Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

THIỀN TÔNG VĨNH GIA TẬP


THIỀN TÔNG VĨNH GIA TẬP
TỰA
Nghe rằng : Huệ môn rộng mở lý bặt mối manh sắc tướng, nẻo giác xa xăm
một phen lên rồi thì chôn lấp danh ngôn biểu hiện.
Buồn thay ! Đấng Năng Nhân thị hiện ứng hóa khắp nơi, mở diệu điển nơi
ba thừa, suốt chân thuyên trong tám bộ. Sở dĩ phát huy đến chỗ sâu xa treo cao trí
tuệ soi sáng nẻo tối tăm, xiển dương đại đạo, cỡi sóng Thiền trên sóng dục. Vì vậy,
kim quan trùm ánh sáng, ngọc hào thâu vẻ đẹp, một mình nêu cao tinh anh Linh
Thứu, riêng mang nghiệp thành lân (ý tán dương đại sư là bậc tôn quý trong nhà
Thiền) chỉ có Đại sư vậy !
Đại sư họ Đới, người ở Vĩnh Gia. Thuở nhỏ, Ngài chuyên tâm nơi tam tạng,
lớn lên lão thông pháp Đại thừa, ba nghiệp siêng năng riêng hoằng dương Thiền
quán. Cảnh trí đều tịch, định tuệ song dung khiến cho bụi lặng nơi nẻo tối tăm,
sóng dừng nơi biển diệu. Tâm trong như ngọc, đạo chủng sáng ngời thất tịnh (Thất
tịnh : 1) Giới tịnh. 2) Tâm tịnh. 3) Kiến tịnh. 4) Độ nghi tịnh. 5) Phân biệt đạo tịnh.
6) Hạnh đoạn tri kiến tịnh. 7) Niết-bàn tịnh.) chói nhau. Giới sạch như trăng, hoa
từ tỏ rạng tam không (Tam không là ba môn giải thoát : Không, Vô tướng, Vô
nguyện.) trình chiếu. Lại thêm, chí thanh khiết như tùng điểm sương, tâm rỗng
không như trăng đáy nước. Áo vải cơm rau quên thân vì đạo, xót thương hàm thức
muốn chúng sanh đều được an vui. Quán niệm nối nhau tâm không gián đoạn,
trước sau gìn giữ tiết tháo rắn chắc như đá vàng. Tâm yếu cạn sâu một lý dung
thông như kết hoa không thẹn. Thần trí thấu triệt ngôn biểu, lý mầu khế hợp hoàn
trung. Khiêm hạ mình, đề cao người. Thuận phàm đồng thánh chẳng khởi diệt
định mà giữ bốn oai nghi. Danh trọng đương thời, hóa đạo cùng khắp. Người thạc
học khắp Tam Ngô [Tam Ngô là Tô Châu (Đông Ngô), Nhuận Châu (Trung Ngô),
Hồ Châu (Tây Ngô)] đông đúc đến học Thiền, bậc cao nhân ngoài tám hướng vào
nhà lý mau như gió thổi.
Ngụy Tĩnh tôi hầu hạ dưới chân Ngài, chỉ hận chưa hết tấm lòng bỗng phải
giã từ trở lại kinh kỳ. Từ đó đến nay u minh xa cách, vĩnh viễn thương tiếc, con
mắt diệu huyền vừa gặp lương y chợt mất kim bài; biển dục sóng to mà vị Thầy
dẫn đường đã mất. Tác phẩm còn đây mà am thất đã quạnh hiu.
Chao ôi ! Đau đớn buốt cả tâm can. Một vị Thầy sáng suốt đã mất, bảy
chúng biết nương tựa vào đâu. Lời vàng ngọc của bậc cao đức không còn được
nghe, xa cách càng thêm thê lương sầu thảm.
Lúc Đại sư còn tại thế, những lời dạy được ghi lại gồm có mười thiên, góp
lại thành một quyển. Ước mong người học được ý quên lời để khế hợp với đạo của
Ngài vậy.
Nay sơ lược ghi lại vài lời, nếu có điều chi lầm lạc xin bậc minh triết sửa lại
dùm cho.
Nhà Đường, Thứ Sử Khánh Châu
NGỤY TĨNH
􀀢
TIỂU DẪN
Quyển này nhan đề Thiền Tông Vĩnh Gia Tập, còn được gọi là Vĩnh Gia
Tập, do Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, đệ tử nối pháp của Lục Tổ Huệ Năng,
trước tác. Nội dung toàn tập được chia làm mười chương :
Nghi thức lập chí mộ đạo
Răn ý kiêu sa
Tịnh tu ba nghiệp
Bài tụng về Xa-ma-tha
Bài tụng về Tỳ-bà-xá-na
Bài tụng về Ưu-tất-xoa
Cấp bậc lần lượt của ba thừa
Sự lý không hai
Thư khuyên bạn hữu
Văn phát nguyện
Trong đây, ba chương đầu là phần tự, năm chương kế là phần chánh tông,
hai chương cuối là phần lưu thông. Tập này trình bày về dụng ý thiền định, lịch
trình tu tâm, còn nhắc nhở người tu thiền phải cẩn thận giữ gìn ba nghiệp thân
miệng ý cho thanh tịnh.
Tác giả húy là Huyền Giác (665-713), họ Đới, người đời Đường ở đất Vĩnh
Gia (nay là huyện Vĩnh Gia, tỉnh Triết Giang). Ngài xuất gia từ tấm bé, tinh thông
tam tạng, sở trường về môn Chỉ Quán Thiên Thai. Về sau, nhân được Thiền sư Tá
Khê Huyền Lãng khích lệ, Ngài cùng với Thiền sư Đông Dương Huyền Sách đến
tham bái Lục Tổ Huệ Năng, chỉ một đêm Ngài được ấn khả nên người đời gọi là
“Nhất túc giác” (một đêm giác ngộ). Sáng hôm sau Ngài xuống núi trở về Ôn
Giang tuyên dương ý Tổ, kẻ đến học rất đông đảo, tông phong hưng thịnh, hiệu là
Chân Giác Đại Sư. Ngày 17 tháng 10 năm thứ sáu niên hiệu Tiên Thiên (713 TL),
đời Vua Đường Huyền Tôn, Ngài an tọa thị tịch. Ngày 13 tháng 11 an táng tại
hướng nam Tây Sơn, tháp hiệu Tịnh Quang, thụy phong Vô Tướng Đại Sư, người
đời thường gọi Ngài là Vĩnh Gia Đại sư. Ngài trước tác tập này cùng một thiên
Chứng Đạo Ca đều được lưu truyền trong đời.
􀁄
THIỀN TÔNG VĨNH GIA TẬP
Tập này được chia làm mười chương :
1- Nghi thức lập chí mộ đạo : Phàm muốn tu đạo trước tiên phải lập chí và
học nghi tắc hầu Thầy. Do đó chương đầu tiên nói về nghi thức mộ đạo.
2- Răn ý kiêu sa : Ban đầu dù đã lập chí tu đạo khéo biết quy nghi. Nếu ba
nghiệp kiêu sa thì vọng tâm khuấy động làm sao được định. Do đó chương thứ hai
nói về răn ý kiêu sa.
3- Tịnh tu ba nghiệp : Trước đã lược nêu cương yếu về việc ngăn cấm kiêu
sa. Nay kiểm điểm kỹ lưỡng lại khiến cho lỗi chẳng sanh. Do đó chương thứ ba
nói về tịnh tu ba nghiệp.
4- Bài tụng về Xa-ma-tha (Chỉ) : Trước đã kiểm trách thân và miệng khiến
lỗi thô không sanh. Kế đến phải vào cửa tu đạo, theo thứ tự thì chẳng ra ngoài định
tuệ, năm loại móng tâm, sáu khoa liệu giản. Do đó chương thứ tư là bài tụng về
Xa-ma-tha.
5- Bài tụng về Tỳ-bà-xá-na (Quán) : Chẳng phải giới thì không thiền,
chẳng phải thiền thì không tuệ. Trên đã tu định, định lâu thì tuệ sáng. Do đó
chương thứ năm là bài tụng về Tỳ-bà-xá-na.
6- Bài tụng về Ưu-tất-xoa (Xả) : Tu riêng môn định, định lâu bị chìm; học
riêng môn tuệ, tuệ nhiều tâm động. Do đó chương thứ sáu là bài tụng về Ưu-tấtxoa,
định tuệ cân bằng khiến không chìm không động, định tuệ quân bình buông
xả nhị biên (Chẳng bị bên Không làm lặng chìm, chẳng bị bên Có làm dao động,
chẳng dừng chẳng động thẳng vào Trung đạo.)
7- Cấp bậc lần lượt của ba thừa : Định tuệ đã quân bình thì tịch mà thường
chiếu, tam quán nhất tâm thì nghi nào chẳng trừ, trí chiếu nào không viên mãn. Tự
mình dù đã hiểu rõ ràng nhưng thương người chưa ngộ, ngộ có cạn sâu. Do đó
chương thứ bảy nói về cấp bậc lần lượt của ba thừa.
8- Sự lý không hai : Ba thừa ngộ lý, không lý nào chẳng cùng. Tột lý ở nơi
sự, rõ sự tức lý. Do đó chương thứ tám nói sự lý không hai, tức sự là chân dùng để
trừ kiến chấp điên đảo.
9- Thư khuyên bạn hữu : Sự lý đã dung, nội tâm tự sáng, lại thương người
học đạo đời sau luống uổng tấc bóng. Do đó chương thứ chín là thư khuyên bạn
hữu.
10- Văn phát nguyện : Khuyên bạn tuy là thương người nhưng còn để ý chú
trọng đến một người, tâm chưa cùng khắp. Do đó chương thứ mười nói về văn
phát nguyện thệ độ tất cả vậy.
􀀢
CHƯƠNG I: NGHI THỨC LẬP CHÍ MỘ ĐẠO
Trước tiên phải quán ba cõi để sanh tâm nhàm lìa. Kế gần bạn lành cầu
đường giải thoát. Đối với Sư trưởng, sớm thăm tối viếng luôn gìn lễ độ. Xét kỹ trái
thuận thế nào để biết hầu hạ dưỡng nuôi. Hỏi điều phải làm để biết phụng sự.
Chiêm ngưỡng không lười vì sanh lòng ân cần kính trọng. Luôn luôn lấy sự quyết
liễu tâm yếu làm việc chánh tu. Theo sự hiểu biết trình bày để rõ tà chánh. Nghiệm
theo khí lực để biết sống chín. Thấy bệnh sanh nghi phải dùng thuốc hay điều trị.
Suy nghĩ tột cùng vì cầu chân lý. Ngày đêm chuyên cần, sợ duyên sai sử. Chuyên
tâm một hạnh để thành đạo nghiệp. Vì pháp quên thân là do lòng biết ơn. Như
lòng tin của mình còn yếu kém, ý chí không chuyên, hạnh thô hiểu cạn, phóng
túng theo cơ, chạm việc thì nhân việc sanh tâm, duyên không thì y theo không mà
dứt niệm. Đã chẳng phải bình đẳng quán về động tịnh thì thuận theo sự đắc thất
của có không. Nhưng đạo không có cấp bậc, tùy theo công phu mà có vị thứ .
􀁄
CHƯƠNG II: RĂN Ý KIÊU SA
Cơm áo có ra là do trồng lúa nuôi tằm. Khẩn đất đào mương, luộc nấu ngài
tằm, nấu chín làm ra tổn thương sanh mạng, chúng phải chịu chết để giúp thân ta.
Chỉ sợ đói lạnh, chẳng biết chết là khổ, nỡ giết hại loài khác để cung cấp cho mình.
