Lời dịch giả
VÀI HÀNG VỀ DỊCH GIẢ
NGUYÊN CHÁNH
Dịch giả Nguyên Chánh
(còn có tên là Định Huệ) quê quán tại Mỹ Tho, vốn người rất thông minh, uyên
thâm Hán học, và thâm hiểu giáo lý nhà Phật, đã dịch nhiều sách Hán tự ra Việt
văn. Nhờ những ưu điểm đó nên những sách dịch của ông đều rất có giá trị.
Ông hiện sống tại
Việt Nam. Ngoài giờ làm việc, ông còn dạy giúp môn Hán Nôm cho rất đông Tăng
Ni.
Trung Phong Pháp Ngữ
là một trong những sách mà ông đã dịch.
Ngoài ra, khi dịch Tín Tâm
Minh Tịch Nghĩa Giải, dịch giả trong đó có nhiều người phụ giúp, ông Nguyên
Chánh là người đã giúp đỡ nhiều nhất.
Thích Duy Lực
LỜI
ĐẦU SÁCH
Quyển TRUNG PHONG PHÁP NGỮ này được
hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ của Thiền Sư Trung Phong khai
thị đồ chúng trong bộ Thiên Mục Minh Bổn Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, in trong
Tục Tạng Kinh, tập số 122.
Nội dung sách tấn người học lập chí lâu bền,
gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghi bùng
vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử. Vì thế, Ngài cực lực bài xích cái thói quen
tai hại của người học muốn dùng tri giải để hiểu Phật pháp, thiền đạo, làm
chướng cửa ngộ, nhất định không thể nào giải quyết được việc lớn sanh tử, mà
trái lại còn thêm lớn ngã kiến, kết chặt gốc rễ luân hồi. Lời khai thị thống
thiết đầy nhiệt tình của Ngài có sức thúc giục cảnh tỉnh rất là mãnh liệt khiến
người học vừa phấn chí mình, vừa cảm tấm lòng từ bi chỉ dạy của Ngài, mà dốc
lòng tinh tấn hành đạo.
Thiền Sư Trung Phong, tên Minh Bổn, họ Tôn,
quê ở Tiền-Đường, Hàng Châu, sanh năm Cảnh-Định thứ tư (1263
T.L.) đời vua Lý-Tông
triều Nam-Tống.
Sư nối pháp Thiền-Sư Cao-Phong
Nguyên-Diệu. Vua Nhân-Tông nhà Nguyên phong hiệu cho Sư là Phật-Từ Quảng-Huệ
Thiền-Sư và ban cho cà sa Kim-Lan.
Ngày 14 tháng 8 năm Chí-Trị thứ ba (1323
T.L.) đời vua
Anh-Tông, Sư thị tịch. Vua Văn-Tông ban thụy là Trí-Giác Thiền-sư. Vua
Thuận-Tông ban thêm hiệu là Phổ-Ứng Quốc-Sư.
Sư có trước tác bộ Quảng Lục 30 quyển,
đã được biên vào Tích-Sa Đại Tạng Kinh tập số 599.
KHAI THI ĐỒ CHÚNG
Thiền-sư Phật-Ấn Liễu-Nguyên thống
thiết dạy sơ lược như sau:
Một niệm tịnh tâm cuối cùng thành
chánh-giác. Từng bước có lợi độn cạn sâu, song sự thành công chỉ ở tại chỗ phát
phẫn lập chí. Tôi nay thống thiết dạy đạo tục nên biết bốn điều dễ, và bốn điều
khó.
Cái gì là bốn điều dễ?
1. Chính mình là Phật, chẳng cần
cầu thầy khác. Nếu muốn cúng dường Phật, chỉ cúng dường chính mình, là điều dễ
thứ nhất.
2. Vô-vi (vô
tác) là Phật, chẳng
cần xem Kinh, lễ Phật, hành đạo, tọa thiền. Đói ăn mệt ngủ, tùy duyên nhậm vận,
là điều dễ thứ hai.
3. Vô-trước là Phật, chẳng cần
hủy bỏ hình thể, xa lìa quyến thuộc, núi rừng, chợ búa, nơi nào cũng tự tại, là
điều dễ thứ ba.
4. Vô-cầu là Phật, chẳng cần lập
công bồi đức, siêng tu khổ hạnh, hai thứ phước huệ trang nghiêm đều không dính
dáng, là điều dễ thứ tư.
Cái gì là
bốn điều khó?
