu nói hợp và chẳng hợp cũng chẳng lìa vọng tưởng.
Hỏi: Khi ấy thế nào ?
Đáp: Chẳng khi ấy.
*****
II
Duyên Môn hỏi:
Nói là Thánh nhân, chính đoạn pháp gì, chính được pháp gì mà nói là Thánh ?
Nhập Lý Đáp:
Chẳng đoạn một pháp, chẳng được một pháp, tức là Thánh.
Hỏi: Nếu chẳng đoạn chẳng được đâu khác với phàm?
Đáp: Chẳng đồng. Tại sao? Tất cả phàm phu vọng có cái bị đoạn, vọng có cái để được.
Hỏi: Nay nói phàm có cái để được, Thánh không cái để được, song được và chẳng được có gì khác ?
Đáp: Phàm có cái để được tức có hư vọng. Thánh không cái để được tức không hư vọng. Vì có hư vọng nên có luận đồng, chẳng đồng. Vì không hư vọng nên không có khác, chẳng khác.
Hỏi: Nếu không có khác, đâu lập tên Thánh?
Đáp: Phàm phu và Thánh nhân, cả hai đều là tên, trong tên không có sai khác. Như nói lông rùa, sừng thỏ.
Hỏi: Nếu Thánh nhân đồng với lông rùa sừng thỏ, lẽ ra là hoàn toàn không có, vậy khiến người học vật gì?
Đáp: Ta nói không lông rùa, chẳng nói rùa cũng không. Cớ sao ông lập ra lời gạn hỏi này!
Hỏi: Không lông dụ vật gì ? Rùa dụ vật gì?
Đáp: Rùa dụ cho Đạo, lông dụ cho ngã. Bởi vậy Thánh nhân không ngã mà có Đạo, nhưng kẻ phàm phu kia thì có ngã, có tên, như chấp bướng có lông rùa sừng thỏ.
Hỏi: Nếu như thế, lẽ ra Đạo là có, ngã là không. Nếu là “có không”, đâu chẳng phải cái “thấy có không” ?
Đáp: Đạo chẳng phải có, ngã chẳng phải không. Tại sao? Vì rùa chẳng phải trước không nay có nên chẳng nói có, lông chẳng phải trước có nay không nên chẳng nói không. Đạo và ngã ví theo đó có thể biết.
Hỏi: Người cầu đạo, là một người được chăng? Hay nhiều người được? Hay từng người được? là cùng chung có chăng? Hay xưa nay sẵn có? Hay tu hành thành được ?
Đáp: Đều chẳng đúng như lời ông nói. Tại sao? Nếu một người được, Đạo tức có cùng tận. Nếu nhiều người được, Đạo tức có số lượng. Nếu cùng chung được, phương tiện tức thành rỗng. Nếu xưa nay sẵn có, muôn hạnh luống lập bày. Nếu tu hành mà thành, là tạo tác chẳng phải chân thật.
Hỏi: Rốt ráo thế nào?
Đáp: Lìa tất cả căn lượng, phân biệt, tham muốn.
*****
III
Duyên Môn hỏi :
Phàm phu có thân cũng thấy, nghe, cảm giác, biết ; Thánh nhân có thân cũng thấy, nghe, cảm, biết, vậy trong đó có gì khác ?
Đáp: Phàm phu mắt thấy, tai nghe, thân cảm, ý biết; Thánh nhân tức chẳng vậy, thấy chẳng phải mắt thấy, cho đến biết chẳng phải ý biết. Tại sao ? Vì vượt qua căn lượng.
Hỏi: Cớ sao trong Kinh lại nói Thánh nhân không thấy nghe cảm biết ?
Đáp: Thánh nhân không thấy nghe cảm biết của phàm phu, chẳng phải không cảnh giới Thánh, chẳng bị nhiếp thuộc trong có không, vì lìa phân biệt.
Hỏi: Phàm phu thật có cảnh giới phàm chăng?
Đáp: Thực không vọng có, xưa nay lặng lẽ, chỉ bị hư vọng chấp trước liền sanh điên đảo.
Hỏi: Con chẳng hiểu thế nào là Thánh thấy chẳng phải mắt thấy, Thánh biết chẳng phải ý biết ?
Đáp: Pháp thể khó thấy, thí dụ có thể biết: Như huyền quang( ) soi vật, dường như có chiếu và bị chiếu, mà chẳng phải có con mắt hay chiếu. Lại như âm dương đợi vật, tợ có biết, bị biết, mà chẳng phải có ý hay biết.
*****
IV
Duyên Môn hỏi :
Rốt ráo Đạo thuộc ai?
Đáp: Rốt ráo không chỗ thuộc, như hư không, không chổ nương. Nếu Đạo có hệ thuộc tức có ngăn, có mở, có chủ, có gá (khách).
Hỏi: Thế nào là gốc của Đạo, Thế nào là dụng của pháp ?
Đáp: Hư không là gốc của Đạo, sum la là dụng của pháp?
Hỏi: Trong đó ai tạo tác?
Đáp: Trong đó thực không người tạo tác, tánh pháp giới tự nhiên.
Hỏi: Chẳng phải do nghiệp lực chúng sanh làm ra sao?
Đáp: Bởi người thọ nghiệp, rồi bị nghiệp cột trói, tự nhân mình chứ không do đâu. Nào có rảnh mà đi kết dính biển, gom chứa núi, sắp đặt trời đất.
Hỏi: Vốn nghe Bồ Tát có ý sanh thân, đâu chẳng do sức thần thông ư?
Đáp: Phàm phu có nghiệp hữu lậu, Thánh nhân có nghiệp vô lậu, tuy nghiệp đó cóù hơn kém sai khác, do vì chưa phải đạo tự nhiên. Vì vậy nói “mọi thứ ý sanh thân, ta nói là tâm lượng”.
Hỏi: Đã nói KHÔNG là gốc của Đạo, KHÔNG là Phật chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Nếu là KHÔNG, sao Thánh Nhân chẳng khiến chúng sanh niệm KHÔNG mà khiến niệm Phật?
Đáp: Vì chúng sanh ngu si mới dạy cho họ niệm Phật. Nếu bậc có đạo tâm, tức khiến quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy. Nói thật tướng đó, tức là KHÔNG, không tướng.
*****
V
Duyên Môn hỏi :
Vốn nghe ngoại đạo cũng được năm thần thông, Bồ Tát cũng được, vậy có khác gì với họ ?
Nhập Lý Đáp :
Chẳng đồng. Tại sao? Ngoại đạo cho là có người hay được, Bồ Tát tức chẳng vậy, vì rõ suốt vô ngã.
Hỏi: Từ lúc đầu, người mới học nhập lý chưa trọn, hơi chứng chân như, biết chút diệu lý, cùng với ngoại đạo được năm thần thông, bên nào hơn ?
Đáp: Trước nhận lấy nhập lý hơi chứng, đâu cần họ đạt đến năm thần thông.
Hỏi: Nếu người được năm thần thông, sẽ được đời tôn quý, được đời kính trọng, biết trước việc chưa đến, lại biết việc đã qua, tự ngăn ngừa tội lỗi phạm phải, đâu chẳng hơn sao ?
Đáp: Chẳng đúng. Tại sao? Tất cả người đời phần nhiều tâm chấp trước tuớng, tham duyên theo sự nghiệp, xoay ngược điều ngụy làm loạn chân thật; dù họ có thần thông của Thắng Ý, biện tài của Thiện Tinh, nếu chẳng rõ biết lý thật tướng đều chẳng khỏi bị nạn đất rút.
*****
VI
Duyên Môn hỏi :
Đạo, chỉ riêng ở trong thân hình linh tánh chăng ? Hay cũng ở trong cỏ cây chăng?
Nhâp Lý Đáp :
Đạo không chổ nào chẳng khắp.
Hỏi: Nếu Đạo trùm khắp, cớ sao giết người thì có tội, giết cỏ cây không tội?
Đáp: Nói tội, chẳng tội đều là y cứ trên tình, theo sự, chẳng phải chánh Đạo. Chỉ vì người đời chẳng đạt đạo lý, vọng lập có ngã thân, giết tức có tâm, tâm kết thành nghiệp, tức nói là tội. Cỏ cây vốn vô tình, xưa nay hợp đạo, bởi lý là vô ngã; Vì vậy người giết chẳng suy tính, tức chẳng luận tội và chẳng tội. Bởi người vô ngã hợp đạo, nhìn thân hình như cỏ cây, bị chặt như cây rừng; nên Ngài Văn Thù cầm kiếm bức Cù Đàm, ông Ương Quật cầm đao đâm họ Thích, đây đều hợp đạo, đồng chứng bất sanh. Vì rõ biết huyễn hóa, rỗng không nên chẳng luận tội và chẳng tội.
Hỏi: Nếu cỏ cây lâu nay đã hợp đạo, cớ sao trong kinh chẳng thọ ký cỏ cây thành Phật, chỉ riêng thọ ký cho người?
Đáp: Chẳng phải chỉ riêng thọ ký cho người, cũng thọ ký cho cỏ cây. Kinh nói: “Trong một hạt bụi gồm đủ tất cả pháp”. Lại nói : “Tất cả pháp cũng Như, tất cả chúng sanh cũng Như. Như không hai không sai khác”.
*****
VII
Duyên Môn hỏi :
Như thế lý rốt ráo KHÔNG, sẽ chứng ở đâu?
Nhập Lý Đáp :
Chính ở trong tất cả sắc mà cầu, ở trong lời chính mình mà chứng.
Hỏi: Thế nào chính ở trong tất cả sắc mà cầu? Ở trong lời chính mình mà chứng? Thế nào là trong sắc cầu? Thế nào là trong lời mà chứng ?
Đáp: Không và sắc hợp nhất, lời và chứng không hai.
Hỏi: Nếu tất cả pháp KHÔNG, vì sao Thánh thì thông, phàm thì bít?
Đáp: Vì vọng động nên bít, vì chân thật yên lặng nên thông.
Hỏi: Đã là thật KHÔNG, vì sao chịu huân? Nếu đã chịu huân đâu thành KHÔNG.
Đáp: Nói vọng đó, là bất giác chợt khởi, bất giác chợt động; thực ra trong thể KHÔNG, không có một pháp chịu huân.
Hỏi: Nếu thật KHÔNG, tất cả chúng sanh tức chẳng tu đạo. Tại sao? Vì là tánh tự nhiên?
Đáp: Nếu tất cả chúng sanh hiểu rõ lý KHÔNG, thật cũng chẳng còn tu đạo; chỉ vì đối với KHÔNG, chẳng KHÔNG mà sanh ra mê lầm (hoặc).
Hỏi: Nếu như thế, lẽ ra lìa mê lầm có Đạo, làm sao nói tất cả chẳng phải Đạo ?
Đáp: Chẳng đúng. Chẳng phải mê lầm tức là Đạo, chẳng phải lìa mê lầm là Đạo.Tại sao? Như người đang say chẳng phải tỉnh, đang tỉnh chẳng phải say. Song chẳng lìa say có tỉnh, cũng chẳng phải say tức là tỉnh.
Hỏi: Nếu người đang tỉnh, đẩy cái say đi đâu?
Đáp: Như trở bàn tay, nếu khi đang trở tay, chẳng nên hỏi cái tay ở đâu.
*****
VIII
Duyên Môn hỏi :
Nếu người chẳng đạt lý này, có được nói pháp, giáo hóa chúng sanh chăng ?
Nhập Lý Đáp :
Chẳng được. Tại sao ? Mắt mình chưa sáng, đâu trị được mắt người.
Hỏi: Theo sức trí của mình, phương tiện giáo hóa cho họ, đâu chẳng được sao ?
Đáp: Nếu người đạt đạo lý, có thể gọi là sức trí. Nếu chẳng đạt đạo lý, gọi là sức vô minh. Tại sao? vì giúp thêm sức mạnh cho phiền não chính mình.
Hỏi: Tuy nhiên, chẳng thể đúng như lý giáo hóa người, nhưng tạm dạy chúng sanh tu hành năm giới và mười điều lành, đặt yên nơi trời người, đâu chẳng lợi ích sao ?
Đáp: Tột lý không lợi ích, lại chuốc hai điều tổn. Tại sao ? Vì tự vùi lấp mình và vùi lấp người. Tự vùi lấp mình, nghĩa là tự ngăn ngại với Đạo. Vùi lấp người, nghĩa là chẳng ra khỏi luân hồi trong sáu thú.
Hỏi: Thánh nhân đâu chẳng nói có năm thừa sai khác ư ?
Đáp: Thánh nhân không tâm nói pháp sai khác, chỉ vì tự tâm chúng sanh kia mong mỏi mà ứng hiện ra. Cho nên Kinh nói: “Nếu tâm kia dứt sạch thì không thừa và người thừa, không có thừa dựng lập, ta nói là nhất thừa”.
*****
IX
Duyên Môn hỏi :
Vì sao người chân thật học đạo, chẳng bị người khác rõ, chẳng bị người khác biết?
Đáp: Vật quý báu, chẳng phải là chổ kẻ nghèo khó biết được; người chân thật, chẳng phải là chổ bọn tà ngụy biết được.
Hỏi: Ở đời có người dối trá, chẳng theo chánh lý, bên ngoài hiện oai nghi, mà chuyên ròng nơi sự nghiệp, phần nhiều nam nữ gần gủi nhau, là sao ?