Ôi, đau đớn thay ! Công người nông phu tích chứa sức lực sâu dầy, đâu riêng gì
loài hàm thức thiệt mạng, cũng còn là của tín thí khó tiêu. Tuy đã xuất gia nào có
đức gì ? Chỉ muốn thọ nhận của tín thí để nuôi thân, đâu biết xét suy đức mình so
với công ấy. Luận Tỳ-ni nói : “ Thọ nhận của tín thí dùng không đúng pháp, buông
lung tâm ý, bỏ phế sự tu đạo nghiệp, sẽ bị đọa vào tam đồ thọ sự khổ nặng”.
Phàm muốn vượt ra ba cõi mà chưa có hạnh tuyệt trần, uổng làm thân nam
tử không có chí trượng phu. Nhưng vì suốt ngày chộn rộn, tối lại hôn mê, đạo đức
chưa tu, cơm áo lãng phí. Trên thì trái đại đạo, dưới thì thiếu lợi sanh, giữa thì phụ
bốn ơn, thật đáng hổ thẹn ! Do đó, người trí phải khá xét suy, thà có pháp mà chết
còn hơn không pháp mà sống, đâu nên luống tự si mê quí thân khinh pháp.
􀁄
CHƯƠNG III: TỊNH TU BA NGHIỆP
Tham, sân, tà kiến thuộc ý nghiệp. Nói hư dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi,
nói hung ác thuộc khẩu nghiệp. Sát sanh, trộm cắp, dâm dục thuộc thân nghiệp.
Phàm người có chí muốn cầu đại đạo, trước tiên cần phải tu ba nghiệp cho
thanh tịnh. Về sau, trong bốn oai nghi lần lượt vào đạo, nhẫn đến khi sáu căn đối
trần tùy duyên liễu đạt, cả hai cảnh trí đều lặng thầm hợp với ý chỉ diệu huyền.
A.- Thế nào là tịnh tu thân nghiệp ?
Tự xét sâu xa trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, kềm thúc ba tội
không cho sơ thất. Từ bi nuôi nấng chẳng hại mạng sống, tất cả loài hàm thức trên
không dưới nước, không kể lớn nhỏ đều thương yêu bảo bọc cho đến loài bò bay
máy cựa cũng không làm tổn hại. Gặp kẻ nguy nan ân cần cứu tế, dùng phương
tiện độ khiến cho giải thoát. Đối với tiền bạc của cải người khác không cho thì
không lấy, nhẫn đến vật của quỷ thần làm chủ, dù là cây kim ngọn cỏ vẫn không
cố phạm. Gặp người ăn xin nghèo khó, tùy theo tiền của mình có, dùng lòng cung
kính bố thí khiến cho họ được an ổn, còn mình không cầu sự báo ơn. Suy nghĩ như
vầy: Chư Phật quá khứ trải vô lượng kiếp, thực hành bố thí cho cả voi ngựa bảy
báu, đầu mắt não tủy nhẫn đến xả bỏ thân mạng, không chút nuối tiếc. Nay ta cũng
vậy, tùy theo khả năng bố thí, hoan hỷ cúng dường, tâm không lẫn tiếc. Đối với nữ
sắc tâm không nhiễm trước. Phàm phu điên đảo bị dục làm say, đam mê phóng
túng, không biết lỗi lầm của sự dâm dục, như vin cành hoa không biết có ẩn rắn
độc. Người trí xem dục như miệng rắn độc, móng vuốt gấu hùm, lửa bùng sắt
nóng cũng chẳng dụ được. Cột đồng giường sắt cháy lưng chín ruột, máu thịt bầy
nhầy, đau thấu tâm tủy. Quán sát như thế chỉ khổ không vui. Túi da đựng phẩn
tích chứa máu mủ, bề ngoài giả dối dồi phấn thoa hương, bên trong một mùi hôi
thúi, dơ bẩn chảy ra làm chỗ nương ở của dòi nhặng, thúi tha đến lỗ cầu xí cũng
không bì kịp. Người trí xét đó, chỉ thấy lông tóc, móng răng, da mỏng da dày, máu
thịt, mồ hôi nước mắt, nước dãi, nước miếng, mủ mỡ, gân mạch não mô, đàm
vàng đàm trắng, gan mật cốt tủy, phổi thận, lá lách, dạ dày, tim, mỡ nước, bàng
quang, ruột già ruột non, sanh tạng thục tạng, các đường tiểu tiện. Những vật như
thế đều không có Ngã, mà do gió thức cổ động hư vọng sanh ra, ngôn ngữ dối trá,
nói làm người bạn thân, kỳ thật oán giận ghét ghen làm cho hư đức chướng đạo,
đó là tội lỗi nặng nhất phải nên xa lìa như tránh giặc oán. Bởi thế, người trí xem đó
tưởng như rắn độc, thà gần rắn độc, chẳng gần nữ sắc. Vì sao ? Rắn độc hại người
chỉ chết một đời, nữ sắc trói buộc trăm ngàn muôn kiếp bị các độc hại khổ đau vô
cùng, phải nên xét nghĩ chớ nên gần gũi.
Vì thế người trí cần phải kiểm điểm ba lỗi, chừa bỏ lỗi lầm, trái ác theo
thiện : chẳng giết chẳng trộm, phóng sanh bố thí, không làm việc dâm dục bẩn thỉu,
thường tu hạnh thanh tịnh. Ngày đêm chuyên cần hành đạo lễ bái, nương về Tam
Bảo, chí cầu giải thoát, đối với thân mạng của cải phải tu ba pháp kiên cố. Biết
thân hư huyễn không có tự tánh, sắc tức là không cái gì là ngã? Tất cả các pháp chỉ
có giả danh không có nhất định. Thân này của ta, bốn đại năm uẩn mỗi mỗi đều
chẳng phải ngã, hợp lại cũng không, vô minh không rõ, chấp lầm là ngã. Sát sanh,
trộm cắp, dâm dục phóng túng, suốt ngày lẫn đêm không ngừng tạo nghiệp. Dù
không chân thực nhưng thiện ác báo ứng vẫn như bóng tùy hình. Lúc quán như thế,
chẳng cầu sự bất chánh để nuôi thân mạng, phải tự quán thân tưởng như rắn độc,
vì để trị bệnh nên nhận bốn sự cúng dường (Bốn sự : y phục, phòng nhà, thức ăn,
thuốc men.) Thân mặc y phục như che ghẻ lở. Miệng ăn thức ngon như bệnh uống
thuốc. Tiết kiệm thân miệng không sanh sự xa hoa thái quá, nghe nói ít muốn rất
thích tu hành. Cho nên Kinh nói : “Bậc đầu-đà ít muốn khéo biết vừa biết đủ,
người ấy có thể vào đạo Hiền Thánh”. Vì sao ? Chúng sanh ở trong đường ác
(Đường ác : địa ngục, ngạ quỷ , súc sanh.) trải vô lượng kiếp thiếu thốn áo cơm,
kêu la thảm thiết, đói lạnh khổ sở, xương da dính nhau. Nay ta tạm thiếu chút đỉnh
chưa phải là khổ. Thế nên người trí quí pháp khinh thân, siêng năng cầu pháp chí
đạo, đến thân mạng cũng chẳng đoái hoài, đây gọi là tịnh tu thân nghiệp.
B.- Thế nào là tịnh tu khẩu nghiệp ?
Tự xét sâu xa bốn lỗi của miệng là căn bản sanh tử, tăng trưởng điều ác, che
lấp muôn hạnh, gây chuyện thị phi. Thế nên, người trí muốn nhổ sạch gốc sanh tử,
dứt trừ hư vọng, phải tu bốn như thật ngữ, đó là các lời ngay thẳng, dịu dàng, hòa
hợp và như thật. Bốn thật ngữ này là hạnh của người trí. Vì sao ? Lời ngay thẳng
hay trừ lời thêu dệt, lời dịu dàng hay trừ lời hung ác, lời hòa hợp hay trừ lời hai
lưỡi, lời như thật hay trừ lời hư dối.
Lời ngay thẳng có hai thứ : Một là nói đúng pháp khiến cho người nghe tin
hiểu rõ ràng. Hai là nói đúng lý khiến cho người nghe trừ hết nghi lầm.
Lời dịu dàng cũng có hai : Một là lời an ủi khiến cho người nghe vui vẻ gần
gũi. Hai là tiếng cung thương thanh nhã khiến cho người nghe yêu thích tu tập.
Lời hòa hợp cũng có hai: Một là sự hòa hợp, nghĩa là thấy người đấu tranh,
can gián khuyên nên xả bỏ, chẳng tự khen mình, trái lại nhún nhường kính vật.
Hai là lý hòa hợp, nghĩa là thấy người thối tâm Bồ-đề ân cần khuyên tấn, khéo léo
phân biệt Bồ-đề phiền não, bình đẳng nhất tướng. Nếu tâm hành giả lui sụt thì
dùng đức độ để vỗ về, siêng năng đến trước người ấy khéo nói về việc mê ngộ.
Lời đúng như thật cũng có hai thứ : Một là sự thật, nghĩa là có thì nói có,
không thì nói không, phải thì nói phải, quấy thì nói quấy. Hai là lý thật, nghĩa là tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh, Niết-bàn Như Lai thường trụ bất biến.
Thế nên người trí thực hành bốn thật ngữ ấy, quán sát chúng sanh nhiều
kiếp đến nay vì bốn lỗi này làm cho điên đảo trôi chìm sanh tử khó được xuất ly.
Nay ta muốn nhổ gốc rễ của nó, quan sát khẩu nghiệp kia do môi răng, tiếng vang
của yết hầu cuống rốn, gió thức kích động phát ra tiếng nói. Do tâm làm nhân
duyên sanh hai thứ hư thật khác nhau, thật thì lợi ích, hư thì tổn mất. Thật là khởi
gốc lành, hư là sanh cội ác. Cội gốc thiện ác là do lời nói nơi cửa miệng, nói lời
thiện là tứ chánh, nói lời ác là tứ tà. Tà thì bị khổ, chánh thì được vui. Thiện là
duyên trợ đạo, ác là gốc hư đạo. Thế nên người chánh phải có tâm hộ trì việc
chánh, dùng lời thật để lập thân, tụng kinh niệm Phật quán sát thật tướng của lời
nói vốn không tồn tại, nói nín bình đẳng. Đấy gọi là tịnh tu khẩu nghiệp.
C.- Thế nào là tịnh tu ý nghiệp ?
Do niệm tà làm nhân duyên hay sanh ra muôn điều ác. Nhờ chánh quán làm
nhân duyên hay khởi lên vạn điều thiện. Cho nên kinh nói : “Ba cõi không có pháp
riêng, chỉ do nhất tâm tạo tác”, nên biết tâm là căn bản của vạn pháp vậy.
Thế nào là tà niệm? Vô minh chẳng rõ chấp lầm là ngã, ngã kiến kiên cố
tham sân tà kiến chấp càn ngoại cảnh sanh ra các thứ đắm nhiễm. Nên kinh nói :
“Nhân vì có ngã bèn có ngã sở. Nhân vì ngã sở khởi ra sáu mươi hai kiến chấp
đoạn thường, (Sáu mươi hai kiến chấp đoạn thường : chấp ngã là sắc, ngã khác sắc,
ngã trong sắc, sắc trong ngã, cho đến thức cũng vậy. 5 ấm x 4 = 20; 20 x 3 đời =
60; 60 + đoạn và thường = 62.) chín mươi tám sử kiến tư (Chín mươi tám sử kiến
tư : 88 Kiến hoặc cộng với 10 tư hoặc thành 98.) tương tục gây nên sanh tử luân
hồi trong ba cõi chẳng thôi”. Phải biết tà niệm là gốc của các điều ác, thế nên
người trí phải chế ngự mà không theo nó.