TÍN được
là điều khó thứ nhất,
NIỆM được
là điều khó thứ hai,
NGỘ được
là điều khó thứ ba,
TU được
là điều khó thứ tư.
Tin nhân quả có thể nói là niềm tin nhỏ,
chẳng thể cho là niềm tin lớn. Vậy mà người nghi vẫn nhiều, người tin lại ít. Người
tin mà chẳng nghi, trong trăm ngàn người chỉ có một hai người. Huống chi chóng
thấy tự-tánh, nhất siêu trực nhập vào việc Như-Lai. Ngàn kinh muôn luận, các
thứ tông tích dị kỳ để lại ở thế gian chỉ vì người không có lòng tin. Chư Thánh
từ bi rộng lập phương tiện mở sáng bọn mê khiến họ từ cửa tín mà vào. Bởi vì
người có niềm tin mới lập hạnh, do đó niềm tin là một điều khó.
Trong suốt ngày đêm chỉ muốn niệm niệm chẳng
quên, lúc đi thì đi niệm, lúc ngồi thì ngồi niệm, lúc cử động, nói nín, nằm xuống,
đứng dậy đều niệm, lúc làm việc, tiếp vật cho đến khốn khổ hoạn nạn hiểm nguy
cũng đều niệm. Thân như cây khô, như tảng đá, như thây chết, như tượng đất, chỉ
tâm tâm ở tại đạo; ứng đáp với người như si, như say; nghe tiếng thấy sắc như
điếc như đui. Vì thế dụ như mèo rình bắt chuột, tâm và mắt chăm chú nhìn vào
một chỗ, lơ đễnh một chút ắt chuột chạy mất; như gà ấp trứng, hơi ấm cần phải
liên tục, gián đoạn một chút là không thể thành gà con được. Vì thế niệm nầy là
một điều khó.
Niệm đạo vốn phải gìn giữ lâu ngày, còn ngộ
đạo ở tại khoảnh khắc. Lúc nhân duyên chưa chín mùi thời tiết chưa đến cơ hội
sẵn sàng nên không thấy được. Nhân duyên đã chín mùi, thời tiết đã đến, tuy
hình dáng chẳng tiếp xúc mà bỗng nhiên hiện tiền. Khó nói cái thấy của người đã
ngộ cho người chưa ngộ nghe, như người mù từ thuở sơ sanh nói cho họ nghe về
ánh sáng mặt trời, họ tuy nghe nhưng chẳng thể biết. Người ngộ không còn đạp
dấu của lúc chưa ngộ; như người ngủ thức dậy, bảo người ấy làm lại việc trong
mộng, tuy người ấy nhớ mà chẳng tìm lại được. Người tham học phải lấy ngộ làm
tiêu chuẩn,vì thế cái ngộ nầy lại là một điều khó.
Chưa ngộ phải thường lo niệm,đã ngộ càng phải
giữ gìn như bưng đĩa nước, như cầm vật báu, như giữ tròng con mắt, như đi chỗ
nguy hiểm, như đối trước vua, trước thầy. Đây là giữ gìn đạo vậy. Giữ gìn tức
là tu vậy. Thấy đạo mới tu đạo, chẳng thấy làm sao tu.
Có người hỏi: Đã ngộ rồi đâu cần tu?
Đáp rằng: Tập khí do nhiều kiếp huân
tập không thể nhất thời sạch hết, nên cần phải tu. Tu đến vô-tu sau đó mới đồng
với Chư Phật. Vì thế cái tu nầy lại là một điều khó.
Cho nên người chẳng biết bốn điều dễ
thì có thể làm lành, mà chẳng thể nhập đạo. Người chẳng biết bốn điều khó thì
có thể nói về đạo, mà chẳng thể tiến trên đường đạo.
Trong văn trên Thiền-sư Phật-Ấn nói
Niệm Đạo, tức ngày nay nói Tham, nói khán.