Đáp: Như dâm nữ mời gọi bọn trai, thịt thối nhử bọn ruồi, đây là do danh lợi khiến như thế.
*****
X
Duyên Môn hỏi :
Thế nào Bồ Tát thực hành phi đạo là thông đạt Phật đạo ?
Đáp: Không phân biệt thiện ác.
Hỏi: Sao gọi là không phân biệt ?
Đáp: Đối pháp chẳng sanh tâm.
Hỏi: Đâu không tác giả ư ?
Đáp: Chẳng phải có hay không tác giả ?
Hỏi: Chẳng hiểu biết ư?
Đáp: Tuy biết mà không ngã.
Hỏi: Không ngã, đâu có biết?
Đáp: Biết cũng tự không tánh.
Hỏi: Nói ngã, có gì ngại?
Đáp: Biết là tên cũng chẳng ngại, chỉ e trong tâm có sự.
Hỏi: Có sự có gì ngại?
Đáp: Không ngại tức không sự, không sự hỏi cái gì ngại!
Hỏi: Nếu lựa ra có sự, nhận lấy không sự, làm sao gọi thực hành phi đạo?
Đáp: Thực ra không sự, ông gượng khiến người sanh sự để làm thành vật gì.
Hỏi: Có nhân duyên được sát sanh chăng?
Đáp: Lửa hoang đốt núi, gió mạnh thổi gãy cây, núi lỡ đè thú, nước tràn làm trôi trùng, tâm đồng như thế thì cả người cũng giết được. Nếu có tâm do dự, thấy sống, thấy giết, trong đó chưa hết tâm có, dẫu đến con kiến cũng buộc mạng ông.
Hỏi: Có nhân duyên được trộm cướp chăng?
Đáp: Ong nhặt hoa dưới ao, chim sẻ ngậm thóc trên sân, trâu ăn đậu bên đầm, ngựa nhai lúa ngoài đồng; rốt ráo không khởi cái hiểu vật khác, thì cả núi non cũng bưng lấy đi được. Nếu chẳng như thế, dẫu đến ngọn kim, sợi chỉ, chiếc lá cũng buộc cổ ông làm tôi tớ.
Hỏi: Có nhân duyên được hành dâm chăng?
Đáp: Trời che đất, dương hợp âm, nhà xí thừa tiếp từ trên lọt xuống, suối đỗ vào khe; tâm đồng như thế thì tất cả chỗ làm đều không ngăn ngại. Nếu tình sanh phân biệt, dẫu đến vợ nhà cũng làm ô nhiễm tâm ông.
Hỏi: Có nhân duyên được nói dối chăng?
Đáp: Thốt lời mà không chủ, nói ra mà không tâm, tiếng đồng chuông vang, hơi đồng tiếng gió. Tâm đồng như thế thì nói Phật cũng là không. Nếu chẳng như thế, dẫu đến khen Phật cũng là nói dối.
*****
XI
Duyên Môn hỏi:
Nếu chẳng còn thân kiến, làm sao đi, đứng, ngồi, nằm?
Đáp: Chỉ đi, đứng, ngồi, nằm, đâu cần lập thân kiến.
Hỏi: Đã chẳng còn thân kiến, có được suy nghĩ nghĩa lý chăng?
Đáp: Nếu chấp có tâm, chẳng suy nghĩ cũng có. Nếu rõ không tâm, dù suy nghĩ cũng không. Tại sao? Ví như thiền sư ngồi yên mà dấy lo nghĩ, còn gió mạnh loạn động mà không tâm.
*****
XII
Duyên Môn hỏi:
Nếu có người mới học đạo, chợt gặp nhân duyên, người khác đến làm hại, làm sao đối trị cho hợp đạo?
Đáp: Toàn thể chẳng cần đối trị, tại sao? Cái có thể tránh thì hãy tránh đi, cái không thể tránh cứ để mặc nó. Cái có thể nhẫn thì hãy nhẫn, cái không thể nhẫn thì khóc.
Hỏi: Nếu khóc đâu khác gì với người có ngã kiến?
Đáp: Như chày dộng chuông, tiếng nó tự nhiên phát ra đâu hẳn là có ngã. Nếu ông cố gượng chết để kiềm tâm, nghiến răng chịu đựng, đây chính là còn cái NGÃ rất to.
Hỏi: Sự buồn khóc của người, trong đó có tình động, đâu đồng tiếng chuông vang?
Đáp: Nói đồng và chẳng đồng, chỉ là ông đa sự, vọng tưởng nghĩ lường mà khởi lời hỏi ấy. Nếu không tâm phân biệt thì thể đạo tự nhiên.
Hỏi: Tôi nghe thánh nhân thì binh chẳng làm tổn thương, khổ chẳng làm cong khuất, sắc chẳng thọ, tâm chẳng động, đây nghĩa là sao?
Đáp: Nếu rõ tất cả pháp là vô ngã, thì tiếng và chẳng tiếng, động và chẳng động đều hợp đạo lý, không ngăn ngại.
*****
XIII
Duyên Môn hỏi:
Con thấy có người học đạo, phần nhiều chẳng chuyên ròng giữ giới, chẳng chăm lo gìn giữ oai nghi, chẳng giáo hóa chúng sanh, cứ mặc tình thoải mái, là ý gì?
Đáp: Muốn quên tất cả tâm phân biệt, muốn dứt tất cả kiến chấp có; tuy tợ mặc tình thoải mái mà bên trong thực hành không gián đoạn.
Hỏi: Người tu hành như trên, bèn sanh cái thấy trẻ con cho người khác, làm sao nói dứt kiến chấp?
Đáp: Chỉ dứt kiến chấp của ông, đâu lo gì người khác sanh. Ví như con cá thoát khỏi vực sâu, đâu lo gì người bắt hiềm trách.
Hỏi: Như thế, tức lợi mình, tổn người, đâu gọi là bậc Đại sĩ ?
Đáp: Nếu kiến chấp của ông chẳng sanh, họ tức chẳng sanh. Nay ông lo xa người khác sanh, chính là tự sanh, chẳng phải người khác sanh.
Hỏi: Bên trong thông suốt lý đại thừa, bên ngoài hiện oai nghi tiểu thừa, đâu tổn hại gì đối với pháp?
Đáp: Nay ông cố muốn cho ông già làm trẻ con đùa, đâu ích gì đối với lý!
Hỏi: Như thế bậc Đại sĩ dứt kiến chấp, người nào hay biết được?
Đáp: Người chứng mới rõ, người thực hành mới hay nhận biết.
Hỏi: Bậc đại sĩ như trên cũng hay giáo hóa chúng sanh chăng?
Đáp: Đâu có mặt trời, mặt trăng mà chẳng biết soi, đèn thắp lên mà chẳng sáng.
Hỏi: Tạo phương tiện gì?
Đáp: Thẳng ngay không phương tiện.
Hỏi: Nếu không phương tiện, làm sao lợi ích?
Đáp: Vật đến thì đặt tên, việc đến thì Đáp ứng, không tâm suy tính và có duyên tính trước.
Hỏi: Con nghe Như Lai bảy ngày suy nghĩ mới dấy khởi phương tiện, làm sao nói không có tâm suy tính?
Đáp: Cảnh giới của chư Phật, chẳng phải chỗ nghĩ lường, xét nét biết được.
Hỏi: Phật há nói dối sao?
Đáp: Chân thật chẳng phải hư dối.
Hỏi: Vì sao kinh nói suy nghĩ, nay nói chẳng suy nghĩ ?
Đáp: Là phương tiện nơi cửa giáo hóa.
Hỏi: Phương tiện của chư Phật từ đâu sanh?
Đáp: Chư Phật chẳng sanh, chỉ từ tâm sanh, theo duyên giáo hóa muôn loài, pháp vốn không tên.
*****
XIV
Duyên Môn Hỏi:
1. Con chẳng biết, thế nào gọi là Phật ? Thế nào gọi là Đạo? Thế nào gọi là biến hóa ? Thế nào gọi là thường trụ?
Nhập Lý Đáp:
Giác rõ không vật gọi là Phật. Thông suốt tất cả thứ kia gọi là Đạo. Từ pháp giới sanh ra gọi là biến hóa. Rốt ráo lặng lẽ gọi là thường trụ.
Hỏi: Thế nào gọi tất cả pháp là Phật pháp?
Đáp: Chẳng phải pháp, Chẳng phải phi pháp, là tất cả Phật pháp?
Hỏi: Sao gọi là pháp? Sao gọi là phi pháp? Sao gọi là chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp.
Đáp: Pháp phải gọi là pháp. Pháp quấy gọi là phi pháp. Chẳng phải chỗ phải quấy suy lường được, gọi là chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp.
Hỏi: Lời này ai chứng?
Đáp: Lời này chẳng phải ai, thế nào nói chứng?
Hỏi: Không ai thì đâu nói?
Đáp: Không ai không nói, tức lời nói chánh.
Hỏi: Sao gọi là lời nói tà ?
Đáp: Chấp có người nói.
Hỏi: Là ai chấp? Làm sao không chấp?
Đáp: Chấp, chỉ là lời nói. Trong lời nói vốn không lời, người chấp cũng không.
Hỏi: Nếu nói như trên, tức tất cả chúng sanh xưa nay đã giải thoát?
Đáp: Còn không có trói buộc, đâu có người giải thoát.
Hỏi: Pháp này tên gì?
Đáp: Còn không có pháp, huống nữa có tên.
Hỏi: Nếu nói như trên, con càng chẳng hiểu?
Đáp: Thật không pháp hiểu, ông chớ cầu hiểu.
Hỏi: Rốt ráo thế nào?
Đáp: Không có đầu và cuối.
Hỏi: Có phải không nhân quả chăng?
Đáp: Không gốc tức không ngọn
Hỏi: Làm sao nói chứng?
Đáp: Chân thật không lời nói chứng.
Hỏi: Làm sao thấy biết?
Đáp: Biết tất cả pháp như, thấy tất cả pháp bình đẳng.
Hỏi: Tâm nào biết? Mắt nào thấy?
Đáp: Không biết mà biết, không thấy mà thấy.
Hỏi: Ai nói lời này?
Đáp: Như điều ta hỏi.
Hỏi: Thế nào là như điều ta hỏi?
Đáp: Ông hãy tự quán lại lời hỏi, có thể biết câu Đáp.
Khi ấy, Duyên Môn nghĩ đi xét lại, lặng lẽ không nói. Thầy Nhập Lý bèn Hỏi:
Cớ sao ông chẳng nói?
Duyên Môn Đáp:
Con chẳng thấy một pháp như mảy bụi có thể đối nói.
Bấy giờ, Thầy Nhập Lý liền nói với Duyên Môn:
Nay ông tợ thấy lý chân thật.
*****
XV
Duyên Môn hỏi:
Thế nào tợ thấy, chẳng phải chánh thấy sao ?
Nhập Lý Đáp:
Nay chỗ thấy của ông, không có một pháp, như ngoại đạo kia tuy học ẩn hình mà chưa thể dứt bóng quên dấu.
Duyên Môn hỏi:
Làm sao được hình và bóng đều dứt?
Nhập Lý Đáp:
Vốn không tâm cảnh, ông chớ khởi cái thấy sanh diệt.
Hỏi: Phàm phu do đâu hỏi, Thánh nhân do đâu Đáp ?
Đáp: Vì có nghi nên hỏi, vì quyết nghi nên Đáp.
Hỏi: Tôi nghe Thánh nhân không hỏi mà tự nói, thì giải quyết cái gì ? Là có pháp có thể nói chăng? Hay là thấy trước điều nghi của người ?
Đáp: Đều là đối bệnh cho thuốc, như trời nổi sấm tiếng vang động, hẳn có chỗ Đáp ứng.
Hỏi: Bậc Đại Thánh Như Lai đã không có tâm sanh, duyên gì mà hiện ra đời ?
Đáp: Đời thái bình thì cỏ lành duyên đó mà sanh.
Hỏi: Như Lai đã chẳng phải mạng hết, vì sao hiện diệt?
Đáp: Đời đói kém thì năm giống lúa duyên đó mà diệt.
Hỏi: Con nghe Thánh nhân cảm thương mà từ định dậy, xót thương mà giáo hóa quần sanh, rất thông suốt không ngại, đâu đồng với cỏ lành?
Đáp: Định gọi là Pháp thân, Báo thân là nhục thân tứ đại, phân biệt cảnh trước mà ứng khởi ra gọi là hóa thân. Pháp thân thì không có nhân để trói buộc, Hóa thân thì không có duyên giữ lại, ra vào rỗng suốt, nên gọi là không ngại.
Hỏi: Thế nào là nói bi?
Đáp: Chỉ do Hóa thân không lo nghĩ, thể hợp chân không, thương vật mà không tâm, gượng gọi đó là Bi.
Hỏi: Chúng sanh chừng nào tu đạo mới được giống Như Lai?
Đáp: Nếu người chẳng rõ thấu, hằng sa kiếp tu đạo càng chẳng bì kịp. Nếu người ban đầu đã rõ thấu, thì chính ngay thân chúng sanh tức là Như Lai, đâu thể luận là giống, chẳng giống.
Hỏi: Nếu nói như vậy thì Như Lai tức dễ được, làm sao nói tu hành ba đại kiếp ?
Đáp: Rất khó.
Hỏi: Nếu chẳng chuyển tức ngay thân này, làm sao gọi khó ?
Đáp: Khởi tâm dễ, diệt tâm khó; là thân dễ, chẳng phải thân khó; có làm dễ, không làm khó. Cho nên biết, công phu sâu xa khó lĩnh hội, lý nhiệm mầu khó khế hợp, chẳng động tức chân, ba bậc Thánh ít bì kịp.