Thế nào là chánh quán ? Ta người không khác, sắc tâm chẳng hai; Bồ-đề
phiền não bản tánh không khác, sanh tử Niết-bàn bình đẳng nhất chiếu. Do đó,
kinh nói : “Lìa ngã, ngã sở, quán pháp bình đẳng, ngã và Niết-bàn cả hai đều
không”. Phải biết các pháp chỉ có danh tự. Cho nên kinh nói : “Cho đến Niết-bàn
cũng chỉ có danh tự”. Lại nói : “Văn tự tánh ly, danh tự cũng không”. Vì sao ?
Pháp chẳng tự có tên, giả đặt tên để gọi pháp, pháp đã chẳng phải pháp, danh cũng
chẳng phải danh, danh chẳng đúng với pháp, pháp chẳng đúng với danh, danh
pháp không đúng, tất cả không tịch. Cho nên kinh nói : “Pháp không có danh tự vì
ngôn ngữ dứt”. Thế nên diệu tướng thì bặt danh, chân danh thì chẳng phải tự. Vì
sao ? Vô vi tịch diệt vi diệu tột cùng bặt tướng lìa danh, đường tâm ngôn dứt. Phải
biết đó là điểm quan yếu của sự về nguồn chánh quán. Vì thế người trí dùng chánh
quán làm nhân duyên để muôn hoặc (Hoặc : Chỉ cho phiền não) đều trừ, cảnh trí
đều quên, nguồn tâm thanh tịnh. Đấy gọi là tịnh tu ý nghiệp.
Các điều kể trên đây, trong bốn oai nghi lúc sáu căn đối với trần cảnh phải
tùy duyên liễu đạt để theo thứ lớp mà vào đạo vậy.
􀁄
CHƯƠNG IV: BÀI TỤNG VỀ XA-MA-THA (Chỉ)
Khéo khéo lúc dụng tâm,
Khéo khéo không tâm dụng,
Không tâm khéo khéo dụng,
Thường dụng khéo khéo không.
Phàm niệm chẳng quên thì trần chẳng dứt, trần chẳng dứt thì niệm chẳng
quên. Trần quên là do dứt niệm mà quên, niệm dứt là do quên trần mà dứt. Quên
trần mà dứt nên dứt mà không có cái hay dứt (năng tức), dứt niệm mà quên nên
quên mà không có cái bị quên (sở vong). Quên mà không có cái bị quên nên trần
bị khiển trừ chẳng phải là đối tượng bị biết, dứt mà không có cái hay dứt nên niệm
diệt chẳng phải là chủ thể hay biết. Cái biết diệt mất, cái đối tượng cũng bị khiển
trừ thì một bề vắng lặng. Diệu tánh thiên nhiên lặng yên không nương gá, như lửa
đốt hư không thì lửa tự tắt. Hư không dụ cho diệu tánh chẳng phải tướng, lửa tắt
dụ cho vọng niệm chẳng sanh. Có lời rằng :
Quên duyên rồi thì lặng lặng
Tánh linh tri hiện rõ ràng
Vô ký mê mờ tỏ rõ
Hợp chơn vốn không rành rành.
Tỉnh tỉnh lặng lặng phải,
Vô ký lặng lặng sai;
Lặng lặng tỉnh tỉnh phải,
Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.
Nếu lấy cái biết dùng để biết lặng thì đây chẳng phải là cái biết không
duyên, như tay cầm cây như ý, chẳng phải là trên tay không có cây như ý. Nếu lấy
cái tự biết để biết, cũng chẳng phải là cái biết không duyên, như bàn tay nắm lại
chẳng phải là không có nắm tay. Cũng chẳng biết cái biết lặng, cũng chẳng tự biết
cái biết thì không thể nói là không biết, tự tánh hiển nhiên cho nên nói chẳng đồng
gỗ đá, như tay chẳng cầm cây như ý, cũng chẳng nắm lại thành cái nắm tay, nhưng
không thể nói là không có tay. Vì rõ ràng có tay nên chẳng đồng với sừng thỏ.
Lại nữa, thứ tự tu tâm là hễ dùng cái biết để biết vật thì vật còn, cái biết
cũng còn. Nếu dùng cái biết để biết cái biết, biết được cái biết thì lìa được vật, vật
tuy lìa được nhưng cái biết hãy còn. Khởi lên cái biết để biết cái biết, lúc cái biết
sau sanh thì cái biết trước đã diệt. Cả hai cái biết chẳng cùng một lượt, hễ lúc cái
biết trước diệt thì cái chỗ diệt ấy là cảnh của cái biết, nên năng sở đều chẳng phải
chân. Cái biết trước diệt, cái diệt ấy dẫn theo cái biết sau, cái biết sau ấy lại tiếp
tục diệt, sanh diệt nối nhau tự đó là nẻo luân hồi.
Nay nói biết đó, là chẳng cần biết cái biết, nhưng chỉ cần biết để biết mà
thôi thì cái biết trước chẳng tiếp tục diệt, cái biết sau chẳng dẫn khởi, trước sau đứt
đoạn, khoảng giữa tự bị cô lập. Đương thể chẳng nhớ đến, đúng lúc liền tiêu diệt,
biết thể đã diệt rồi thì rỗng rang như nắm bắt hư không, phút chốc vắng lặng chỉ có
cái giác vô sở đắc tức là không giác mà giác, giác mà không giác, khác hẳn gỗ đá.
Đây là chỗ bắt đầu dụng tâm cần phải dứt bặt tư lự, chợt đồng như người chết,
năng sở liền quên, mảy may đều sạch. Vắng lặng tợ không biết mà biết, tánh của
cái không biết ấy khác với gỗ đá. Đây là chỗ người sơ tâm khó lãnh hội được.
Người mới phát tâm chẳng nên có ba thứ :
1) Ác, nghĩa là nghĩ tưởng đến các nhân duyên như ngũ dục thế gian v.v…
2) Thiện, nghĩa là nghĩ tưởng đến các việc tạp thiện thế gian v.v…
3) Vô ký, nghĩa là chẳng nghĩ đến thiện ác, lại rơi vào hôn trầm.
Trong Giới cần phải đủ ba thứ :
1) Nhiếp luật nghi giới, nghĩa là dứt tất cả các điều ác.
2) Nhiếp thiện pháp giới, nghĩa là tu tất cả các điều thiện.
3) Nhiêu ích hữu tình giới, nghĩa là thệ độ tất cả chúng sanh.
Trong Định cần phải phân biệt ba thứ :
1) An trụ định, nghĩa là diệu tánh thiên nhiên vốn chẳng phải động.
2) Dẫn khởi định, nghĩa là lóng lòng dứt vọng trí tuệ phát sáng.
3) Biện sự định, nghĩa là nước định lóng trong soi tỏ muôn tượng.
Trong Tuệ cũng cần phải phân biệt ba thứ :
1) Nhân không tuệ, nghĩa là rõ năm ấm chẳng phải ngã tức là trong mỗi ấm
không có ngã như lông rùa sừng thỏ (Lông rùa sừng thỏ ý nói là việc hoàn toàn
không có.).
2) Pháp không tuệ, nghĩa là rõ các pháp như ấm v.v… duyên giả chẳng phải
thật, như bóng trong gương như trăng đáy nước.
3) Không không tuệ, nghĩa là rõ cảnh và trí đều không, cái không ấy cũng
không.
Trong Kiến cần phải biết ba thứ :
1) Không kiến, nghĩa là thấy không mà cái thấy chẳng phải không.
2) Bất không kiến, nghĩa là thấy chẳng không mà cái thấy chẳng phải chẳng
không.
3) Tánh không kiến, nghĩa là thấy tự tánh mà cái thấy chẳng phải tánh.
Trong Thiên cần phải lựa ra ba thứ :
1) Có pháp thân, không có Bát-nhã và giải thoát.
2) Có Bát-nhã, không có giải thoát và pháp thân.
3) Có giải thoát, không có pháp thân và Bát-nhã.
Có một thiếu hai là chẳng viên, chẳng viên nên chẳng phải tánh.
Lại nữa trong Thiên cần phải lựa ra ba thứ :
1) Có pháp thân và Bát-nhã, không có giải thoát.
2) Có Bát-nhã và giải thoát, không có pháp thân.
3) Có giải thoát và pháp thân, không có Bát-nhã.
Có hai thiếu một là chẳng viên, chẳng viên nên chẳng phải tánh.
Trong Viên cần phải có đủ ba thứ :
1) Pháp thân chẳng si tức Bát-nhã. Bát-nhã không chấp tức giải thoát. Giải
thoát tịch diệt tức pháp thân.
2) Bát-nhã không chấp tức giải thoát. Giải thoát tịch diệt tức pháp thân.
Pháp thân chẳng si tức Bát-nhã.
3) Giải thoát tịch diệt tức pháp thân. Pháp thân chẳng si tức Bát-nhã. Bátnhã
không chấp tức giải thoát.
Nêu lên một, tức đủ cả ba; nói ba thể tức là một. Đây là ba đức trong nhân
chẳng phải ba đức trên quả. Muốn biết ba đức trên quả : Pháp thân có đoạn đức, do
vì dứt hoặc để bày đức, nên gọi là đoạn đức. Tự thọ dụng thân có trí đức, vì đầy đủ
công đức chân thật của bốn trí (Bốn trí : Thành sở tác trí, Diệu quan sát trí, Bình
đẳng tánh trí, Đại viên cảnh trí.). Tha thọ dụng thân và hóa thân có đại ân đức vì
tha thọ dụng thân ban ân đức cho hàng Thập địa Bồ-tát, vì ba thứ hóa thân đối với
các hàng Bồ-tát, Nhị thừa và loài dị sanh có ân đức.
Ba đế (Ba đế : chân đế, tục đế và đệ nhất nghĩa đế.), bốn trí, ngoại trừ thành
sở tác trí duyên tục đế. Nhưng pháp không có cạn sâu mà chiếu thì có sáng tối, tâm
không phải nhơ sạch mà giải thì có mê ngộ… Kẻ sơ tâm mê đâu chẳng phải cạn,
cuối cùng khế ngộ viên lý mới biết đâu chẳng phải sâu. Mê thì mất lý mà tự sai,
ngộ thì hết sai mà tức lý. Mê ngộ thì đồng lý ấy cho nên mới có danh từ tiệm thứ.
Lại nữa người mới tu tâm sau khi nhập môn cần phải biết năm niệm :
1 – Cố khởi.
2 – Quán tập.
3 – Tiếp tục.
4 – Biệt sanh.
5 – Tức tịnh.
Niệm cố khởi, nghĩa là khởi tâm nghĩ đến ngũ dục thế gian và các việc tạp
thiện.
Niệm quán tập, nghĩa là vô tâm cố nhớ, chợt nghĩ, nghĩ đến các việc thiện
ác v.v…
Niệm tiếp tục, nghĩa là tập quán chợt khởi, biết tâm dong ruổi tán loạn mà
chẳng chế ngự cho nó dừng lại, trái lại còn tiếp tục nghĩ tưởng theo niệm trước.
Niệm biệt sanh, nghĩa là biết niệm trước là tán loạn liền sanh tâm hổ thẹn
cải hối.
Niệm tức tịnh, nghĩa là lúc mới ngồi chẳng nghĩ đến các việc thiện ác, vô
ký thế gian. Dụng công ngay chỗ này nên nói là tức tịnh.
Người sơ tâm phần nhiều có một niệm quán tập. Người giãi đãi có hai niệm
tiếp tục và cố khởi. Người hay hổ thẹn phần nhiều có một niệm biệt sanh. Người
tinh tấn thường có một niệm tức tịnh. Bốn niệm quán tập, tiếp tục, cố khởi và biệt
sanh là bệnh. Một niệm tức tịnh là thuốc. Tuy thuốc và bệnh có khác nhưng đều
gọi chung là niệm. Lúc năm niệm này ngừng dứt gọi là nhất niệm tương ưng. Nhất
niệm nghĩa là tự tánh linh tri. Nhưng năm niệm ấy là chi nhánh của nhất niệm,
nhất niệm là căn bản của năm niệm ấy.