Trong bốn điều khó, đầu tiên nói niềm
tin là khó. Nói tin là muốn người học đạo tin bốn điều dễ ở trước và bốn điều
khó ở sau. Vậy niềm tin nầy chẳng phải dễ được. Thứ nhất là nhờ sức Bát-Nhã sâu
dày nhiều đời của chính mình, kế đến là nhờ chánh niệm hằng ngày luôn luôn
thống thiết vì việc lớn sanh tử thâm nhập vào xương tủy không có khoảnh khắc
gián đoạn. Lòng tin đã như vậy thì câu thoại đầu sở tham như người đói được
thức ăn, người rét được áo mặc, dẫu ép buộc buông bỏ trọn chẳng thể được. Tâm
tham cứu đạo miên mật thì không có lẽ nào không ngộ, ví như đi đường miệt mài
đi mãi ngày đêm có lý nào chẳng đến. Ngộ đó là ngộ bốn điều dễ ở trước. Bốn
điều dễ này nếu chẳng phải ngộ nhập thì đều gọi là vọng-giải. Người đời nay có
chút tư chất thông minh chẳng đợi ngộ nhập, cứ đem tình thức lãnh hội bốn điều
dễ nầy rồi tự cho là thật chứng, bèn bỏ hai thứ phước huệ trang nghiêm, vì cho
rằng không dính dáng. Luận đàm lý tột chưa từng chẳng đúng, song chẳng dè chưa
từng ngộ nhập nên rơi vào trong tình thức phân biệt, suốt ngày nói ăn mà không
no bụng. Vả lại, ngộ đã chẳng chân như người chưa đến nhà, muốn ở giữa đường
cất nhà để ở, thì nên hay chẳng nên?
Do đó nên biết, đạo đã chẳng ngộ thì
tu rất khó vậy.
Hôm nay, khai thị hậu học chỉ dùng thuyết bốn
điều dễ, bốn điều khó của Hòa Thượng Phật-Ấn thống thiết trình bày. Các Bồ-Tát
học Bát-Nhã ở thiền-đường đều là người xa lìa các thứ thụ hưởng thế gian đến
đây cam chịu khổ hạnh, ai mà chẳng nói vì việc lớn sanh tử vô thường, thì nỡ
nào để năm tháng trôi qua vô ích.
Trong văn nói như mèo rình bắt chuột,
lơ đễnh một chút ắt chuột chạy mất, như gà ấp trứng nếu gián đoạn một chút ắt
chẳng thành gà con. Lời nầy đáng tin. Mong mọi người đồng phấn chí sớm ngộ.
Minh Bổn tôi hạ nầy ngọa bệnh chẳng thể cùng các huynh đệ luận đạo, cho nên dẫn
lời nầy để nhắc nhở. Thời gian qua mau như nước chảy, chớ để về sau hối hận.
THỊ
CHÚNG
Động Sơn qua cầu, Huyền Sa qua núi,
Thái Nguyên nghe tiếng tù và, cùng với Thích Ca nửa đêm thấy sao mai mọc đồng
một thời tiết, hiện nay ở trên phần các ông không thiếu chút nào!
Xưa hai Tổ Lâm Tế và Đức Sơn, hễ thấy người
tham thiền đến, không nỡ lòng dạy bảo, chỉ dùng thủ đoạn (cơ
xảo) hét to đánh
mạnh, sau nầy thủ đoạn ấy lưu hành chốn tòng lâm, trở thành thường lệ. Thiên hạ
tòng lâm nói thiền thao thao mà thật ra chỉ lấy thủ đoạn của Tổ truyền thừa lừa
gạt lẫn nhau, khiến cho thuốc hay đến nay thành ra không linh nghiệm.
Tiên sư (Ngài Cao Phong) ba mươi năm thân đứng như vách chỉ lo
chữa trị cái việc nầy cho người học, bóp chặt cổ họng không cho ông nói, không
cho ông hiểu, cũng không cho ông sanh một niệm thứ hai nào khác. Chỉ hướng lên
trên câu thoại đầu, đứng vững gót chân chăm bẳm tham cứu, như gặp kẻ oán địch,
như cứu lửa cháy đầu, ngoài bặt cảnh duyên, trong quên tình thức, hầu đợi ông
như hạt đậu nổ trong tro lạnh, chết đi sống lại. Ông nếu chưa đến thời tiết
nầy, thì quyết chẳng chịu đem ngữ ngôn tương tợ dẫn người đi lầm đường. Phải
biết sanh tử vô thường là việc lớn, há người căn khí cạn cợt có thể vượt nổi ư?