Khi ấy, Duyên Môn thở dài, tiếng đầy khắp cả mười phương. Chợt im lặng, rỗng toang đại ngộ, trí tuệ thanh tịnh sẵn có tự bao giờ, soi trở lại không nghi ngờ. Mới biết, học đạo rất khó, luống dấy lên điều lo nghĩ trong mộng, liền to tiếng khen ngợi:
- Lành thay ! Lành thay ! Như thầy không nói mà nói, con thật không nghe mà nghe. Nghe và nói hợp nhất, tức lặng yên không lời. Chẳng biết điều đối Đáp của thầy từ trước đến đây, gọi là gì, pháp gì ?
Liền đó, thầy Nhập Lý thân yên chẳng động, nhìn chăm chăm không nói; rồi ngó khắp bốn phía, cười ha ha nói với Duyên Môn :
- Lý tột thì sâu xa vi diệu, không có văn tự. Điều ông hỏi từ trước đến đây đều là lượng khởi (*) tâm sanh. Trong mộng cho là có nhiều thứ, tỉnh rồi không một vật. Ông muốn truyền rộng ở đời, thì tạm mượn lời hỏi xoay ngược tên trở lại, hãy nên thu hết dấu vết. Vì vậy, gọi là Tuyệt Quán Luận.

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

KHO BÁU NHÀ THIỀN - PHẦN 3


Đăng lúc: Thứ tư - 16/05/2012 12:04 - Người đăng bài viết: Thiền Lâm
                 
                                        Kho Báu Nhà Thiền
                                         Thiền sư Văn Thủ
                                         Dịch giả: Ðịnh Huệ
                                             - - -o0o- - -
                                              Chương 17