Lại nữa, nếu lúc nhất niệm tương ưng, cần phải biết sáu khoa liệu giản :
1 – Biết bệnh
2 – Biết thuốc
3 – Biết đối trị
4 – Biết lỗi sanh
5 – Biết thị phi
6 – Biết chánh trợ
1 - Bệnh có hai thứ : Một là duyên lự, hai là vô ký. Duyên lự là hai niệm
thiện ác, tuy khác nhau nhưng đều chẳng phải giải thoát nên đều gọi chung là
duyên lự. Vô ký là tuy chẳng duyên các việc thiện ác v.v… nhưng cũng chẳng
phải chân tâm chỉ là hôn trầm. Hai thứ này đều là bệnh.
2 - Thuốc cũng có hai : Một là lặng lặng, hai là tỉnh tỉnh. Lặng lặng là
chẳng nghĩ đến các việc thiện ác v.v.. của ngoại cảnh. Tỉnh tỉnh là chẳng sanh các
tướng hôn trầm vô ký. Hai thứ này gọi là thuốc.
3 - Đối trị, nghĩa là dùng lặng lặng trị duyên lự, dùng tỉnh tỉnh trừ hôn trầm.
Dùng hai thứ thuốc này để trị hai chứng bệnh kia cho nên gọi là đối trị.
4 - Lỗi sanh, nghĩa là lặng lặng lâu thì sanh hôn trầm, tỉnh tỉnh lâu thì sanh
duyên lự, nhân vì thuốc mà sanh bệnh nên nói là lỗi sanh.
5 - Biết thị phi, nghĩa là lặng lặng mà chẳng tỉnh tỉnh thì sẽ hôn trầm, tỉnh
tỉnh mà chẳng lặng lặng thì sẽ duyên lự. Chẳng tỉnh tỉnh, chẳng lặng lặng thì
chẳng những duyên lự mà còn hôn trầm. Vừa lặng lặng vừa tỉnh tỉnh, chẳng những
sáng suốt mà còn yên lặng, đó là trở về nguồn diệu tánh vậy. Trong bốn câu này,
ba câu trước là phi (sai), một câu chót là thị (phải) cho nên nói là biết thị phi.
6 - Chánh trợ, nghĩa là dùng tỉnh tỉnh làm chánh, lặng lặng làm trợ. Hai
việc này thể không rời nhau giống như người bệnh nhờ gậy mà đi được, lấy sự đi
là chánh, lấy cây gậy làm trợ. Phàm người bệnh muốn đi, trước tiên cần phải cầm
gậy rồi sau mới đi được. Người tu tâm cũng vậy, đầu tiên cần phải dứt duyên lự
khiến tâm lặng lặng, kế đó phải tỉnh tỉnh chẳng để hôn trầm khiến tâm sáng suốt,
sáng suốt mà vắng lặng, hai tên đồng thời một thể. Ví như người bệnh muốn đi,
thiếu gậy không thể đi được, lúc đang đi nhờ gậy mới đi được. Người dụng công
tu cũng vậy, sáng suốt và lặng lẽ chẳng được khác thời, tuy có hai tên mà thể của
chúng không khác. Lại nói : Loạn tưởng là bệnh, vô ký cũng là bệnh. Lặng lặng là
thuốc, tỉnh tỉnh cũng là thuốc. Lặng lặng phá loạn tưởng, tỉnh tỉnh trị vô ký. Lặng
lặng sanh vô ký, tỉnh tỉnh sanh loạn tưởng. Lặng lặng tuy có thể trị loạn tưởng mà
lại sanh vô ký, tỉnh tỉnh tuy có thể trừ vô ký mà lại khởi loạn tưởng. Do đó nói :
Tỉnh tỉnh lặng lặng phải,
Vô ký lặng lặng sai;
Lặng lặng tỉnh tỉnh phải,
Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.
Lặng lặng là trợ, tỉnh tỉnh là chánh. Hãy suy nghĩ kỹ!
Lại nữa, sau khoa liệu giản cần phải biết rõ năm ấm trong nhất niệm. Nghĩa
là dùng thức tương ưng phân biệt rõ ràng gọi là thức ấm, lãnh nạp tại tâm tức là
thọ ấm, tâm duyên lý này tức là tưởng ấm, hành dụng lý này tức là hành ấm, ô uế
chân tánh tức là sắc ấm. Năm ấm này luận về thể tức là nhất niệm, nhất niệm này
nói về thể thì toàn là năm ấm. Thấy rõ ràng trong nhất niệm này không có chủ tể
tức là nhân không tuệ, thấy như huyễn như hóa tức là pháp không tuệ. Thế nên cần
phải biết năm niệm và sáu khoa liệu giản này xin chớ nghi ngờ. Như muốn lấy
vàng thật, phải biết rõ cái nào là gạch ngói và vàng giả, chỉ cần lựa bỏ riêng ra hết,
dầu không biết vàng thật, vàng thật cũng tự hiện ra lo gì chẳng được.
􀁄
CHƯƠNG V: BÀI TỤNG VỀ TỲ-BÀ-XÁ-NA (Quán)
Phàm chẳng phải trí thì chẳng biết cảnh, nếu chẳng có cảnh thì trí chẳng
sanh. Trí sanh là biết cảnh mà sanh, biết cảnh là do trí sanh mà biết. Trí sanh mà
biết thì biết không có cái bị biết (sở liễu). Biết cảnh mà sanh nên sanh không có
cái hay sanh (năng sanh). Sanh không có cái hay sanh, tuy trí mà chẳng phải có.
Biết mà không có cái bị biết, tuy cảnh mà chẳng phải không. Không tức chẳng
không, có tức chẳng có, có không đều chiếu cả hai thì diệu ngộ hiển nhiên. Như
lửa được củi càng thêm cháy mạnh, củi dụ như cảnh để phát sanh trí, lửa dụ cho
diệu trí biết cảnh. Có lời rằng:
Đạt tánh không, chẳng trói buộc
Tuy duyên giả, không đắm trước
Hai cảnh có không đồng soi
Một tâm trung quán siêu vượt.
Nếu trí biết nơi cảnh tức là trí biết cảnh không, như mắt thấy hoa không là
mắt biết hoa không. Nếu trí biết nơi trí, tức là trí biết trí không, như mắt thấy con
mắt không là mắt biết mắt không. Trí tuy biết cảnh không và biết trí không, nhưng
chẳng phải không trí biết cảnh. Cảnh không trí vẫn có. Trí biết cảnh không và trí
không, nên không có cảnh nào trí chẳng biết, như con mắt biết hoa không và biết
mắt không, nhưng chẳng phải không biết có mắt thấy hoa. Hoa không mắt vẫn có.
Mắt biết hoa không và mắt không nên có hoa nào mà mắt chẳng biết.
Lại nữa, tất cả các pháp đều là nhân duyên giả dối, vì nhân duyên sanh nên
đều không tự tánh. Một pháp đã vậy, muôn pháp cũng vậy. Cảnh trí theo nhau thì
đâu chẳng lặng. Vì sao ? Vì pháp nhân duyên tánh không sai biệt. Nay đây ba cõi
luân hồi, sáu đường lên xuống, tịnh uế khổ lạc, phàm thánh sai khác đều do ba
nghiệp, bốn nghi (Bốn nghi là đi, đứng, nằm, ngồi.) sáu căn đối cảnh. Theo tình
tạo nghiệp, quả báo chẳng đồng, thiện thì hưởng lạc, ác thì thọ khổ. Cho nên kinh
nói : “ Thiện ác là nhân, khổ lạc là quả ”. Phải biết pháp không có tướng nhất định,
tùy duyên tập hợp cấu thành, duyên chẳng phải là có ngã, cho nên gọi là tánh
không. Không nên chẳng phải khác, do đó muôn pháp đều Như. Vì thế kinh nói :
“Sắc tức là không, bốn ấm kia cũng vậy”. Như vậy, đâu riêng gì loài phàm tục có
duyên sanh, mà hàng tam thừa thánh quả cũng từ duyên có. Thế nên kinh nói :
“Phật chủng từ duyên khởi”. Do đó muôn cơ tụ hợp, người đạt thì không đâu
chẳng phải đạo tràng; sắc tượng vô biên, người ngộ rồi thì không có gì chẳng phải
Bát-nhã. Cho nên kinh nói : “ Vì sắc vô biên nên biết Bát-nhã cũng vô biên”. Vì
sao ? Vì cảnh chẳng phải trí thì chẳng biết, trí chẳng phải cảnh thì chẳng sanh. Trí
sanh thì biết cảnh mà sanh, biết cảnh thì trí sanh mà biết. Trí sanh mà biết, biết
không có cái bị biết (sở liễu). Biết cảnh mà sanh, sanh không có cái hay sanh
(năng sanh). Sanh không có cái hay sanh thì nội trí lặng lặng. Biết không có cái bị
biết thì ngoại cảnh như như. Như và lặng không sai khác thì cảnh và trí hợp nhất,
muôn lụy đều hết, diệu chỉ hãy còn. Cho nên kinh nói : “Bát-nhã không biết mà
không cái gì chẳng biết”. Như vậy diệu chỉ chẳng phải biết, không biết mà biết vậy.
􀁄
CHƯƠNG VI: BÀI TỤNG VỀ ƯU-TẤT-XOA (Thiền)
Phàm định loạn đôi đường nhưng nguồn động tịnh không hai, ngu tuệ trái
nẻo mà gốc sáng tối chẳng khác. Bọn mê theo tối phản sáng, bỏ tịnh cầu động.
Người ngộ phản động theo tịnh, bỏ tối cầu sáng. Sáng sanh thì chuyển ngu thành
tuệ, tịnh lập thì dứt loạn thành định. Định lập là do phản động, tuệ sanh là do bỏ
tối. Tối và động liên hệ trong lồng phiền não, tịnh và sáng hướng về nơi vật biểu
lộ. Vật không thể làm ngu là do công của tuệ, phiền não không thể làm loạn là do
công của định. Định tuệ lại giúp cho sự lặng yên sáng suốt, ngu loạn buộc nhau ở
chốn tối tăm, diêu động. Động mà hay tịnh tức là loạn mà định; tối mà hay sáng
tức là ngu mà tuệ vậy. Như thế, gốc của tối và động không khác, sáng và tịnh do
đây hợp đạo. Nguồn của ngu và loạn chẳng khác, định và tuệ do đó đồng tông.
Tông đồng thì vô duyên từ, định tuệ thì tịch mà thường chiếu. Tịch mà thường
chiếu thì song dữ (cả hai đều cho), vô duyên từ thì song đoạt (cả hai đều cướp).
Song đoạt thì Ưu-tất-xoa (thiền), song dữ thì Tỳ-bà (quán) và Xa-ma (chỉ). Vì Xama-
tha (chỉ) tuy tịch mà thường chiếu, vì Tỳ-bà-xá-na (quán) tuy chiếu mà thường
tịch, vì Ưu-tất-xoa (thiền) chẳng phải chiếu chẳng phải tịch. Vì chiếu mà thường
tịch nên nói tục mà tức chân, vì tịch mà thường chiếu nên nói chân mà tức tục,
chẳng phải tịch chẳng phải chiếu nên ngậm miệng ở Tỳ-da (Trong kinh Duy-ma,
khi ngài Duy-ma-cật được hỏi về pháp môn bất nhị, ngài im lặng.).
Lại nữa còn có mười môn quán tâm :
1 – Nói về pháp nhĩ
2 – Nêu ra quán thể
3 – Nói về sự tương ưng
4 – Cảnh tỉnh sự thượng mạn
5 – Răn sự biếng lười, xao lãng
6 – Nêu lại quán thể
7 - Nói về thị phi
8 – Chọn lựa thuyên chỉ
9 – Chạm cảnh thành quán
10 – Khéo hợp với nguồn huyền.