Người đời nay chẳng hiểu chỗ kiến lập của Phật Tổ thuở xưa, luôn luôn đuổi theo
tình cuồng, thức vọng, mở miệng bèn muốn vượt qua Phật Tổ, khi xem đến chí
hướng đạo của họ thì không có nửa điểm chân thật chủ tể. Mới đề được câu thoại
đầu trong chốc lát, được chút thuần thục liền tự vui mừng, vừa bị hôn trầm, tán
loạn cướp đoạt bèn nói căn độn nghiệp sâu. Tình cờ gặp phải vài điều trái ý
trước mắt thì tức giận nghiến răng, niệm niệm chẳng dứt. Hoặc nghĩ bậy, tưởng
rằng, khởi diệt muôn thứ mà tự chẳng biết, cuồng loạn nằm trong tâm mà tự cho
rằng người hành đạo, lý phải như vậy. Trải qua ba năm, năm năm đã chẳng tương
ưng, liền sanh tâm lui sụt, bỏ vào trong cái vỏ vô sự cam chịu luân hồi, hạng
người như thế rất nhiều. Hoặc chẳng như thế, bèn đem ý thức săn lấy những lời
của các thiền sư giả mạo từ xưa đến nay lừa dối Hiền Thánh, muôn điều tạo tác
đều là hư-giả đọa-lạc biên kiến, trọn chẳng tự giác.
Muốn cầu một chỗ ổn thỏa, thì hai mươi
năm, ba mươi năm chẳng biến chẳng đổi, hướng vào trong bổn tham, chẳng dính với
thức trần, lấy ngộ làm cực tắc (cùng tột) như đãi cát tìm vàng. Tòng lâm pháp
đạo ngày càng suy đồi, ông có biết chăng? Hôm nay mở to đôi mắt hướng lên tuyệt
đỉnh cô phong, thọ người tín thí cúng dường, huống là tự mình cô phụ cái danh
tự người hành đạo mà còn cuồng vọng biếng nhác chẳng tự kiểm điểm, đâu biết mai
kia trôi giạt vào loài súc sanh chẳng ăn nuốt lẫn nhau kết nghiệp vô gián ư?
Người xưa nói: "Tam đồ lục đạo từ vô lượng kiếp đến nay chẳng phải không
từng trải qua, đời nay không biết trồng hạnh lành gì mà được gặp nhau dưới
chiếc áo ca-sa, nếu chẳng sớm ly tình tuyệt lự bỏ ngủ quên ăn, thời giờ trôi
qua, lấy gì nương cậy".
Núi này từ thuở khai mở đạo tràng đến
nay, vào mùa đông lạnh lập kỳ hạn tham thiền. Các ông vào thiền kỳ nầy ắt muốn
tìm cái lộn ngược(ý nói là
triệt ngộ), chẳng phải môn đình bày đặt ra, cũng chẳng phải cố tự
chỉ bày mà là phương thức hiệu nghiệm của tiên-đức dùng để giải quyết xong cái
việc của các ông sẵn đủ. Trong giáo nói: "Ta chẳng tiếc thân mạng, chỉ
muốn đạo vô thượng". Ông chỉ thấy tiền bối qua núi, nghe tù-và ngộ một
cách dễ dàng, trái lại chẳng biết cái khó của lúc chưa qua núi, chưa nghe tù-và
cùng với người bây giờ không khác chút nào vậy. Nếu biết được cái khó ấy thì
đạo nào ta cũng hành được.
Đường-chủ, Duy-Na vì thấy tâm chúng
giải đãi, thỉnh tôi khuyến khích. Minh Bổn tôi nói hoàn toàn không có lỗ mũi để
cho người nắm lấy, chỉ đem việc lớn sanh tử vô thường cho người chân thật vì
đạo cố gắng. Nếu không tin, cứ đi hỏi nơi khác.
KIẾT HẠ
KHAI THỊ ĐỒ CHÚNG
TẠI
THUẬN TÂM AM.
Hôm nay ngày rằm tháng tư, là ngày
kiết hạ, phải biết hai ngàn năm trước, trên hội Linh Sơn cũng có ngày rằm tháng
tư kiết hạ. Từ đó cho đến ngày nay, tòng lâm các nơi chẳng trái lệ cũ. Chín
mươi ngày không dây tự trói, nói là cấm túc, nói là an-cư, lại chẳng biết người
chân thật. Học đạo từ một niệm đầu tiên cương quyết liễu thoát việc lớn sanh tử
vô-thường thì "túc" nầy ngay nơi đây liền cấm, hạ nầy do đó mà kiết,
đem hết năm tháng của trọn cuộc đời làm chín mươi ngày chẳng nhiều, chẳng ít,
chẳng bớt, chẳng thêm, để mong cùng việc nầy tương ưng. Về sau gọi đó là thời
tiết Phật hoan hỷ, Tăng tự-tứ. Bằng chẳng như thế, chỉ muốn bắt chước thường
tình thế gian theo quy củ lễ nhạc chẳng dám vượt qua cho là nhập hạ, chẳng
những cô phụ Phật Tổ mà cũng vùi chôn chính mình.