                        Học đạo cần phải lãnh hội chỗ tâm yếu
Lâm Tế ba lần hỏi Hoàng Bá về đại ý Phật pháp, ba lần bị đánh.
Lâm Tế bèn đến Ðại Ngu hỏi:
- Có lỗi hay không lỗi ?
Ðại Ngu nói:
- Hoàng Bá lòng từ bi thống thiết, vì muốn ông được triệt ngộ, mà ông còn đến
hỏi có lỗi hay không lỗi.
Ngay lời nói này, sư liền đại ngộ nói:
- Té ra Phật pháp của Hoàng Bá chẳng có gì đặc biệt.
*
Hưng Hóa đến Ðại Giác làm Viện chủ. Một hôm, Ðại Giác gọi:
- Viện chủ! Ta nghe nói ông đi hành cước về phương nam một lần, đầu gậy
chưa từng đánh trúng một người  hội Phật pháp. Ông dựa vào đạo lý nào mà nói như thế?
Sư liền hét. Ðại Giác liền đánh. Sư lại hét. Ðại Giác lại đánh.
Hôm sau, Sư từ pháp đường đi ra. Ðại Giác mời Viện chủ lại, hỏi:
- Ta nghi hai cái hét của ông ngày hôm qua.
Sư lại hét. Ðại Giác lại đánh. Sư hét nữa. Ðại Giác đánh nữa.
Sư nói:
- Tôi ở chỗ Sư huynh Tam Thánh học được câu khách chủ, hết thảy đều bị sư
huynh đốn ngã. Xin Hòa thượng cho tôi pháp môn an lạc.
           Ðại Giác nói:
- Tên mù này đến đây bị thua rồi, hãy cởi áo nạp ra ta đánh cho một trận.
Ngay lời này, Sư liền hội được đạo lý của Tiên sư Lâm Tế bị Hoàng Bá cho ăn
đòn.
Thiền sư Quy Tỉnh lúc mới đến tham Tây Viện, bèn hỏi:
- Lúc toan hỏi mà chẳng hỏi thì sao?
Tây Viện liền đánh Sư im lặng giây lâu. Tây Viện nói:
- Nếu gọi là đánh thì mày râu đều rụng.
Ngay lời này, Sư liền đại ngộ.
*
Tăng thưa Triệu Châu:
- Học nhân vừa nhập tòng lâm, xin Thầy chỉ dạy.
Triệu Châu bảo:
- Ăn cháo rồi.
- Rửa bát đi !
Vị tăng này hoát nhiên đại ngộ.
Về sau, Ðại sư Vân Môn làm lời niêm rằng: “Hãy nói xem là có chỉ dạy hay không chỉ dạy?
Nếu nói có, thì Triệu Châu  dạy cái gì cho ông Tăng kia?
Nếu nói không, thì  ông Tăng kia làm sao ngộ?”
*
Thiền sư Ðiểu Sào Ðạo Lâm, nhân thị giả Hội Thông đến lạy từ giã thưa:
- Con vì pháp mà xuất gia, Hòa thượng chẳng xót thương chỉ dạy. Nay con xin
đi nơi khác học Phật pháp.
           Sư bảo:
- Nếu là Phật pháp thì ở đây ta cũng có chút ít.
- Thế nào là Phật pháp ở đây của Hòa thượng?
Sư bứt cái lông của vải áo giơ lên thổi ngay mặt, thị giả liền đại ngộ.
*
Thiền sư Long Ðàm Tín một hôm thưa với Thiên Hoàng:
- Con từ khi đến ở đây tới nay không được thầy chỉ dạy tâm yếu.
Thiên Hoàng bảo:
- Từ khi ông đến đây tới nay, ta chưa từng không chỉ dạy tâm yếu.
- Thầy chỉ dạy chỗ nào?
- Ông đem trà đến thì ta tiếp nhận. Ông đem cơm đến, ta vì ông mà ăn. Lúc ông
lễ bái ta gật đầu. Có chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu đâu?
Sư cúi đầu im lặng giây lâu.
Thiên Hoàng bảo:
- Thấy thì liền thấy, suy nghĩ tức là trật.
Sư liền ngộ và hỏi:
- Làm sao bảo nhậm?
- Nhậm tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ cần dứt hết tâm phàm tục
chứ không có thánh giải nào khác.
*
Tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Triệu Châu đáp:
- Cây bách trước sân.
- Hòa thượng chớ đem cảnh lừa người.
- Ta chẳng đem cảnh lừa người.
- Hòa thượng chẳng đem cảnh lừa người thì con xin hỏi lại: Thế nào là ý Tổ sư
từ Ấn Ðộ sang?
- Cây bách trước sân.
Ngay lời này, vị Tăng liền đại ngộ.
*
Hòa thượng Diệp Huyện Tỉnh, nhân Tăng thỉnh ích về câu thoại đầu “Cây bách
trước sân” của Triệu Châu, Ngài nói:
- Ta chẳng chối từ nói cho ông, nhưng ông có tin ta chăng?
- Lời Hòa thượng  rất quý trọng, lẽ nào con dám không tin.
- Ông có nghe tiếng giọt mưa rơi trước thềm chăng?
Ông Tăng thoạt nhiên bất giác thất thanh la: A!
Sư hỏi:
- Ông thấy cái đạo lý gì?
Vị Tăng làm bài tụng đáp:
Giọt nước đầu thềm
Rõ ràng từng giọt
Ðập vỡ càn khôn
Ngay đó tâm tuyệt.
*
Hòa thượng Ðộng Sơn Sơ lúc mới tham vấn Vân Môn.
Vân Môn hỏi:
- Vừa từ đâu đến?
Sư thưa:
- Từ Tra Ðộ đến.
- Mùa hạ rồi ông ở đâu?
- Chùa Báo Từ ở Hồ Nam.
- Rời chỗ ấy vào lúc nào?
- Ngày 25 tháng 8.
- Tha ông ba gậy.
Ngày hôm sau, Sư đến thưa hỏi:
- Hôm qua nhờ Hòa thượng tha cho ba gậy, mà con chẳng biết lổi ở chỗ nào?
- Cái túi cơm! Giang Tây, Hồ Nam thế ấy hử!
Ngay lời này, Sư liền đại ngộ và nói:
- Về sau, con sẽ đến chỗ không người, chẳng chứa một hạt gạo, chẳng trồng một cọng rau, tiếp đãi người mười phương tới lui để tháo đinh mở chốt, lột cái khăn thịt mỡ, cởi cái áo sương thúi cho họ và dạy họ thênh thang phóng khoáng làm nạp tăng vô sự, há chẳng khoái sao?
Vân Môn nói:
- Thân ông lớn bằng trái dừa mà mở miệng to như thế.
Sư liền lễ bái.
*
Tôn giả Nghiêm Dương lúc mới đến tham Triệu Châu, hỏi:
- Lúc một vật chẳng đem đến thì thế nào?
Triệu Châu đáp:
- Buông hết đi.
- Ðã là một vật chẳng đem đến thì lấy cái gì để buông hết?
- Buông chẳng được thì gánh đi!
Ngay lời này, Sư liền đại ngộ.
*
Có vị Tăng hỏi Thiền sư Quy Tông Thức Nhãn:
- Phật là gì?
Quy Tông đáp:
- Ta nói với ông, ông có tin không ?
- Lời thật của Hòa thượng, con đâu dám không tin.
- Chỉ là chính ông vậy.
- Tăng nghe lời Ngài nói, suy nghĩ giây lát rồi thưa:
- Con là Phật, còn bảo nhậm như thế nào?
- Một khi con mắt bệnh  thì hoa đốm lăng xăng.
Ngay lời này, Tăng hốt nhiên khế ngộ.
*
Pháp Nhãn đã từng tham Ðịa Tạng. Một hôm, Ngài trình kiến giải nói về đạo lý.
Ðịa Tạng nói với ngài rằng:
- Phật pháp chẳng phải như thế.
Sư thưa :
- Con đã hết lời cùng lý rồi.
Ðịa Tạng bảo:
- Nếu luận về Phật pháp thì tất cả sẵn sàng.
Ngay lời này, Pháp Nhãn đại ngộ.
*
Thiền sư Hương Nghiêm Nhàn đến tham Quy Sơn.
Quy Sơn hỏi:
- Ta nghe nói ông ở chỗ Tiên sư Bá Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp
trăm. Ðó là sự thông minh lanh lợi của ông. Ý giải thức tưởng là căn bản sanh tử. Lúc cha mẹ chưa sanh, ông thử nói một câu xem?
Sư bị câu hỏi này làm mờ mịt. Trở vê, liền đem những văn tự bình nhật đã xem dò
lại để tìm một câu đối đáp, rốt cuộc không được, bèn than:
- Bánh vẽ không no được bụng đói.
Một hôm cuốc cỏ, ngẫu nhiên Sư ném một viên ngói chạm vào cây trúc vang lên một tiếng. Sư hốt nhiên tỉnh ngộ