1 – Nói về pháp nhĩ : Luận về tâm tánh thì rỗng rang thông suốt, nguồn
động tịnh không hai, chân như tuyệt lự cùng niệm duyên chấp trước cũng chẳng
khác. Hoặc kiến lăng xăng, cùng tột chỉ là nhất tịch. Nguồn linh không hình soi
vào thì có thiên sai (ngàn thứ sai khác). Thiên sai chẳng đồng nên tự lập ra cái tên
Pháp nhãn. Nhất tịch không khác nên cái hiệu tuệ nhãn vẫn còn. Cả hai lý và
lượng đều tiêu thì công năng Phật nhãn tròn đủ. Vì vậy tam đế nhất cảnh nên lý
Pháp thân hằng thanh tịnh. Tam trí nhất tâm nên ánh Bát-nhã thường soi chiếu.
Cảnh trí thầm hợp nên giải thoát tùy cơ, chẳng phải dọc chẳng phải ngang mà đạo
tròn đủ như chữ y (...) gặp gỡ nhau một cách nhiệm mầu. Cho nên biết diệu tánh
của tam đức (Tam đức : Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát.) rõ ràng không trái, nhất
tâm sâu rộng khó lường đâu có cái gì chẳng phải là đường giải thoát. Do đó, tức
tâm là đạo, có thể nói là lần theo dòng mà đến được nguồn vậy.
2 – Nêu ra quán thể : Chỉ cần biết nhất tâm tức không mà chẳng không,
chẳng không mà chẳng phải chẳng không.
3 – Nói về sự tương ưng : Tâm cùng với không tương ưng thì khen chê đâu
có mừng lo. Thân cùng với không tương ưng thì dao cắt hay hương xoa cũng đâu
có khổ sướng. Y báo cùng với không tương ưng thì thí cho hay cướp đoạt cũng
đâu có được mất.
Tâm cùng không mà chẳng không tương ưng thì ái kiến đều quên, từ bi cứu
khắp tất cả. Thân cùng không mà chẳng không tương ưng thì bên trong đồng với
cây khô, bên ngoài hiện đủ oai nghi. Y báo cùng không mà chẳng không tương
ưng thì vĩnh viễn dứt sự tham cầu mà đem tiền của giúp người.
Tâm cùng không mà chẳng không, chẳng không mà chẳng phải chẳng
không tương ưng thì thật tướng mới tỏ, mở tri kiến Phật. Thân cùng không mà
chẳng không, chẳng không mà chẳng phải chẳng không tương ưng thì một trần
nhập chánh thọ, các trần tam-muội khởi. Y báo cùng không mà chẳng không,
chẳng không mà chẳng phải chẳng không tương ưng thì hóa sanh đài hương, lầu
báu, cõi nước trang nghiêm.
4 – Cảnh tỉnh sự thượng mạn : Nếu chưa được như trên thì chưa tương ưng.
5 – Răn sự biếng lười xao lãng : Như qua biển cần phải lên thuyền không
nhờ thuyền thì làm sao qua được. Tu tâm cần phải nhập quán, chẳng có quán thì
lấy gì để minh tâm. Tâm còn chưa minh thì ngày nào tương ưng. Hãy nên suy xét
kỹ, chớ nên tự thị.
6 – Nêu lại quán thể : Chỉ biết nhất niệm tức không bất không, phi hữu phi
vô, chẳng biết tức niệm, tức không bất không, phi-phi-hữu phi-phi-vô.
7 – Nói về thị phi : Tâm chẳng phải hữu, tâm chẳng phải vô, tâm chẳng
phải phi hữu, tâm chẳng phải phi vô. Là hữu là vô tức là sa vào thị; phi hữu phi vô
tức là rơi vào phi. Như vậy, chỉ là cái phi (sai) của thị và phi, chưa phải là cái thị
(phải) của phi thị và phi phi. Nay dùng hai cái phi để phá hai cái thị, thị phá phi thị
vẫn còn là phi. Lại dùng hai cái phi để phá hai cái phi, phi phá phi phi tức là thị.
Như vậy, chỉ là cái thị của phi thị và phi phi, chưa phải là bất phi bất bất phi, bất
thị bất bất thị. Cái lầm về thị phi nhỏ nhiệm rất khó thấy, phải để tinh thần sáng
suốt, tư lự lặng yên hầu nghiên cứu kỹ lưỡng.
8 – Chọn lựa thuyên chỉ (Thuyên tức là năng thuyên, Chỉ tức là sở thuyên.):
Nhưng mà chí lý thì không lời, mượn văn ngôn để nói về ý chỉ của lý. Ý chỉ và
tông thú chẳng phải là quán, nhờ tu quán để hội được tông thú. Nếu ý chỉ chưa
minh thì lời chưa đúng; nếu tông thú chưa hội thì quán chưa sâu. Quán sâu mới
hội được tông thú, lời đúng mới rõ được ý chỉ. Ý chỉ và tông thú đã hiểu rõ rồi thì
lời nói và quán đâu còn tồn tại nữa.
9 – Chạm cảnh thành quán : Phàm diễn lại ngôn từ, nêu lại quán thể là
muốn nói về tông thú và ý chỉ không khác. Lời nói và quán tùy nơi mà dời đổi.
Đổi lời thì ngôn và lý không sai, đổi quán thì quán và ý chỉ không khác. Ý chỉ
không khác tức là lý, lý không sai tức là tông. Tông thú và ý chỉ là một nhưng hai
tên, mà lời nói và quán là phương tiện dẫn dắt.
10 – Khéo hợp với nguồn huyền : Phàm người ngộ tâm đâu chấp quán mà
mê ý chỉ, người đạt giáo há trệ lời mà lầm lý. Lý tỏ thì đường ngôn ngữ dứt, lời
nào có thể nói bàn. Ý chỉ hội thì chỗ tâm hành diệt, quán nào có thể nghĩ ngợi.
Tâm ngôn chẳng thể nghĩ bàn, thật đáng là “diệu khế hoàn trung” vậy.
􀁄
CHƯƠNG VII: CẤP BẬC LẦN LƯỢT CỦA
BA THỪA
Phàm đại đạo mầu nhiệm thì vi tế sâu xa, lý bặt sự biểu hiện của danh
tướng. Chí chân rỗng rang vắng lặng, lượng vượt ra ngoài các số, mà có thể khởi
lòng từ vô duyên tùy cơ cảm ứng. Chỉ thú bất nhị tùy theo căn tánh để phân chia.
Thuận vật quên mình nên làm mà không làm, suốt ngày dạy bảo mà chẳng khác gì
không nói, lập giáo nhiều đường mà chẳng trái một đạo. Vì vậy, Đại thánh từ bi
ứng cơ lợi vật, gom về chỗ sâu kín thì muôn kinh chẳng khác. Hàng trung hạ quán
tứ đế, thập nhị nhân duyên mà tự thành Tiểu, bậc cao thượng tu lục độ mà thành
Đại.
Do đó, hạng ngu mê không thể tự hiểu, hoặc nhân nghe nói mà ngộ giải nên hiệu
là Thanh văn, nguyên vì chỗ tu lấy tứ đế làm bản hạnh. Quán vô thường mà sanh
sợ, nghĩ không tịch để cầu an, sợ luân hồi trong lục đạo, ghét sanh tử của tam giới.
Thấy khổ thường ôm lòng chán lìa, dứt tập hằng sợ nó sanh, chứng diệt riêng khế
hợp với vô vi, tu đạo chỉ luận đến tự độ. Tâm đại thệ chưa khắp, đạo nhiếp hóa
không thực hành. Lục hòa kính (Lục hòa kính: 1. Đồng giới hòa kính 2. Đồng kiến
hòa kính 3. Đồng hạnh hòa kính 4. Thân từ hòa kính 5. Khẩu từ hòa kính 6. Ý từ
hòa kính) rỗng không, lòng thương ba cõi chẳng vận dụng, nhân trái vạn hạnh, quả
thiếu viên thường, lục độ chưa tu, chẳng phải Tiểu thừa thì là gì ? Đó là đạo Thanh
văn vậy.
Hoặc có người chẳng nhân người khác nói mà tự ngộ vô thường, ngẫu
nhiên duyên tán mà thể hội được chân lý nên gọi đó là Duyên giác. Nguyên chỗ tu
tập của các Ngài lấy thập nhị nhân duyên làm bản hạnh. Quán vô minh tức mà
không, đạt các hành mà vô tác. Hai nhân (Hai nhân : vô minh và hành) đã chẳng
phải nghiệp thì năm quả (Năm quả : thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ.) đâu còn
báo. Ái thủ hữu không còn tỳ vết thì lão tử cũng đâu còn ràng buộc, nên có thể tức
thì một mình giải thoát. Ở yên chỗ vắng vẻ yên lặng quán vạn vật biến hóa mà ngộ
lý vô thường, thấy thu tàn mà vào chân đạo. Bốn oai nghi nghiêm nghị, nhiếp tâm
lự để an vui, tánh thích ở một mình, ưa nghĩ ngơi nơi rừng vắng. Chẳng ưa thuyết
pháp, chỉ hiện sức thần thông để hóa độ người. Vào lúc không có Phật xuất thế,
các Ngài làm ngọn lửa tiếp nối Phật đăng. Thân chỉ ưa vắng lặng, ý thích trong
sạch rỗng rang, ở một mình trên đỉnh núi hoang liêu quán các duyên tan mất.
Chẳng làm lợi ích khắp cho mọi người, tự lợi cũng chưa viên mãn. Đối với bậc hạ
thì có phần hơn, còn so với bậc thượng thì chưa đủ, cả hai đều chẳng phải phẩm
loại của các Ngài, mà địa vị ở Trung thừa, đấy là đạo Bích Chi Phật vậy.
Như người căn tánh vốn sáng, công đức chứa nhóm nhiều đời, học chẳng
bác thiệp mà vẫn tự sanh được sự hiểu biết. Tâm không duyên bất cứ chỗ nào mà
hay lợi vật; từ bi rất lớn, chẳng bị ái kiến câu thúc, suốt ngày cứu độ chúng sanh
chẳng thấy có chúng sanh được độ. Nhất và dị đều đồng diệu chỉ, giải và hoặc
đồng nguyên, nhân và pháp đều không, cho nên gọi là Bồ-tát. Nguyên vì hạnh tu
của các ngài lấy lục độ làm chánh nhân. Thực hành bố thí thì bỏ thân hết của; trì
giới thì kiết-la (giới nhỏ) cũng không phạm; nhẫn nhục thì thấu rõ vô ngã, cắt thân
nào hại gì, an nhẫn sự khen chê bát phong chẳng động; tinh tấn thì siêng năng cầu
pháp chí đạo như cứu lửa cháy đầu, sự tu hành và giáo hóa người trong khoảng
sát-na cũng không gián đoạn; thiền-na thì thân tâm yên lặng, an ban (An ban :
Pháp sổ tức) vi tế, ở trong tịch định để tự nuôi thân, dùng bốn oai nghi để lợi vật;
trí tuệ thì rõ biết duyên khởi tự tánh vô sanh, muôn pháp đều Như, nguồn tâm
vắng lặng. Tuy biết phiền não không thể xả bỏ, Bồ-đề không thể nắm lấy mà có
thể chẳng chứng vô vi, độ chúng sanh trong nhiều kiếp, rộng tu vạn hạnh, bình
đẳng quan sát các loài, dưới đến tứ đế, thập nhị nhân duyên, trên gồm cả pháp bất
cộng. Tâm đại thệ trùm khắp, đạo tứ nhiếp gồm thâu, lấy ba cõi làm nhà, bốn loài
sanh làm con. Vận dụng hai thứ bi trí, hai thứ phước tuệ trang nghiêm siêu việt
Nhị thừa, riêng ở bậc thượng, đó là đạo Đại thừa vậy.