Hôm nay chúng ở am hơn mười người, ai
cũng biết có việc nầy, chẳng chịu tự cô phụ, tự chôn vùi, huống là ngay lúc
pháp nầy vừa đến, thừa cơ hội nầy phấn khởi một tấm lòng chân thật mạnh mẽ
không gián đoạn quyết định chẳng lui sụt, chỉ đề khởi một câu thoại đầu vô
nghĩa vô vị. Từ một ngày đầu tiên bắt đầu đứng vững gót chân chẳng được nhúc
nhích một chút, kín đáo hạ thủ hướng tới trước, một ngày phải thấy công trình
một ngày, một giờ phải thấy ứng nghiệm một giờ. Từ người trên đến kẻ dưới cảnh
sách lẫn nhau, mài giũa cho nhau, chẳng tạp duyên, chẳng vọng niệm, chẳng theo
vật chuyển, chẳng đuổi theo cảnh, chẳng theo quy củ xưa, chẳng còn phép tắc
mới, chẳng chán phàm, chẳng mộ Thánh, cho đến tất cả đều chẳng làm. Chỉ muốn
một cái ấy của mình minh bạch. Hốt nhiên bị ông lạnh lùng thấu thoát mới biết
chín mươi ngày là cả cuộc đời, cả cuộc đời chính là chín mươi ngày, cho đến hai
ngàn năm trước chẳng khác ngày hôm nay, ngày hôm nay chẳng khác hai ngàn năm
trước, mắt xích liền nhau trọn không gián đoạn, đây là trường tuyển Phật, tâm
không thi đậu về. Ví như chẳng được như vậy thì cái am Thuận-Tâm nầy đâu khác
hai hòn núi Thiết-Vi. Đừng cho rằng an-cư vô sự bỏ trôi mùa hạ, biết trước chí
nguyện bình-sanh chẳng toại, ở đây có thể thấy vậy.
Am-chủ gởi thư đến thỉnh lời cảnh sách
cho chúng, lấy đại sự tham cứu thoại đầu, chẳng những chúng-nhân mà Am-chủ cũng
phải tự chiếu cố.
Thiền là bổn lai diện mục của các ông,
trừ ngoài cái nầy không có thiền nào có thể tham, cũng không thể thấy, cũng
không thể nghe. Ngay cái thấy nghe nầy toàn thể là thiền, lìa ngoài thiền cũng
không riêng có thấy nghe cho mình đắc được. Các ông tụ họp nơi đây, mỗi người
riêng có một công án chẳng liễu ngộ chứa ở trong gan phổi, chẳng phải là duyên
nhỏ đâu! Trong suốt ngày đêm chớ lầm dụng tâm thì tốt. Người xưa nói:
"Tham thiền học đạo là lầm dụng tâm, thành Phật làm Tổ là lầm dụng tâm.
Trừ ngoài cái nầy ra, lại làm cái gì mới chẳng gọi là lầm dụng tâm?". Việc
nầy hãy gác lại, chẳng hỏi.
Chỉ như các ông mỗi người trong lòng
đều vốn có một bổn cổ-thanh-quy (quyển ghi qui củ xưa), chẳng
nên phạm vào lúa mạ người. Như canh năm, khi thiền đường đánh bảng khởi tham,
chẳng kịp rửa mặt cũng phải theo chúng xuống đất chạy một vòng rồi đợi đại
chúng vào thiền đường thì lên tọa cụ ngồi thẳng, hễ nghe bảng khai tịnh đánh
thì xếp tọa cụ, đắp ca-sa mang bát đi ăn cháo. Phàm ăn cơm cháo phải xem trên
dưới, chúng mau thì mau, chúng chậm thì chậm để chẳng làm động tâm niệm người
khác. Huống là cử chỉ động tịnh mỗi mỗi đều có oai nghi phải tuân theo, chớ nói
ta là người hành đạo đại ngộ chẳng chấp tiểu-tiết; ngặt vì ông chưa ngộ, đâu
thể nói chẳng tuân theo quy củ. Bởi do cái chánh niệm vì đạo chẳng thiết tha vì
thế cử chỉ không đàng hoàng cho đến phá phạm luật-nghi, tự mất chánh-nhân, bị
người khinh mạn.