---o0o---


Chương 18

Học Ðạo Cần Phải Biết Xác Thực Kiến Ðịa Cạn Sâu

Ðại sư Vân Môn nói:
Dẫu cho càn khôn đại địa không mảy may lầm lỗi vẫn còn là chuyển cú, chẳng thấy một sắc mới chỉ là bán đề, lại cần phải biết có cái thời tiết toàn đề nữa.
Ngài Vân Môn nói:
Pháp thân cũng có hai thứ bệnh: Ðược đến pháp thân, mà vì pháp chấp chẳng quên, kiến chấp của mình hãy còn, nên chỉ ngồi bên cạnh pháp thân, đây là một bệnh. Dẫu cho thấu được pháp thân mà buông bỏ chẳng được, kiểm điểm kỹ càng lại có hơi hám gì cũng là bệnh.
Ngài Ðại Huệ nói: Ngày nay, người học Phật pháp lấy sự thấu qua pháp thân làm cùng tột mà ngài Vân Môn trái lại cho đó là bệnh. Chẳng biết thấu qua pháp thân rồi, phải làm gì? Ðến đây như người uống nước lạnh nóng tự biết, chẳng cho hỏi người khác, hỏi người khác ắt là tai họa.
*
Thiền Sư Ðộng Sơn Giới nói:
Thời đại mạt pháp con người nhiều càn huệ, muốn phân biệt chân ngụy, có ba thứ sấm lậu (rỉ chảy):
1/ Kiến sấm lậu: Nghĩa là căn cơ chẳng rời địa vị, rơi vào biển độc. Ngài Minh An nói: Vì cái thấy bị kẹt nơi sở trị, nếu chẳng chuyển vị thì ngồi tại một sắc. Nói là sấm lậu vì ở trong ấy chưa tận thiện, cần phải phân biệt lại tung tích thì mới được tương tục huyền cơ diệu dụng.
2/ Tình sấm lậu: Nghĩa là trí thường hướng theo thuận hoặc nghịch, chỗ thấy thiên khô. Ngài Minh An nói: Vì tình và cảnh viên dung, kẹt nơi thủ xả, trước sau thiên khô, cái giác chiếu soi chẳng hoàn toàn, là sóng thức lưu chuyển, là việc giữa đường, bên bờ. Cần phải mỗi câu phải lìa hai bên chẳng kẹt vào tình và cảnh.
3/ Ngữ sấm lậu: Nghĩa là thể diệu mất tông, cơ muội sau trước. Người học trí ô trược lưu chuyển chẳng ra ngoài cái loại thứ ba này. Ngài Minh An nói: Thể diệu mất tông là kẹt nơi đường ngôi ngữ, câu mất tông chỉ, cơ muội sau trước là kẻ đương cơ tối tăm chỉ nhận trên ngôn ngữ nên tông chỉ chẳng viên mãn. Mỗi câu phải là vô ngữ trong hữu ngữ, hữu ngữ trong vô ngữ thì mới được cái diệu chỉ mật viên.
*
Quốc sư Vô Nghiệp nói:
Giả sử có người ngộ lý có một tri một giải mà chẳng biết phép tắc trong ngộ này là cái cửa nhập lý, bèn cho rằng hằng ra khỏi danh lợi thế gian, rồi vào trong núi ở bên khe, khinh thường bậc thượng lưu đến nỗi khiến tâm lậu chẳng hết, lý địa chẳng sáng, luống đến già chết sự nghiệp không thành, hao phí năm tháng. Dẫu cho có thông minh cũng chẳng địch nổi nghiệp, càn huệ chưa thoát khỏi luân hồi. Giả sử tài ngang Mã Minh, hiểu bằng Long Thọ, chỉ một đời hai đời chẳng mất thân người, do căn tánh sáng suốt đời trước thanh tịnh nên nghe qua liền hiểu.
Truyền Ðăng Lục
*
Thiền sư Viên Ngộ nói:
Người đại tử [1]  đều không có Phật pháp, đạo lý huyền diệu, đắc thất, thị phi, trường đoản. Ðến chỗ này mà thôi nghỉ thì Cổ nhân gọi đó là trên đất bằng người chết vô số, qua được rừng gai góc mới là tay tài giỏi, cần phải thấu qua bờ bên kia mới được. Tuy nhiên như thế, nhưng người đời nay đến được chỗ đất này cũng thật là hiếm có. Hoặc như có người do nương tựa mà được giải hội thì không dính dáng gì. Hòa thượng Mai gọi đó là cái thấy chẳng tinh khiết, Tiên sư Ngũ Tổ gọi đó là mạng căn chẳng cắt đứt, phải một phen đại tử rồi sống lại mới được. Hòa thượng Chiết Trung Vĩnh Quang nói: Ngôn phong nếu sai, quê hương xa vạn dặm, phải trên vực thẳm buông tay, tự chịu đảm đương, chết đi sống lại, dối ông chẳng được, ý chỉ phi thường, người đâu giấu được.
Bích Nham
*
Cổ nhân nói:
“Nương theo lời cần phải hội được tông, chớ tự thiết lập quy củ”. Như người đời nay cho rằng cứ đuổi đi là xong, được thì được đó, nhưng vẫn còn ở trong mịt mờ lầm lạc. Nếu họ đến trước mặt bậc tác giả, các Ngài đem ba yếu ngữ ấn không, ấn bùn, ấn nước để nghiệm họ thì sẽ thấy như cây vuông tra vào lỗ tròn, không thể nào được!
Bích Nham
*
Thiền sư Viên Ngộ nói:
Người học đạo bắt đầu có niềm tin, chán thế gian phiền rộn, rất sợ chẳng được lối vào. Ðã gặp thầy chỉ thị hoặc nhân tự mình phát minh được cái chân tâm mầu nhiệm viên mãn, vốn tự đầy đủ từ xưa đến nay. Chạm cảnh gặp duyên tự biết mình không dính mắc, liền bảo thủ chỗ đó. Sợ chẳng thể ra được nên bèn làm khuôn sáo, ở trên cơ cảnh lập chiếu lập dụng, buông một tiếng hét, một cái đánh, nhướng mày trợn mắt một cách kỳ đặc, lại gặp bậc thầy đắc đạo tước đoạt cho hết những cái tri giải như thế, liền đó khế chứng cảnh giới bổn lai vô vi, vô sự, vô tâm, rồi sau đó mới hổ thẹn vì biết rằng chỗ cứu cánh hãy còn mờ mịt. Chư Thánh còn tìm chỗ khởi của nó chẳng được, huống là người khác! Sở dĩ ngài Nham Ðầu nói: “Người được nó chỉ giữ chỗ nhàn nhàn, trong suốt 24 giờ đồng hồ vô dục, vô y, đâu chẳng phải là pháp môn an lạc!”.
Tâm Yếu
*
Hòa thượng Lạc Phổ thượng đường nói:
Một câu rốt sau mới đến lao quan (cổng kiên cố), bẻ khóa yếu tân (cửa trọng yếu) chẳng chung phàm thánh.
Ta thường nói với các ông: Mặc cho thiên hạ vui hớn hở, ta riêng chẳng chấp nhận. Muốn biết, bậc thượng lưu chẳng nên đem ngôn giáo của Phật Tổ dán trên trán, nếu giống như con quy mang cái hà đồ thì tự chuốc lấy cái điềm táng thân. Con chim phượng hoàng ở trong lưới vàng đến khi nào mới tung cánh được trên bầu trời cao lồng lộng, Phải nên ngoài ý chỉ mà rõ tông thú; chớ hướng vào ngữ ngôn mà nắm lấy cực tắc. Thế nên, người máy bằng đá in tuồng như ông biết xướng khúc Ba Ca thì ông cũng như người đá phải họa lại bản Tuyết Khúc.
Hội Nguyên
Hòa thượng BạchVân Ðoan nói:
Cần phải ngộ mới được! Sau khi ngộ rồi, cần phải gặp thiện tri thức. Nhà ngươi nói: Ngộ rồi là xong, đâu cần gặp thiện tri thức. Nếu ngộ rồi lại gặp thiện tri thức thì đương lúc ra tay làm phương tiện hằn tự có đường xuất thân, chẳng làm mù mắt người học. Còn nếu chỉ ngộ được đầu cây cải khô thì chẳng những làm mù mắt người học mà khi chính mình cử động trước tiên phạm nhằm mũi nhọn bị thương tay.
Hội Nguyên
*
Hòa thượng Ngũ Diện nói:
Có một bọn tham thiền như giã bột lọc trong bình lưu ly, lại động chuyển chẳng được, xông xáo chẳng được, chạm nhằm liền vỡ. Nếu muốn đến chỗ sống linh hoạt thì chỉ cần tham thẳng nơi cái đảy da rách này [ 2 ] . Phải hướng thẳng lên núi cao chót vót buông tay xuống mà cũng chẳng bị vỡ, cũng chẳng bị hư.
Bích Nham
*
Hòa thượng Hối Ðường dạy chúng:
Nếu người chỉ thấu rõ tự kỷ mà chưa ngộ cái trước mắt, người này như có mắt mà không có chân. Nếu ngộ được cái trước mắt mà chẳng thấu rõ tự kỷ, người này như có chân mà không có mắt. Hai người này, trong hai mươi bốn giờ thường có một vật ngăn trong lồng ngực. Vật đã ở trong ngực thì cái tướng bất an thường ở trước mắt. Ðã ở trước mắt thì gặp việc, thành ra bị kẹt, làm sao mà được an ổn? Tổ chẳng nói:
Chấp đó mất chừng (chánh đạo)
Ắt vào đường tà
Buông đó tự nhiên
Thể không đi, trụ
Đó sao!
Chánh Pháp Nhãn Tạng
*
Hòa thượng Diệp Huyện Tỉnh nói:
Tham học cần phải đủ mắt tham học. Kiến địa cần phải được câu kiến địa. Có lúc câu đến mà ý chẳng đến, chỉ là vọng duyên bóng dáng phân biệt của tiền trần. Có lúc ý đến mà câu chẳng đến thì như người mù sờ voi, mỗi người đều nói mỗi khác. Có lúc ý và câu đều đến thì đập vỡ cõi hư không, ánh sáng soi khắp mười phương. Có lúc ý và câu đều chẳng đến, như người không có mắt chạy ngang chạy dọc, hốt nhiên bất giác sa xuống hầm sâu.
Hội Nguyên
Thiền sư Huyền Sa Bị buồn vì đạo pháp khó nói, ít gặp người thượng căn, người học thường dựa theo ngữ ngôn mà sanh tri giải, theo chiếu mất tông, nên Ngài bèn dạy ba câu cương tông:
Câu thứ nhất: Hãy tự đảm đương sẵn sàng đầy đủ, vì cả mười phương thế giới không có người nào khác mà chỉ là ông, lại bảo cái gì là thấy? Cái gì là nghe? Toàn là tại tâm vương ông làm ra, trọn thành bất động trí. Chỉ vì thiệu sự tự đảm đương nên nói là mở cửa phương tiện để khiến ông tin có một phần chân thường lưu chú, cùng xưa tột nay chưa có chẳng thị, chưa có chẳng phi. Nhưng câu này, chỉ thành pháp bình đẳng. Vì sao? Chỉ vì dùng lời để dẹp lời, lấy lý để đuổi lý, bình thường tánh tướng nhiếp vật lợi sanh mà thôi. Vả lại, đối với tông chỉ còn là chỉ biết rõ phía trước mà chẳng biết rõ phía sau, gọi là một vị bình thật, là chứng từng phần pháp thân, chưa có câu xuất cách, chết ở dưới câu, chưa có phần tự do. Nếu biết cái lượng xuất cách thì chẳng bị tâm ma sai khiến và đến trong tay bèn chuyển một cách lỗi lạc, nói là thông đại đạo chẳng rơi vào kiến giải bình thường trong lòng.
Câu thứ hai: Xoay nhân về quả, chẳng mắc vào lý bình thường nhất như, phương tiện gọi là chuyển vị hợp cơ. Sanh sát tự tại, buông bắt tùy nghi, ra sanh vào tử làm lợi ích rộng lớn cho hết thảy chúng sanh, thoát khỏi cảnh sắc dục, ái kiến, phương tiện gọi là Phật tánh đốn siêu tam giới. Ðây gọi là hai lý cùng sáng, hai nghĩa đồng chiếu, chẳng bị hai bên làm động, diệu dụng hiện tiền.
Châu thứ ba: Biết rõ cái gốc tánh tướng đại trí, kiến giải vượt bực, tối sáng rỗng suốt, trùm khắp pháp giới một thể tánh chân thật, đại dụng hiện tiền, ứng hóa cùng khắp mọi nơi, toàn dụng toàn bất dụng, toàn sanh toàn bất sanh, phương tiện gọi là cái cửa từ định.