Vì vậy, lý nhất chân theo căn tánh mà có thứ bậc sai khác, như được sự lợi
ích tùy cơ nên nói đủ cả ba thừa. Nhưng mà chí lý hư huyền cùng tận đến chỗ vi
diệu thì một còn chẳng có, huống là nói đến ba. Ba mà chẳng ba nên nói là ba, một
mà chẳng một nên nói là một. Chẳng phải ba mà một, ba còn chẳng ba thì một mà
ba, một cũng đâu có một. Một chẳng một tự chẳng phải ba, ba chẳng ba tự chẳng
phải một. Chẳng phải một, một chẳng phải thì ba không còn. Chẳng phải ba, ba
chẳng phải thì một chẳng lập. Một chẳng lập vốn chẳng phải ba, ba không còn vốn
không có một. Một ba vốn không, cái không này cũng không, cái không không đó
không có gốc nên diệu tuyệt. Như vậy thì một đâu bị phân, ba đâu được hợp, hợp
phân là từ nơi người vậy, lý nào có khác với lời ư ! Ví như có ba con thú qua sông,
con sông vốn một, đâu có vì ba con thú mà hợp. Lại đâu riêng gì con sông chẳng
phải vì thú mà hợp, mà thú cũng chẳng phải do sông mà phân. Sông còn chẳng
thành ba con sông, đâu được lấy sông để hợp ba con thú. Thú còn chẳng thành một
con thú, há được lấy thú mà thành sông. Sông chẳng phải thú nên đâu thể ba, thú
chẳng phải sông nên đâu thể một. Chỉ một con sông bao cả ba con thú mà sông
chưa từng ba, ba con thú qua một con sông mà thú chưa từng một. Thú chẳng phải
một con để biết chân của chúng có ngắn dài, sông chẳng phải ba để rõ nước kia
không có sâu cạn. Nước không có sâu cạn ví như pháp không có sai khác, chân có
dài ngắn là dụ cho trí của mỗi bậc có sáng tối khác nhau. Như vậy pháp vốn không
có ba mà người tự có ba hạng vậy.
Nay đây điểm khởi đầu của ba thừa thì tứ đế được nêu lên trước hết. Pháp
vốn đã không có sai khác, thì tứ đế cũng đâu chẳng phải đại, mà nói rằng hàng
Thanh văn quán nó địa vị lại ở bậc tiểu. Thế mới biết tứ đế tợ như sông, người ví
như thú. Hàng Thanh văn kém nhất dụ như thỏ tuy lội qua sông mà chân không
đến đáy, nên chưa có thể biết được chỗ sâu tột, địa vị các Ngài còn ở bậc thấp, đâu
phải tất cả những người quán tứ đế đều thành tiểu. Như người trí chiếu cao minh,
lượng bằng voi lớn thì có thể đến cùng nguồn tận mé, hiển nhiên thành đại, cho
nên biết kẻ hạ trí quán thì được quả Thanh văn, người trung trí quán thì được quả
Duyên giác, bậc thượng trí quán thì được quả Bồ-tát. Biết tông rõ ràng há cho toan
tính ư !
Vì thế Thanh văn thấy khổ mà dứt tập, Duyên giác ngộ tập tan rã mà quán
ly, Bồ-tát thấu rõ nguồn chân biết tập vốn không hòa hợp. Ba người cùng quán tứ
đế nhưng chứng quả có khác nhau, bởi do quán có cạn sâu, đối chiếu hẳn có cao
thấp. Vì vậy, hạ thừa tu bậc hạ, chưa tu điều của bậc trung và thượng, Thượng
thừa tu bậc thượng mà gồm tu cả trung hạ. Bậc trung tu trung hạ, chẳng tu được
bậc thượng. Thượng trung hạ do người, chẳng phải tứ đế khiến người có đại, tiểu.
Nhưng ba thừa dù khác mà cùng đồng một điểm trọng yếu là thoát khổ. Thanh văn
tuy tiểu, hoặc ái kiến đã trừ nên đối với ba cõi không còn lo âu, thân phần đoạn
diệt vậy. Ba minh (Ba minh : Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh.)
chiếu sáng tỏ tường nên việc trong tám vạn kiếp hiện tiền, sáu thông (Sáu thông :
Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông, thần túc thông,
lậu tận thông.) mặc ý vô vi nên có thể đi xuyên qua vách núi. Có lúc đi đứng trên
không hoặc an nhiên ngồi nằm, đi trên nước nhẹ như lông hồng, bước trên đất như
đi trên nước, công năng cửu định đầy đủ, mười tám thứ biến hóa tùy tâm. Nhưng
trong ba tạng nói Phật là nhìn trên địa vị sáu căn thanh tịnh, nên có bằng có kém,
chỗ bằng là cùng trừ tứ trụ, (Tứ trụ : Kiến nhất thiết trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái
trụ địa, Hữu ái trụ địa.) nếu hàng phục vô minh, ba tạng là kém, Phật còn là kém,
Nhị thừa khá biết. Nhìn lên đoạn và phục tuy khác, ở dưới có sự cách biệt ngộ và
mê. Như vậy, Nhị thừa có lỗi gì mà chẳng muốn tu ! Đức Như Lai vì đối với hàng
đại căn muốn dẫn họ về bảo sở khiến tu chủng trí đồng khế hợp với chữ y (...) viên
mãn, đương thời hoặc có khen hay chê, đề cao hay hạ thấp. Hạng phàm phu chẳng
biết, rồi lại sợ bị quở, nhưng họ đâu biết mình ái kiến hãy còn nên còn cách hàng
Nhị thừa xa lắm. Tuy cũng nói đến tu đạo nhưng các hoặc sử chưa bỏ, chẳng
những thân và miệng chưa đoan chánh cũng là do tâm siểm khúc. Kiến sanh từ nơi
ý nên giải trái với chân thuyên, chẳng y theo Thánh giáo, chưa từng học hỏi bậc
minh sư. Căn duyên chẳng phải chỉ huân tập từ đời trước, kiến giải chưa dự vào
hàng sanh tri, mà có khả năng thế trí biện thông đàm luận suốt ngày, có lúc lấy lời
trong kinh bẻ cong theo cái hiểu của mình, luông tuồng nói bậy để dối kẻ ngu, bài
bác nhân quả tội phước. Thuận tình thỏa thích sanh yêu, nghịch ý bực bội ôm giận,
hình trạng của ba thọ còn nguyên mà tự xưng địa vị đồng hàng Bồ-tát. Các lỗi đã
trình bày ở chương đầu chưa dứt thì chúng hãy còn trói buộc người. Pháp Đại thừa
chưa tu mà dám chê bậc Tiểu học, nói cho sướng mồm một lúc, cái họa chê bai
đành rành, ba đường khổ luân chịu báo nhiều kiếp. Ôi ! Thật đáng thương thay !
Nói đến lòng thêm chua xót.
Nhưng mà người đạt tánh đối cảnh càng thêm soi chiếu, bậc quên tâm cùng
với điều thiện chẳng có bận lòng, huống chi lỗi lầm sái quấy của ba nghiệp đâu để
trong tâm một điểm trần.Vì vậy bậc đã soi thấy đạo huyền thì ba thọ (Ba thọ : khổ
thọ, lạc thọ, xả thọ.) đã sạch ở nguồn tâm, hàng tẩy uế đã tảo trừ bảy chi (Bảy chi :
Thân có ba là sát sanh, trộm cướp, dâm dục. Miệng có bốn là nói hai lưỡi, nói dối
láo, nói hung ác, nói thêu dệt.) của thân miệng. Đối với loại vô tình thì không
phạm hạt bụi chiếc lá, đối với loài hữu thức thì không phiền đến bọ đến sâu, khe
sâu chưa đủ trong để sánh với các Ngài, tuyết bay chẳng đủ sạch để so với các bậc
ấy. Mến đức như chim tung cánh muốn bay cao tột đến trăng sao, bỏ ác như cá sợ
câu lặn sâu tận đáy sông đáy biển. Ánh sáng huyền diệu của mặt trời cũng hổ với
sự chiếu xa của trí, thượng giới thẹn cùng ba cõi duyên tiêu. Cảnh trí hợp để rỗng
không tròn đầy, định tuệ quân bình để ngang nhau một cách mầu nhiệm. Ruộng
dâu dầu đổi nhưng tâm vẫn không dời, núi biển có dời nhưng chí vẫn không đổi,
mà có thể ở chỗ huyên náo ngưng thần soi chiếu, nguồn tâm sáng sạch tuệ giải vô
cùng. Quán pháp tánh để được chân như, xem lời Phật để y theo liễu nghĩa. Như
vậy, trong nhất niệm pháp môn nào chẳng đủ. Bằng như người diệu tuệ chưa bày,
tâm không chuẩn đích, giải chẳng hợp lý, hạnh thiếu siêu trần, trái pháp tánh mà
thuận phàm tình, bỏ viên thuyên mà chấp quyền thuyết. Thế nên theo thứ lớp tùy
cơ, đối căn mà lập giáo.
Chương này chỉ nói đến giềng mối, còn những chi tiết khác bỏ qua chưa
bàn đến. Đường lối tông môn có cạn có sâu, nay chỉ nói sơ lược về chỉ thú của nó,
cái học của ba thừa có ảnh hưởng là cho biết được phần vị của nó vậy.
􀁄
CHƯƠNG VIII: SỰ LÝ KHÔNG HAI
Phàm diệu ngộ thông đường thì núi sông chẳng lấp, mê danh trệ tướng thì
mảy lông cũng thành cách ngăn. Nhưng bổn nguyên của vạn pháp từ nơi thật
tướng mà ra, trần sa hoặc đến nguồn là chân tông. Cho nên vạn tượng không bờ,
Bát-nhã không bến, vì pháp tánh ấy vốn chân, liễu đạt thành trí. Ví như người đi
biết đường thì muôn dặm có thể hy vọng đến nơi. Như người chạm vật, thông ngòi
(Chạm vật là dụ cho trệ hữu, thông ngòi dụ cho trệ vô.) thì suốt ngày bị giam trong
giới hạn, vì họ chẳng biết vật có cái bờ vô hình, ngòi có cái mé rỗng không cùng
tột. Vì vậy, học Trung đạo mới hy vọng được thật tướng, như người chấp hữu trệ
vô thì rốt cuộc quy về biên kiến, vì họ chẳng biết cái tướng có, có chẳng phải có,
cái thật không có, chẳng phải không. Nay đây sắc tượng lăng xăng, xét đến cùng
thì nó chẳng phải tướng, âm thanh gầm thét xem cho kỹ thì không có tiếng. Mê thì
nói là có hình có tiếng, ngộ thì biết là vắng lặng. Như vậy thì chân đế chẳng trái
với sự lý, tức thể của sự lý vốn là chân; diệu trí chẳng khác với liễu tri, tức tánh
của liễu tri vốn là trí. Nhưng mà diệu chỉ bặt lời nhờ văn ngôn thuyên chỉ; chân
tông chẳng phải tướng, mượn danh tướng để nêu tông. Như voi chẳng phải là núi
Tuyết mà mượn núi Tuyết để ví cho voi (Voi trắng như núi Tuyết.). Đây là lấy cái
có thể so sánh với nó, há cho rằng núi Tuyết là voi được ư ?