Các ông đây mỗi người hãy tự xét kỹ, như
pháp tuần thiền đường, thống thiết vì việc lớn sanh tử chưa được rõ ràng, sợ
năm tháng trôi suông, bị người đánh một cái chẳng hỏi mình có đau hay không đau
đều coi như uống nước cam-lồ, phải phấn khởi dũng mãnh cực lực hướng tới trước,
há có thể trở lại sanh giận hờn mà ôm lòng báo oán ư? Sanh tử vô thường là một
tập quán tai hại muôn kiếp dao cắt chẳng ra, cưa xẻ chẳng đứt. Ngày nay đã chịu
bắt đầu phát tâm chân thật, ở cao trên đảnh lạnh lùng, hận chẳng được kéo dài
một ngày ra làm mười ngày, đứng vững gót chân để hạ thủ đi! Hễ thấy mặt trời
lặn sau núi thì sanh lòng than tiếc lại qua mất một ngày, đạo nghiệp chưa xong,
nhãn quang lạc địa (ý nói là chết) rốt cuộc lấy gì báo đáp ân Phật Tổ,
đàn việt. Đợi chi đến lúc tay chân rối loạn; ngày hôm nay lúc bệnh chưa đến
thân hãy sớm tìm lấy cái lộn ngược (ngộ) đi!.
Minh Bổn tôi chỗ thấy như thế,
lại chẳng từng đem việc dây dưa vô ích dạy bảo cho người, chỉ thực lòng cho
biết như thế từ sự chân thật bảo nhau. Tôi muốn thuận theo lời thỉnh của các
ông qua am nói chuyện, vì sẵn có việc đi Tây-Sơn, nên phiền Đường-Chủ thay thế
tôi bạch với chúng. Mọi người hãy tự tham cứu, chớ nên dễ dãi. Ước mong mọi
người chấn chỉnh tinh thần sớm cầu giải thoát, cũng chẳng cho luôn luôn qua
sông qua núi tìm nhau, đối với đạo vô ích.
KHAI THỊ CHÚNG PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM
Bồ-Đề-tâm là tiếng Phạn, ở đây gọi là
đạo tâm. Các ông nếu không có tâm hướng về đạo thì ngày nay quyết chẳng chịu
đến đảnh núi cao nầy mài đũng quần ngày đêm siêng năng cực khổ tham cứu sanh
tử. Phải biết cái đạo tâm nầy xa từ nhiều kiếp trước kia đã từng phát khởi, chỉ
vì tâm nhiều biếng nhác, ý chạy đuổi phan duyên nên chưa thủ chứng. Đến hôm nay
cần phải cắt đứt các duyên, thôi dứt muôn lự, chỉ đề khởi một câu thoại đầu sở
tham liều mạng một đời giải quyết cho xong, chẳng phải là việc ngoài bổn phận.
Chánh niệm nầy chẳng thể kiên cố miên mật dằng dặc bảo nhậm, lại muốn chợt sanh
tình vọng, rồi muốn phát Bồ-Đề-tâm. Đây là hư vọng điên đảo, mất chánh niệm,
hướng ra ngoài tìm cầu, trái ngược với chân-tâm, cùng đạo cách tuyệt. Đừng nói
phát Bồ Đề tâm một lần, mà một ngày phát ngàn lần muôn lần cũng chẳng bằng một
niệm chánh niệm bảo nhậm thoại đầu sở tham. Lại muốn tụng kinh, lễ bái, phát lồ
sám hối v.v.. đều theo vọng theo tà, há chẳng thấy trong kinh nói: "Nếu
người muốn sám hối nên ngồi thẳng niệm thật tướng". Phải biết thật tướng
cũng là vô niệm. Chỉ cần ông tin được có việc lớn sanh tử, trong suốt ngày đêm
đề khởi câu thoại đầu sở tham như cứu lửa cháy đầu là niệm thật tướng vậy.
Người huyễn (Ngài Minh Bổn tự xưng) như có một chữ dối gạt các ông, tự cam
chịu hằng đọa địa ngục rút lưỡi. Xin duyệt-chúng hãy nói cho những người muốn
phát Bồ-Đề tâm biết, nên bỏ ý định đó đi, mà phải dốc lòng hành đạo mới đúng!