Chú Thích :
[1] Người đại tử là người hoàn toàn bặt hết tình thức như người chết, để rồi sau đó sống lại với cái tâm chân thật bất sanh  bất diệt sẵn có của mình (hoát nhiên đại ngộ)

[2] Chỉ cho tự  kỷ

---o0o---

Chương 19

Học Ðạo Cần Phải Biết Người Triệt Ngộ Bất Tất Hiềm Tri Giải

Viễn Lục Công nói:
Người chưa thấu triệt thì tham câu chẳng bằng tham ý. Người thấu triệt rồi tham ý chẳng bằng tham câu.
Bích Nham
*
Thiền sư Hoàng Long Tâm sau khi đại ngộ vẫn sống chung lộn với chúng và thường hay vãng quyết cu Vân Môn. Ngài Huệ Nam thấy thế hỏi:
- Biết việc này rồi thì thôi. Ông còn dụng rất nhiều công phu nữa để làm gì?
Sư thưa:
- Dạ chẳng đúng. Hễ còn một mảy mai nghi ngờ là chưa đến hàng vô học, đâu thể tự do tung hoành xoay trời chuyển đất được.
Ngài Huệ Nam công nhận.
Tăng Bảo Truyện
*
Thiền sư Viên Ngộ nói:
Tham học với tiên đức đã lâu, hoặc có người thấy mà chưa thấu, hoặc có người thấm mà chưa sáng tỏ, đó gọi là thỉnh ích. Nếu thấy được thấu mà thỉnh ích thì cần phải ở trên ngữ cú chu toàn, không có ngưng trệ. Còn người tham lâu đã sáng tỏ rồi mà còn thỉnh ích nữa là cho giặc leo thang.
Bích Nham
Hòa thượng Quy Tông nói:
Từ xưa, Cổ đức chẳng phải không có tri giải, song các ngài là bậc cao thượng chẳng đồng với bọn tầm thường hiện nay chẳng tự thành tự lập được. Chớ để thời gian luống qua vô ích!
Ngài Dũng Tuyền nói:
Kiến giải, ngôn ngữ thảy cần phải biết cho thấu triệt, nhưng nếu thức tình chẳng hết thì tôi dám nói là hãy còn luân hồi. Sao vậy? Vì thức lậu chưa hết. Ông chỉ cần dứt hết thức lậu thì bấy giờ mới được tự thành tự lập.
Hội Nguyên
*
Thiền sư Ðại Huệ nói:
Từ xưa, các bậc đại trí huệ đều lấy tri giải làm bè bạn, lấy tri giải làm phương tiện, ở trên tri giải thực hành lòng từ bình đẳng, ở trên tri giải làm các Phật sự như rồng gặp nước, như hổ tựa núi, không bao giờ cho là phiền, chỉ vì các ngài biết rõ được chỗ sanh khởi của tri giải.
Tông Cảnh Lục chép:
Nếu nói trí huệ quấy thì Ðại Trí Văn Thù chẳng nên xưng là Pháp vương tử. Nếu cho đa văn là lỗi thì Tỳ kheo Vô Văn (không nghe chánh pháp) lẽ ra chẳng bị đọa địa ngục. Phải biết lấy trí huệ hợp với đa văn kia để chẳng bao giờ chấp vào lời mà nhận ngón tay cho là mặt trăng, lấy đa văn làm rộng trí huệ kia để khỏi trở thành kẻ quê mùa day mặt vào vách. Sở dĩ nói: “Có trí mà không hạnh là thầy của nước (quốc gia), có hạnh mà không trí là dụng của nước, có trí có hạnh là vật báu của nước, không trí không hạnh là giặc của nước”. Thế nên, trí cần nên học, hạnh cần nên tu, thiếu trí là kẻ thù của đạo, không hạnh là kẻ giặc của nước. Phải biết: Xích xiềng của danh tướng, nếu chẳng phải là chìa khóa trí thì khó mở cho ra; tình tưởng kéo lôi, nếu chẳng phải gươm huệ thì khó mà chặt đứt.

---o0o---

Chương 20

Học Ðạo Cần Phải Biện Câu Khách Chủ

Hòa thượng Lâm Tế nói:
Người tham học rất cần phải kỹ lưỡng như chủ khách gặp nhau, thì liền có ngôn luận qua lại, hoặc ứng vật hiện hình, hoặc toàn thể tác dụng, hoặc nắm cơ quyền hỷ nộ, hoặc hiện bán thân, hoặc cưỡi sư tử, hoặc cưỡi tượng vương.
Như có học nhân chân chánh hét, trước tiên đưa ra bồn keo, thiện tri thức chẳng biện cảnh này, bèn lên trên cảnh của người làm mô làm dạng. Học nhân bèn hét, thiện tri thức chẳng chịu buông. Ðây là bệnh nặng chẳng trị được, gọi là khách xem chủ.
Hoặc là thiện tri thức chẳng đưa ra vật, tùy theo chỗ của bọn học nhân liền đoạt, học nhân bị đoạt đến chỗ chẳng còn gì để buông. Ðây gọi là chủ xem khách.
Hoặc có học nhân đưa một cảnh thanh tịnh ra trước thiện tri thức, thiện tri thức biện được cảnh này, nắm được ném vào hầm. Học nhân nói: “Hay thay! Thiện tri thức”. Thiện tri thức liền bảo: “Dốt! Không biết tốt xấu”. Học nhân bèn lễ bái. Ðây gọi là chủ xem chủ.
Hoặc có học nhân bị mang cùm đeo xích ra trước thiện tri thức, thiện tri thức lại chồng thêm cho một lớp cùm xích nữa. Học nhân vui mừng, bỉ thử chẳng biện. Ðây gọi là khách xem khách.
*
Hòa thượng Thủ Sơn Niệm dạy chúng:
Các thượng tọa chẳng được hét mù hét bậy. Ta thường nói với các ông: Khách thì trước sau vẫn là khách, chủ thì trước sau vẫn là chủ, khách không hai khách, chủ không hai chủ. Nếu có hai khách hai chủ thì hai cái đều thành kẻ mù. Do đó, ta nếu đứng, ông phải ngồi; ta nếu ngồi; ông phải đứng. Ngồi thì vì ông mà ngồi, đứng thì vì ông mà đứng. Tuy nhiên như thế, phải mau để mắt mới được.