Nay đây pháp chẳng phải thường mà chấp là hữu, nên nhờ phi hữu để phá
thường. Tánh chẳng phải đoạn mà chấp là vô, nên dùng phi vô để phá đoạn. Cũng
như sạch sẽ chẳng phải là nước tro mà nhờ nước tro nên rửa sạch, đây là lấy cái
công năng hay rửa, há lấy nước tro mà làm sạch ư ? Do đó biết Trung đạo chẳng
thiên, nhờ nhị biên mà biện chánh, đoạn thường chẳng phải, dựa vào vô và hữu để
rõ chỗ sai. Hoặc hữu hoặc vô nói đã sai, chẳng phải hữu chẳng phải vô cũng đâu là
phải. Tin biết người diệu đạt nguồn huyền chẳng phải hạng thường tình có thể
lường được. Vì sao ? Phàm vọng chẳng phải do ngu sanh, chân chẳng phải do trí
được, đạt vọng gọi là chân, mê chân gọi là vọng, há có vọng tùy theo ngu biến,
chân theo trí trở về, chân vọng chẳng sai, ngu trí tự khác. Hễ muốn thấu tỏ huyền
tông trước tiên cần phải xét kỹ về ngu trí. Nếu muốn xét kỹ về ngu trí phải khéo rõ
biết về chân vọng. Nếu muốn rõ biết về chân vọng lại cần phải nghiên cứu đến
danh thể, danh thể nếu phân thì chân vọng tự biện. Chân vọng đã biện thì ngu trí
rõ ràng. Vì vậy, kẻ ngu không có khả năng liễu trí, người trí có thật chất đạt ngu.
Nên biết chẳng phải trí thì không do đâu để rõ chân vọng, chẳng phải trí thì đâu
thể phân biệt danh thể. Vì sao ? Hoặc có danh mà không thể, hoặc nhân thể mà lập
danh, danh thể xen lẫn thật khó nghiên cứu đến cùng được. Thế nên, thể chẳng
phải danh thì chẳng biện, danh chẳng phải thể thì chẳng lập. Nói thể cần phải nhờ
đến danh, nói danh cần phải dựa vào thể.
Nay đây ngoài thể lập danh, đó chỉ là danh mà không thể, há có cái thể
thích ứng với danh ư ? Ví như thỏ không có sừng mà đặt ra danh từ sừng thỏ, đây
là có tên gọi mà thật không sừng, há có sừng để thích ứng với tên ư ? Không có
thể mà lập danh thì danh không thật danh, danh không thật danh thì cái được gọi
tên (sở danh) là không vậy. Cái được gọi tên (sở danh) đã không thì cái hay gọi
(năng danh) cũng không. Vì sao ? Vì đặt danh để gọi cái thể của nó, không có thể
thì lấy gì để thích ứng với danh. Nói thể là thể cốt để thích ứng với danh, không
danh lấy gì để thích ứng với thể, thể không thích ứng thì không phải thể, danh
không danh thì chẳng phải danh. Vậy thì đâu riêng gì thể mới nguyên hư mà danh
cũng là bản tịch, nhưng mà không có thể thích ứng với danh do lại như thế. Danh
thể thích ứng thì gọi là gì ?
Phàm thể thì chẳng tự có danh, mượn cái danh khác để gọi ngã thể, danh
chẳng phải tự thành lập mà nhờ cái thể khác để đặt ngã danh. Nếu thể chưa có
hình thì danh đâu được gọi. Nếu danh chưa lập thì thể đâu được rõ. Nhưng rõ được
thể tuy nhờ danh, chẳng phải vì không có danh mà không có thể. Lập danh vốn
cần phải do thể, không thể thì danh đó vốn không. Như vậy, thể chẳng phải do
danh sanh mà danh sanh ở nơi thể vậy. Nay đây thể ở trước danh, danh theo sau
thể để phân biệt. Như thế thì lập danh để gọi tên cái thể, cho nên biết thể là nguồn
của danh thì nguyên do của danh là duyên khởi từ nơi thể, vậy đầu mối của thể y
cứ vào đâu ?
Phàm thể thì chẳng có hình dạng của ngã, nhờ duyên hội hợp mà thành thể.
Duyên chẳng phải từ ngã hội, nhân hội thể mà thành duyên. Nếu thể chưa có hình
thì duyên hội chỗ nào ? Nếu duyên chưa hội thì thể thành hình ở nơi đâu ? Thể
thành hình là duyên hội để thành hình, duyên hội là thể thành hình để mà hội. Thể
thành hình mà hội thì rõ hình không riêng hội, hình không riêng hội thì hội vốn
không vậy. Duyên hội mà thành hình thì biết hội không có riêng hình, hội không
có riêng hình thì hình vốn không vậy. Do đó, vạn pháp từ duyên sanh không tự thể.
Không tự thể nên gọi là tánh không. Tánh đã không tuy duyên hội mà chẳng phải
có, duyên đã hội tuy tánh không mà chẳng phải không. Vì vậy, có của duyên hội,
có mà chẳng phải có. Không của tánh không, không mà chẳng phải không. Vì sao ?
Hội tức tánh không, nên nói chẳng phải có; không tức duyên hội nên gọi chẳng
phải không. Nay nói chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải ngoài cái có
riêng có một cái không, cũng chẳng phải lìa cái không riêng có một cái có. Như
vậy thì rõ pháp chẳng phải có không, nên lấy tên là chẳng phải có chẳng phải
không. Chẳng những chẳng phải có chẳng phải không, đã chẳng phải có không, lại
chẳng phải chẳng có chẳng phải chẳng không. Như vậy, đâu riêng gì đường ngôn
ngữ dứt mà cũng là chỗ tâm hành diệt vậy.
􀁄
CHƯƠNG IX: THƯ KHUYÊN BẠN HỮU
Thư mời Đại sư về núi của Thiền sư Huyền Lãng ở núi Tá Khê, huyện Phổ
Dương, Vụ Châu.
Từ buổi đến Linh Khê, tâm ý thảnh thơi, thường chống gậy rong chơi trên
đỉnh non cao thấp, phủi sạch thất đá hang núi ngồi yên. Trông ra muôn dặm tùng
xanh hồ biếc, trăng sáng tự sanh gió đùa mây trắng. Hoa đẹp cỏ thơm chim rừng
tha ngậm, xa gần đều nghe vượn hú từng hồi, lấy cuốc gối đầu, cỏ êm làm nệm.
Đường đời lao xao tranh giành nhân ngã, tâm địa chưa đạt nên mới như thế.
Như có thì giờ, mong được gặp nhau.
Thư đáp của Đại sư Huyền Giác
Từ lúc từ biệt đến nay đã mấy năm trường, trong lòng đau đáu nhớ nhung,
bỗng nhận được thư của bạn thật thỏa lòng mong đợi. Sao lá thư chẳng thấy nói
đến đạo thể như thế nào, nhưng pháp vị nuôi dưỡng tinh thần cho nên chắc được
tịnh lạc.
Huyền Giác tôi từ lâu khâm phục đức âm, chẳng phải dùng lời có thể thuật
được. Gìn lòng tiết tháo, một mình ở nơi vắng vẻ bặt dấu con người, ẩn mình trong
hang núi, bạn thân không tới lui, chỉ có chim thú qua lại, suốt đêm miên miên, cả
ngày lặng lặng, thấy nghe đều dứt, tâm thật vắng lặng. Một mình trên đỉnh núi, ở
dưới cội cây, lánh sự đông đúc, hưởng thức ăn đạo, thật hợp với bạn.
Nhưng mà chánh đạo tịch liêu, tuy có tu mà khó hội, bọn tà huyên náo
không tập mà dễ thân. Nếu chưa phải bậc giải khế huyền tông, hạnh hợp với chân
thú thì chưa nên ở nơi vắng vẻ, ôm ấp sự vụng về suốt một đời mình. Phải nên
rộng hỏi bậc tiên tri, thành khẩn khâm phục chấp tay quỳ gối, chỉnh ý đoan dung,
ngày đêm quên nhọc, trước sau hết lòng ngưỡng mộ, khắc phục thân miệng, trừ
sạch biếng lười cống cao, chẳng quản hình hài, chuyên tinh chí đạo, mới có thể gọi
là lóng thần nơi vuông tấc (Vuông tấc chỉ cho tâm.) Phàm muốn đạt lý diệu huyền
chẳng phải là dễ, kế đến quyết trạch như đi trên băng mỏng, cần phải nghiêng tai
để mắt mà vâng theo huyền chỉ. Thu thúc tình trần để thưởng thức chỗ kín đáo sâu
xa, quên lời mà vui với yếu chỉ, rửa sạch lụy phiền để ăn vị đạo mầu, đêm lo lắng,
ngày hỏi han chẳng lạm tóc tơ, được như thế thì mới có thể dấu mình trong hang
núi, lặng lòng lo toan không tiếp xúc với mọi người. Hoặc có người tâm chưa
thông thấy vật thành bị ngăn ngại, muốn tránh nơi huyên náo, cầu chỗ yên lặng thì
suốt cả đời cũng chưa được yên. Huống hồ rừng xanh bát ngát núi đá chập chùng,
thú gầm chim hót, tùng trúc um tùm, đá nước chênh vênh, ngọn gió rung cây, bìm
sắn vương vấn, mây mù hòa hợp, vạn vật héo tàn tươi tốt theo tiết trời, sớm chiều
bị những thứ ấy làm hoa mắt, há chẳng phải là huyên náo rộn ràng ư ? Cho nên
biết hễ kiến hoặc còn vương vít thì chạm vào đâu cũng thành vướng mắc. Do đó,
trước cần phải biết đạo rồi sau mới ở núi. Nếu người chưa biết đạo mà ở núi trước
thì chỉ thấy núi ắt quên đạo. Nếu người chưa ở núi mà trước đã biết đạo thì chỉ
thấy đạo quên núi. Quên núi thì đạo tánh làm vui vẻ tinh thần, quên đạo thì bị núi
non làm hoa mắt. Do đó, người thấy đạo quên núi ở chốn nhân gian vẫn lặng,
người thấy núi quên đạo ở trong núi cũng ồn ào. Cần phải rõ ấm vô ngã, vô ngã thì
ai ở nhân gian ? Nếu biết ấm nhập (Ấm : Năm ấm. Nhập : Mười hai nhập.) như hư
không thì xóm làng sẽ hoang vắng có khác gì hang núi. Như người ba độc chưa bỏ,
sáu trần còn nhiễu loạn, thân tâm tự mâu thuẫn thì có quan hệ gì đến sự huyên náo
hay yên lặng của nhân gian hay hang núi đâu !
Vả lại, đạo tánh chan hòa cùng khắp như hư không, vạn vật vốn chẳng hệ
lụy, lòng chân từ bình đẳng thì thanh sắc nào chẳng phải đạo ư ? Do vì kiến đảo
hoặc sanh bèn thành luân chuyển vậy. Nếu như biết rõ cảnh chẳng phải có thì
trước mắt không gì chẳng phải là đạo tràng. Biết rõ vốn không, do đó chẳng duyên
mà chiếu, viên dung pháp giới giải và hoặc nào khác, lấy hàm linh để biện lòng bi,
dứt tưởng niệm để mà rõ trí. Trí sanh thì pháp sẽ viên chiếu, lìa cảnh lấy gì quán
bi ? Bi trí lý hợp gồm thâu, trái chúng sanh thì lấy gì làm năng độ ? Lòng bi rộng
lớn độ hết chúng sanh, chiếu tột cùng cảnh để trí viên mãn. Trí viên mãn thì lặng
yên hay huyên náo đồng xem như nhau, lòng bi rộng lớn thì oán thân đều cứu cả.
Như vậy, đâu cần ở lâu trong hang núi mà theo chỗ tùy duyên. Huống chi pháp
pháp rỗng rang dung hợp, tâm tâm tịch diệt vốn tự chẳng phải có, ai gượng gọi là
không thì có sự huyên náo gì đáng gọi là huyên náo, có sự yên lặng nào đáng gọi
là yên lặng. Nếu biết vật và ngã hợp nhất thì kia đây chẳng gì không phải là đạo
tràng, đâu còn thuận theo sự huyên náo của nhân gian hay nhàn rỗi ở nơi hang núi.