THỊ
CHÚNG
Chiều tối hôm trước, Thủ-tọa cùng
Duy-na đến am nói gần đến ngày kiết hạ thỉnh tôi nói chuyện với chúng. Tôi nhận
lời mời thỉnh, hứa hai ba hôm có rảnh sẽ qua am uống chén trà cùng nhau nói
chuyện giây lát để cảnh sách nhau. Chẳng ngờ mưa tầm tã mấy ngày liên tiếp,
đường sá trơn trợt bất tiện. Qua đến ngày 12 thì nhân sự hai núi rộn ràng, giao
tiếp như thế chẳng toại lòng tránh xa của người huyễn nầy.
Tôi nghĩ rằng, đại chúng của cả
thiền đường đều là hàng lão-tham, lúc bình thường đến gõ cửa am chưa từng có ai
chẳng đem việc trên bồ đoàn tham vấn, thì đâu có lấy kiết hạ giải hạ làm thời
tiết hành đạo. Nếu nói về chí lý, lúc bắt đầu mới phát tâm hướng về đạo, hạ nầy
đã từng kiết rồi. Trong suốt ngày đêm khán câu thoại đầu vô nghĩa vô vị chưa
được liễu ngộ tức là thời gian ở trong hạ. Hai ba mươi năm thôi thúc đến chỗ
tình thức tiêu hết, hốt nhiên mãnh tỉnh (ngộ) được cái ấy, tức là lúc giải hạ, ngày
tự-tứ. Há chỉ lấy có chín mươi ngày làm hạ ư?
Tham thiền chẳng linh nghiệm, thường
thường chỉ là tâm trộm cắp chưa chết, vì thế năm tháng trôi suông, chứ không
phải bệnh nào khác. Nếu tâm trộm cắp nầy chết ở ngày hôm nay thì ngày hôm nay
liền tương ưng, chết ở ngày mai thì ngày mai bèn tương ưng.
Cái gì là tâm trộm cắp?
Hễ lìa câu thoại đầu sở tham ra, riêng
thấy có tự kỷ, là tâm trộm cắp; ngoài cái tự kỷ thấy có nhân, có ngã, là tâm
trộm cắp; lúc tham được thuần thục biết thuần thục, ấy là tâm trộm cắp; lúc
tham chẳng thuần thục biết là chẳng thuần thục, ấy là tâm trộm cắp; lúc thấy có
hôn trầm tán loạn, ấy là tâm trộm cắp; lúc chẳng thấy có hôn trầm tán loạn, chỉ
có câu thoại đầu sở tham cùng nghi tình giao kết chẳng gián đoạn, ấy là tâm
trộm cắp; hễ ở chỗ khán thoại đầu chợt sanh một niệm biết, bất luận là phàm, là
Thánh, là chân, là ngụy, nói chung đều là tâm trộm cắp; bỗng có người linh lợi
hướng vào chỗ tôi nói để đàm luận dẫn chứng giúp cho một con đường là đạo, là
lý, là kiến, là văn, đều cho là chẳng dính dáng đây là trong tâm trộm cắp thêm
tâm trộm cắp, Phật cũng chẳng thể cứu chữa. Chỉ cần hết được những tâm trộm
cắp, chỉ thế ấy y bổn phận nắm chắc câu thoại đầu sở tham như tượng gỗ tượng
đất, như người chết có hơi thở, ngoài chẳng thấy có đại chúng, trong chẳng thấy
có tự kỷ, lạnh băng băng, tuyệt kiến văn, như vậy giữ đi, lâu ngày sẽ được tâm
không thi đậu về.
Viết dối mấy lời nầy để đền lại
lời hứa uống trà nói chuyện trong Am. Minh Bổn tôi qua núi tránh nhân sự mấy
ngày, chẳng nên tìm hỏi dấu huyễn ở chỗ nào. Dẫu cho tìm thấy cũng không cùng
nhau nói chuyện. Mong Thủ-tọa, Duy-na bạch cho chúng biết.
KHAI THỊ THIỀN NHÂN CHÁNH VĂN
I. Bổn
phận của người xuất gia phải đắc tọa phi y (có chân thật tu hành) mới đáng thọ nhận Trời người cúng
dường.