---o0o---

Chương 21

Học Ðạo Cần Phải Biện Công Phu Thực Tiễn

Hoàng đế Ðường Tuyên Tông hỏi Thiền sư Hoàng Biện:
- Ðốn kiến là gì? Tiệm tu là gì?
Sư đáp:
- Liền rõ tự tánh cùng Phật không khác là đốn kiến, nhưng vì ô nhiễm huân tập từ vô thỉ nên phải nhờ có tiệm tu để đối trị, khiến thuận theo tánh mà khởi dụng, như người ăn cơm chẳng phải một búng liền no.
*
Hòa thượng Quy Sơn thượng đường dạy:
Tâm của người học đạo phải ngay thẳng chân thật, không dối trá, không có tâm hạnh sau lưng trước mặt lừa phỉnh, bất cứ lúc nào thấy nghe bình thường không chiều uốn, cũng chẳng phải nhắm mắt bịt tai, chỉ cần tâm chẳng chạy theo vật là được. Từ trước, các Thánh chỉ nói: “Bên bợn nhơ là lỗi lầm”. Nếu không có các thứ thấy biết xấu xa, chấp trước theo tình và thói quen vọng tưởng nhiều như thế thì ví như nước mùa thu lóng đứng trong trẻo lặng yên, không động không ngại, gọi người này là đạo nhân, cũng gọi là người vô sự.
Khi ấy, có vị Tăng hỏi:
- Người đốn ngộ rồi còn tu nữa chăng?
Sư bảo:
Nếu người khi thật ngộ được bản tánh thì họ tự biết, tu cùng không tu chỉ là lời nói hai đầu. Như nay có người sơ tâm tuy từ duyên được một niệm đốn ngộ chân lý nơi mình, nhưng vẫn còn tập khí nhiều kiếp từ vô thỉ chưa có thể liền hết, nên cần phải dạy hắn trừ sạch dòng thức tạo nghiệp hiện tại, tức là tu vậy. Không nên nói có một pháp riêng dạy hắn tu hành thú hướng. Từ nghe vào được lý, nghe lý sâu mầu tâm tự tròn sáng không có chỗ mê lầm, hiện thời dù có trăm nghìn diệu nghĩa thăng trầm, hắn vẫn được ngồi mặc áo, tự biết tạo sanh kế.Nói tóm lại, chỗ lý chân thật không nhận một mảy bụi, trong cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp. Nếu được như vậy là một mình cầm đao xông thẳng vào, lòng phàm thánh sạch, hiện bày chân thường, lý sự không hai, tức Như Như Phật.
Hội Nguyên
*
Ðạt Ma bảo Nhị Tổ:
Chánh pháp nhãn tạng nay ta phó chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ hai trăm năm, y ngưng lại chẳng truyền, pháp bủa cùng khắp, kẻ biết đạo thì nhiều, người hành đạo thì ít, kẻ nói lý thì nhiều, người thông lý thì ít, người thầm khế hợp mật chứng hơn cả ngàn muôn. Ông nên xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ, một niệm hồi cơ bèn đồng bản đắc.
*
Có vị Tăng hỏi Hòa thượng Ðại Châu:
- Thế nào là tu hành?
Sư đáp:
- Chỉ cần đừng ô nhiễm tự tánh tức là tu hành, đừng tự dối trá tức là tu hành, đại dụng hiện tiền tức là pháp thân vô đẳng đẳng.
Truyền Ðăng Lục
Thiền sư Dũng Tuyền Hân thượng đường dạy:
Ta bốn mươi chín năm tại chỗ này còn có tẩu tác, bọn các ông chở mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, còn người hạnh giải thì trong muôn người mới có một. Kiến giải, ngôn ngữ thảy cần phải cho thấu triệt, nhưng nếu thức tình chẳng hết thì tôi dám nói là hãy còn luân hồi. Sao vậy? Bởi vì thức lậu thì bấy giờ mới được tự thành tự lập.
Hội Nguyên
*
Thiền sư Ðại Huệ nói:
Việc này thật chẳng phải dễ dàng, cần phải sanh lòng hổ thẹn mới được. Thường thường người lợi căn thượng trí được nó chẳng phí sức bèn sanh tâm khinh dễ mà không tu hành. Họ phần đông bị cảnh giới trước mắt cướp đoạt mang đi, làm chủ tể chẳng được, ngày qua tháng lại mê man chẳng tỉnh, đạo lực không thắng được nghiệp lực, nên ma được dịp thuận tiện phá hoại, chắc chắn bị ma nắm quyền sai sử đến lúc mạng chung cũng chẳng đắc lực.
*
Thiền sư Viên Ngộ nói:
Như người học bắn lâu ngày mới bắn trúng đích, ngộ thì khoảng sát na mà công phu tu hành cần phải hàm dưỡng lâu dài. Như con chim bột cưu mới nở ra xương đã đỏ, nuôi dưỡng đút mồi, ngày qua tháng lại lông cánh đầy đủ mới có thể bay liệng cao xa được, do đó người ngộ thấu triệt rồi, còn cần phải điều phục tập khí nữa!
Tâm Yếu
*
Ngài Viên Ngộ nói:
- Lý cần phải đốn ngộ. Sự cần phải tiệm tu.
Tâm Yếu
*
Ngài Nam Tuyền nói: Ta lúc trên mười tám tuổi đã biết tại sinh kế.
Ngài Triệu Châu nói: Ta lúc trên mười tám tuổi đã biết phá tan nhà cửa.
Và nói: Ta ở phương Nam hai mươi năm, trừ hai thời cơm cháo là lúc dụng tâm tạp.
Thiền sư Ðộng Sơn Giới nói: Cần phải tâm tâm không chạm vật, bước bước không chỗ nơi, thường chẳng gián đoạn, mới được chút phần tương ưng.
Truyền Ðăng Lục
*
Thiền sư Ðại Từ Hoàn Trung nói:
Nói được một trượng chẳng bằng làm được một tấc.
Ngài Ðộng Sơn lại nói:
- Nói cái làm chẳng được không bằng làm cái nói chẳng được.
Hòa thượng Hối Ðường Tâm nói:
- Tôi đầu tiên vào đạo tự thị rất dễ, đến khi gặp Tiên sư Hoàng Long rồi, nghĩ lại mọi việc hằng ngày của mình cùng với lý mâu thuẫn rất nhiều, bèn nổi lực tu hành ba năm dẫu cho lạnh lẽo, nóng bức chí thẳng đổi dời. Sau đó, mới được mọi việc đúng như lý, mà nay khạc nhổ, quơ tay cũng đều là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang.
Thiền Môn Bảo Huấn
*
Hòa thượng Hương Lâm Viễn nói:
Lão tăng phải mất bốn mươi năm mới “nhồi thành một khối” được. Ngài Viên Ngộ nhắc lại lời này để khuyên người muốn triệt ngộ phải siêng năng thực hiện công phu. Thật là có ý!
*
Thiền sư Khuê Phong nói:
Chân lý liền ngộ mà chóng viên mãn, vọng tình muốn dứt phải dần dần mới hết. Chóng viên mãn như trẻ mới sanh ra một ngày mà chi thể đã hoàn toàn đầy đủ. Tiệm tu như nuôi dưỡng nó nhiều năm chí khí mới lập.
Hội Nguyên
*
Thượng thư Ôn Tháo ở Sơn Nam hỏi ngài Khuê Phong:
- Người ngộ lý dứt vọng chẳng kết nghiệp, sau khi mạng chung linh tánh nương tựa vào đâu?
Sư đáp:
Tất cả chúng sanh không ai chẳng đủ giác tánh linh minh không tịch cùng Phật không khác. Chỉ vì từ vô thỉ kiếp đến nay chưa từng liễu ngộ, vọng chấp thân làm ngã tướng nên sanh ra các thứ tình cảm thương, ghét… Theo tình tạo nghiệp, theo nghiệp thọ báo, sanh già bệnh chết nhiều kiếp luân hồi. Nhưng giác tánh trong thân chưa từng sanh tử, như chiêm bao thấy bị đuổi rượt mà thân vốn an nhàn, như nước thành băng mà tánh ướt vẫn không đổi. Nếu hay ngộ được tánh này tức là pháp thân vốn tự vô sanh đâu có nương gá, linh minh chẳng muội, rõ ràng thường biết, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Nhưng vọng chấp nhiều đời, tập quán thành tánh mừng, giận, buồn, vui vi tế lưu chú. Chân lý tuy nhiên liền đạt mà tình này khó thể dẹp ngay, cần phải luôn luôn giác sát để cho chúng càng ngày càng tổn giảm như gió ngừng liền mà sóng từ từ mới lặng, đâu thể tu một đời mà liền đồng lực dụng của chư Phật. Chỉ nên lấy không tịch làm tự thể chớ nhận sắc thân; lấy linh tri làm tự tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm nếu khởi đều chẳng theo nó thì đến lúc mạng chung nghiệp không trói buộc được, tuy có thân trung ấm mà chỗ đi tự do, trên trời trong người tuỳ ý nương gởi. Nếu niệm thương ghét đã hết thì chẳng thọ thân phần đoạn, tự có thể đổi dở thành hay, đổi thô thành diệu. Nếu vi tế lưu chú tất cả đều lặng hết thì chỉ có viên giác đại trí chói sáng riêng còn, liền tùy cơ ứng hiện trăm ngàn muôn ức hóa thân độ chúng sanh có duyên, gọi đó là Phật.
*
Hòa thượng Viên Ngộ nói:
Thuở xưa, bậc đạo cao đức dày bảo người đã thoát căn trần nên hoằng mật ấn, hai ba mươi năm dụng công phu một cách lạnh lẽo, lặng lặng, vừa có mảy may tri kiến liền quét sạch, cũng chẳng lưu lại dấu vết càn quét. Ở trên bờ bên kia buông tay, quên hẳn toàn thân thì chắc chắn được sống rất thích thú. Chỉ sợ khởi cái biết về hành động ấy thì cái biết đó là tai họa vậy.
Hòa thượng Ðại An nói:
- Ta ở Quy Sơn ba mươi năm nay, ăn cơm Quy Sơn, ỉa cứt Quy Sơn mà chẳng học thiền Quy Sơn, chỉ chăm một con trâu cổ. Nếu nó lạc vào đám cỏ thì kéo nó ra, còn nếu nó chạm vào lúa mạ của người thì đánh lôi ra. Ðiều phục đã lâu, thật dễ thương vì nó đã chịu nghe lời. Nay nó đã biến thành con trâu trắng lồ lộ thường ở trước mặt suốt ngày đuổi cũng chẳng đi.
Chánh Pháp Nhãn Tạng
*
Thiền sư Viên Ngộ nói:
- Sau khi được ý chỉ phải miên mật tương tục giữ gìn khiến không gián đoạn để trưởng dưỡng thánh thai. Dẫu cho gặp cảnh giới ác mà vẫn có khả năng dùng được định lực chánh tri kiến dung nhiếp nó khiến thành một phiến thì cơn biến đổi lớn sanh tử chẳng đủ làm động lòng mình, hàm dưỡng được lâu năm sẽ thành con người vô vi, vô sự, đại giải thoát, đâu chẳng phải là chỗ làm đã xong, việc hành cước đã rồi ư!
Tâm Yếu
*
Thiền sư Hưng Thiện Duy Khoan được vua Hiến Tông thỉnh vào cung, quan Thị lang Bạch Cư Dị từng hỏi rằng:
- Ðã gọi là Thiền sư, tại sao thuyết pháp?
Sư đáp:
- Vô thượng Bồ đề mang ở thân là luật, nói ở miệng là pháp, hành ở tâm là thiền. Ứng dụng có ba, nhưng chỉ một mối. Ví như nước sông Hoài, sông Hán tùy theo chỗ đặt tên, tên tuy chẳng phải một mà tánh nước không hai. Luật tức là pháp, pháp chẳng rời thiền, tại sao trong đó lại lầm khởi phân biệt!
- Ðã không phân biệt thì lấy gì để tu tâm?
- Tâm vốn không tổn thương, đâu cần tu sửa. Không luận nhơ cùng sạch, nhất thiết đừng khởi niệm.
- Nhơ chẳng nên niệm thì phải, còn sạch cũng chẳng nên niệm nữa sao?
- Như không nên bỏ một vật gì hết vào trong con mắt, mạt vàng tuy quý nhưng rơi vào con mắt cũng thành bệnh.
- Vô tu, vô niệm thì đâu có khác gì phàm phu?
Phàm phu vô minh, Nhị thừa chấp trước, lìa hai bệnh này gọi là chân tu. Người chân tu chẳng được siêng, chẳng được quên. Siêng tức là gần với chấp trước. Quên tức là rơi vào vô minh. Ðây là tâm yếu vậy.
Hội Nguyên
*
Hòa thượng Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Này Huệ Tịch! Tâm thức ông vi tế lưu chú không đến đã được mấy năm rồi?
Ngưỡng Sơn chưa vội đáp, hỏi vặn lại:
- Hòa thượng không đến đã được mấy năm rồi?
Lúc đó, Tổ Quy Sơn bảy mươi tuổi, đáp Ngưỡng Sơn:
- Lão tăng không đến đã bảy năm rồi.
Ngưỡng Sơn thưa:
- Huệ Tịch con chính đang náo loạn.
Lời bình của ngài Ðại Huệ: Lấy đây mà xét, chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng? Thật ra, phải là người có lực lượng lớn mới được!
Ðại Huệ Phổ Thuyết