Do đó, bỏ động cầu tịnh là gông ghét cùm yêu, lìa oán cầu thân là cũi chán lồng ưa.
Nếu có thể lặng lẽ nơi huyên náo thì chợ búa không đâu chẳng phải là chỗ ngồi
yên. Cầu chỉ lỗi lầm, nhận lãnh lời dạy, oan trái do từ thiện hữu. Như vậy cướp
đoạt hay hủy nhục đâu từng chẳng phải bổn sư ta, kêu la huyên náo không có gì
chẳng phải tịch diệt. Cho nên biết diệu đạo không có hình mà vạn tượng chẳng trái
với nó; chân như tịch diệt, các âm vang chẳng khác với tiếng. Mê thì kiến đảo
hoặc sanh, ngộ thì không có trái thuận. Vắng lặng chẳng phải có, duyên hội thì
sanh, núi Nga Nghi (Ngọn núi Cửu Nghi)chẳng phải không, do duyên tan mà có
thể diệt, diệt đã chẳng phải diệt, lấy gì để diệt cái diệt; sanh đã chẳng phải sanh,
lấy gì để sanh cái sanh. Sanh diệt đã không thì thật tướng thường trụ. Vì vậy, nước
định mênh mông niệm trần nào chẳng bị tẩy sạch, đèn trí sáng ngời hoặc nào
không bị trừ khử. Trái đó thì sáu nẻo tuần hoàn, hội đó thì ba đường ra khỏi. Như
vậy sao chẳng đi thuyền tuệ rong chơi trên biển pháp, mà lại muốn đi xe gãy trục
vào hang núi ư ! Cho nên biết vật loại lăng xăng, nhưng tánh chúng tự là một,
nguồn linh lặng lặng chẳng chiếu mà biết. Thật tướng thiên chân, linh trí chẳng
phải tạo, đối với người mê thì gọi là mất, đối với người ngộ thì gọi là được. Được
mất tại người, đâu có quan hệ gì đến động tịnh, ví như người chưa biết đi thuyền
mà muốn oán ghét dòng nước quanh co kia ư ! Nếu có thể khéo biết huyền tông,
tâm rỗng rang thầm khế hợp, động tịnh nói nín luôn là quy củ, lặng lẽ có chỗ quy
về, điềm nhiên không gián cách. Như vậy mới có thể tiêu dao nơi hang núi, phóng
khoáng chốn thôn trang, thong thả hình nghi, vắng lặng tâm phủ, điềm đạm bên
trong, thâm trầm bên ngoài. Với thân thì như bị câu thúc mà tâm thì tự tại thong
dong, hiện hình dung chốn hoàn vũ, giấu u linh nơi pháp giới. Như vậy thì ứng cơ
có cảm, thích nghi, không tiêu chuẩn nhất định.
Thư viết sơ lược, ngoài ra làm sao trình bày cho hết được, nếu chẳng phải
bạn đồng chí, đâu dám xúc phạm, lúc rảnh ngồi yên xin tạm suy nghĩ. Nếu tôi nói
dối hay sai thì xem xong rồi cứ đốt.
Đồng bạn HUYỀN GIÁC
Kính bái
􀁄
CHƯƠNG X: VĂN PHÁT NGUYỆN
Cúi lạy viên mãn biến tri giác,
Tịch tịnh bình đẳng bản chân nguyên,
Tướng tốt trang nghiêm phi hữu vô,
Tuệ sáng soi khắp vi trần sát.
Cúi lạy trạm nhiên chân diệu giác,
Mười hai phần giáo rất sâu xa,
Phi văn, phi tự, phi ngôn thuyên,
Một âm tùy loại đều hiểu rõ.
Cúi lạy thanh tịnh chư Hiền Thánh,
Mười phương hòa hợp thật chân tăng,
Giữ gìn giới cấm không trái phạm,
Cầm tích ôm bình lợi hàm linh.
Noãn sanh, thai sanh và thấp hóa,
Hữu sắc, vô sắc, tưởng, phi tưởng,
Phi hữu phi vô tưởng, tạp loại,
Sáu nẻo luân hồi chẳng tạm dừng.
Nay con đảnh lễ quy Tam bảo,
Vì khắp chúng sanh phát đạo tâm,
Quần sanh trầm luân trong biển khổ,
Nguyện nhờ từ lực Phật Pháp Tăng.
Từ bi phương tiện trừ các khổ,
Chẳng bỏ nguyện rộng cứu hàm thức,
Hóa lực tự tại độ vô cùng,
Hằng sa chúng sanh thành Chánh giác.
Nói kệ này xong, con lại đảnh lễ quy y trước mười phương ba đời tất cả chư
Phật Pháp Tăng, cho con được nương nhờ sức Tam bảo chí tâm phát nguyện tu Vô
thượng Bồ-đề, kể từ nay cho đến khi thành Chánh giác, khoảng giữa quyết định
cần cầu không hề lui sụt. Khi chưa đắc đạo, thân không tật bệnh, thọ không yểu
mạng, đến lúc lâm chung chẳng thấy tướng ác, không sự lo sợ, chẳng sanh điên
đảo, thân không đau khổ, tâm chẳng tán loạn, chánh tuệ tỏ tường, chẳng qua trung
ấm, chẳng vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, thủy lục không hành, thiên ma ngoại
đạo, u minh quỷ thần, các thứ tạp hình thảy đều chẳng thọ. Thường được thân
người thông minh chánh trực, không sanh vào nước ác, chẳng gặp vua dữ, chẳng
sanh biên địa, chẳng bị nghèo khổ, tôi trai tớ gái, thân hình người nữ, huỳnh môn
hai căn, tóc vàng răng đen, ngu si tăm tối, xấu xí tật nguyền, đui mù câm điếc, hễ
là các điều đáng chán thảy đều chẳng sanh. Sanh ở trung quốc, trong nhà chánh tín,
thường được thân nam, sáu căn đầy đủ, đoan chánh thơm tho, không các dơ uế, ý
chí hòa nhã, thân an tâm tịnh, không tham sân si, ba độc dứt hẳn, chẳng tạo điều ác,
hằng nghĩ việc lành. Chẳng làm vương thần, không làm sứ giả, không nguyện giàu
sang, sống an cảnh nghèo, ít muốn biết đủ, chẳng tham cất chứa, cơm áo nuôi thân,
chẳng trộm của người, chẳng giết chúng sanh, chẳng ăn thịt cá, yêu kính hàm thức
như mình không khác. Tánh hạnh dịu dàng, chẳng vạch lỗi người, chẳng ca ngợi
mình, chẳng tranh cùng người, oán thân bình đẳng, chẳng khởi phân biệt, chẳng
sanh yêu ghét, chẳng muốn của người, của mình chẳng tiếc, chẳng thích xâm
phạm, lòng luôn ngay thẳng, tâm không hung bạo, thường ưa nhún nhường, miệng
không nói ác, tâm không dua dối, ba nghiệp trong sạch, ở chỗ an ổn, không các
chướng nạn. Trộm cắp giặc cướp, pháp vua tù ngục, gông cùm xiềng xích, đao
thương tên giáo, thú dữ độc trùng, té núi té sông, lửa cháy gió cuốn, sấm sét hãi
hùng, cây gãy núi lở, rui mục nhà sập, giặc giã đáng sợ, đến gần vây quanh, bắt bớ
trói buộc, vu oan hủy báng, ngang ngược câu thúc, phàm các tai nạn thảy đều
chẳng thọ. Ác quỷ tai bay, thiên hành độc lệ, tà ma vọng lượng ở biển ở sông, non
cao núi lớn, các thần ở cây hễ có linh thiêng hoặc nghe tên tôi hoặc thấy hình tôi
phát tâm Bồ-đề, che chở cho nhau, chẳng não hại nhau, ngày đêm an ổn, không sự
kinh sợ. Bốn đại mạnh khỏe, sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm sáu trần, tâm không
loạn tưởng cũng không hôn trầm, chẳng sanh đoạn kiến, chẳng chấp có không, xa
lìa các tướng, phụng thờ đức Phật. Chẳng theo kiến chấp, giải ngộ rõ ràng, đời đời
tu tập chánh tuệ kiên cố, chẳng bị ma nhiếp. Đến lúc mạng chung an nhiên vui
sướng, bỏ thân thọ thân, không có oán đối, tất cả chúng sanh đồng làm bạn tốt.
Sanh ra chỗ nào gặp Phật nghe Pháp, ấu niên xuất gia, làm tăng hòa hợp, thân luôn
mặc áo ca-sa, thường ăn thức đựng trong bát, đạo tâm kiên cố, chẳng sanh kiêu
mạn. Kính trọng Tam bảo, thường tu phạm hạnh, gần gũi minh sư, theo thiện tri
thức, tin sâu chánh pháp, siêng hành lục độ, đọc tụng Đại thừa, hành đạo lễ bái.
Hoa thơm quả ngọt, âm thanh tán tụng, đèn đuốc đền đài, non biển suối rừng, trên
không dưới đất của thế gian này từ hạt bụi nhỏ đều đem cúng dường, gom góp
công đức hồi hướng Bồ-đề. Suy tư liễu nghĩa, chỉ ưa nhàn tịnh, thanh tịnh lặng yên,
chẳng thích huyên náo, chẳng ưa ở đông, thường sống một mình, tất cả không cầu,
chuyên tâm định tuệ, sáu thông đầy đủ, hóa độ chúng sanh tùy theo ý nguyện tự tại
vô ngại, vạn hạnh thành tựu tinh diệu vô cùng, chánh trực viên minh, chí thành
Phật đạo.
Nguyện đem thiện căn này chan rải khắp mười phương, trên tột Hữu đảnh,
dưới đến phong luân, trên trời trong người, thân trong sáu đường của tất cả hàm
thức, tôi có công đức nào nguyện thí cho tất cả chúng sanh, tận vi trần kiếp chẳng
bỏ một chúng sanh nào, tôi có bao nhiêu thiện căn đều xông ướp cho tất cả. Khổ
não trong địa ngục, nam-mô Phật Pháp Tăng, xưng danh Phật Pháp Tăng, nguyện
đều được giải thoát. Khổ não trong ngạ quỷ, nam-mô Phật Pháp Tăng, xưng danh
Phật Pháp Tăng, nguyện đều được giải thoát. Khổ não trong súc sanh, nam-mô
Phật Pháp Tăng, xưng danh Phật Pháp Tăng, nguyện đều được giải thoát. Thiên
nhân A-tu-la, hằng hà sa loài hàm thức, tám khổ thường thiêu đốt, nam-mô Phật
Pháp Tăng, do thiện căn của tôi đều thoát khỏi ràng buộc.
Nam-mô Tam thế Phật,
Nam-mô Tu-đa-la,
Bồ-tát, Thanh văn Tăng,
Thánh chúng như vi trần.
Chẳng bỏ lòng từ bi,
Nhiếp thọ loài quần sanh,
Hàm thức khắp hư không,
Quy y Phật Pháp Tăng.
Lìa khổ thoát tam đồ,
Mau được siêu tam giới,
Đều phát tâm Bồ-đề,
Ngày đêm hành Bát-nhã.
Đời đời siêng tinh tấn,
Như cứu lửa cháy đầu,
Lúc đắc đạo Bồ-đề,
Thệ nguyện độ tất cả.
Tôi hành đạo lễ bái,
Tôi tụng kinh niệm Phật,
Tôi tu giới định tuệ,
Nam-mô Phật Pháp Tăng.
Nguyện khắp các chúng sanh,
Thảy đều thành Phật đạo,
Tôi cùng các hàm thức,
Kiên cố cầu Bồ-đề.
Đảnh lễ Phật Pháp Tăng,
Nguyện sớm thành Chánh giác.
􀁄