---o0o---

Chương 22

Học Ðạo Cần Phải Ðến Nơi Hoàn Toàn Thôi Nghỉ

Từ lâu tập sách này hoàn thành đến chương Nơi Hoàn Toàn Thôi Nghỉ, tôi không viết thêm nữa.
Một hôm, có một vị tăng hỏi:
- Am chủ trứ tác tập này rất tiện cho người sơ học xem. Nhưng đến chương Nơi Hoàn Toàn Thôi Nghỉ, tại sao Ngài không viết?
Tôi đáp:
- Ta chẳng biết, ta chẳng hội.
Tăng hỏi:
- Am chủ vì sao lời chưa hết?
Tôi vỗ tay cười ha hả. Ông Tăng ấy mù tịt. Tôi làm bài kệ: “Bốn oan nghi trong núi” để trình bày cái chí của mình như sau:

Ði trong núi
Thẳng đường chim chân trần đầu trụi
Gặp hùm beo chạm vuốt nhe nanh
Trở về trong dáng lặng thinh
Cùng ai chiếc gậy thầm kinh nhau kìa!

Ðứng trong núi
Chỉ hằng biết chiều chiều sớm sớm
Khách tới thăm gạn vấn làm chi!
Muôn non nghìn núi uy nghi
Nộ cuồng thét tiếng vang trời đáp ngay.

Ngồi trong núi
Tu Di nọ một tòa ngồi dựa
Ðâu phải là chán mứa Thiền tông
Chỉ hay khéo học đạo nhàn
Ðem manh y rách khâu lần cho vui.

Nằm trong núi
Bụng no nê đánh khò một giấc
Gối êm ru tỉnh mặc an hòa
Mừng thay! Chẳng kẻ tìm ta
May thay! Hàng ế không người tìm mua.

Phụ dịch âm chữ Hán:

Sơn trung hành
Xích cước tiêm đầu điểu đạo bình
Phùng trước đại trùng xúc nha trảo
Quy lai trượng tử ám tương kinh.

Sơn trung trụ
Chỉ thức tùng triêu hựu đáo mộ
Khách lai nhược vấn nhân thập ma
Vạn nhạc thiên phong nổ lực nộ.

Sơn trung tọa
Kháo thủ Tu Di na nhất tọa
Bất thị quyện thiền học lạc đà
Thời bả nạp y dục bổ phá.

Sơn trung ngoạ
Bảo câu câu địa tiêu nhất cá
Mặc diệu thao huy phó chẩm nhi
Hạnh nhiên vô nhân cầu truệ hóa.

---o0o---

Lời Bạt

Cổ đức nói: “Biết nhiều về ngôi hạnh của người xưa là để thành lập chi chí của mình”.
Tiên sư Nhất Ty đã từng ở ẩn trong núi Ðan, những lúc rảnh rang, Sư xem qua các kinh sách Trung Hoa, Thiên Trúc (Ấn Ðộ) thâu thập ngôn hạnh của người xưa biên soạn lại thành một tập sách nhan đề Truy Môn Bảo Tạng Tập (bản dịch này đề Kho Báu Nhà Thiền) gồm ba quyển [3] chia thành hai mươi hai chương. Mở đầu là quyết định lòng tin lấy sự sợ sanh tử làm gốc. Sau cùng lấy sự siêng năng thực hành công phu để đạt đến chỗ hoàn toàn thôi nghỉ mới là cùng tột. Ở trong đó bao gồm những lời dạy như cần phải chọn thầy lựa bạn, lý kiến tánh minh tâm, cho đến con đường hướng thượng, câu tà chánh, khách chủ được phân tích trình bày theo bộ loại. Trong đó lại thêm phần bình luận để chiết trung. Vì thế, sách này được người học luôn luôn truyền nhau gìn giữ như viên ngọc quý.
Khi tôi được xem qua thì thấy từ ngữ dùng lẫn lộn cho nhau rất nhiều, nên mùa đông năm ngoái, tôi xem kỹ lại tập sách này, đại khái tôi có đính chính và thêm dấu chấm câu để tiện cho người sơ học xem, song e rằng vẫn còn nhiều sơ sót. Nay xin đem khắc bản lưu truyền lại đời sau cho hàng hậu tấn. Người đọc nếu y theo những lời dạy trong đây mà thực hành thì ắt thành tựu chí lớn của mình một cách chắc chắn. Bằng như người đời trước có linh cốt đủ siêu tông dị mục thì tập sách này cũng chẳng thành lời thừa với người ấy vậy!

Vĩnh Nguyên, Tiểu Tỳ kheo Huệ Tuần
Cẩn bạt.

---o0o---

[3]Trong bộ Thiền Học Ðại Thành, nguyên tác chữ Hán, thì tập Truy Môn Bảo Tạng chia thành ba quyển. Riêng đây, vì muốn cho các chương được liên tục nên được xếp từ chương I đến chương XXII

Hết.