Trong kinh nói Tọa nghĩa là các pháp
không, nói Y tức là nhu hòa nhẫn nhục. Thiền Tông nói tọa tức là một niệm chẳng
lui sụt, nói y nghĩa là ngộ suốt tự tâm, chẳng mang nhánh lá. Ví như chẳng được
như vậy thì sợi chỉ giọt nước chắc chắn phải bồi thường cho thí chủ. Phật Tổ
thuở xưa mắt chẳng nỡ thấy, nên khai mở pháp môn cam lồ nầy, chẳng phải cầu ẩn
dật, cũng chẳng phải cầu nhàn tản, cũng chẳng phải cầu cao thượng việc ấy để
được nổi danh, chẳng phải cầu tích tụ của cải cho nhiều để mưu toan lợi lộc một
cách xấu xa. Người xưa ba y một bát, ngoài ra đều coi là vật thừa phải luôn
luôn thuyết tịnh (giao bố thí cho người khác) mà chẳng cất chứa. Chỉ thanh bần tự
luyện lọc chẳng dám phạm vào lúa mạ, động tâm niệm của người khác, kín đáo dẹp
bỏ vọng tình, sâu vào thiền vị thì biện luận giỏi thấy dường như câm, rất khéo
thấy dường như vụng, thề ở dưới muôn người, chẳng cao hơn một người. Khiêm tốn
hạ mình chẳng ỷ vào sở trường của mình mà xem thường người không có khả năng.
Chỉ sợ một niệm chẳng đặt nơi đạo, chẳng khắc kỷ, chẳng lợi vật, chẳng tham cứu
tâm. Chánh niệm tham học luôn luôn cố gắng, chẳng đến chỗ ruộng đất của người
xưa thì dầu có gặp cảnh thuận chẳng biến, cảnh nghịch chẳng đổi, ắt hy vọng sau
nầy vượt lên cao, đến chỗ xa. Được như vậy thì suốt đời chẳng động mà cũng được
dạo đi khắp nơi, cũng được đều không gián đoạn.
Thiền nhân Chánh-Văn viết thư đến cầu
lời cảnh sách. Tôi thuận tay viết vài lời khai thị. Nếu thật có thể chẳng trái
lời nầy ắt chẳng nhục cái danh người tham thiền.
II. Người
xưa học đạo có linh nghiệm là vì tâm trộm cắp chết hết.
Tâm trộm cắp còn một mảy lông chết chẳng hết
thì muôn kiếp không có lý tự thành. Nói thẳng ra, chết được một phần tâm trộm
cắp thì học được một phần đạo, chết được tâm trộm cắp năm phần thì học được năm
phần đạo, tâm trộm cắp hoàn toàn không thì toàn thể là đạo; bởi vì sự chướng
đạo của tâm trộm cắp giống như bụi bặm che mất ánh sáng của gương.
Người thời nay chỉ biết có đạo để
thành mà chẳng biết có tâm trộm cắp nên hết. Hoặc tâm trộm cắp chưa hết mà muốn
đạo được thành, khác gì ngồi ở trong nước mà muốn đừng ướt, xưa nay trong thiên
hạ không có lẽ đó.
Thuở xưa, Hòa Thượng Vĩnh Minh thống
thiết nói: "Tình sanh trí cách, tưởng biến thể thù", nghĩa là: tình
cảm nổi dậy thì trí huệ bị che lấp, tư tưởng biến đổi thì thân thể cũng theo đó
mà biến dạng, khiến công án sẵn sàng, của báu gia truyền chẳng được thọ dụng.
Tình sanh tưởng biến tức là biệt danh của tâm trộm cắp mà tôi vừa nói. Muốn cho
bất cứ lúc nào tình chẳng sanh, bất cứ chỗ nào tưởng chẳng biến thì cần phải
thật đem việc lớn sanh tử để ở trong lòng lấp bít ý căn, tình vừa muốn sanh thì
bị nó ngăn, tưởng toan muốn biến liền bị nó đoạt. Ông nếu chẳng thiết tha vì
việc lớn sanh tử, ở trong lòng khán câu thoại đầu quyết cầu ngộ chứng mà chỉ
một bề đè nén cho tình tưởng kia chẳng sanh chẳng biến, khác chi người đã chết
mà còn muốn thở ra hít vô để làm gì!
Người xưa có câu: "Tham
thiền không bí quyết, chỉ cần sanh tử thiết". Lời nầy thật thông suốt cả
ba đời, là cội gốc lớn của sự học đạo. Ví như chẳng lấy sanh tử vô thường làm trách
nhiệm nặng nề của mình, nằng nặc muốn hiểu thiền, hiểu đạo, mà tham cứu việc
nầy, thì giống như bảo người tịch cốc (những
người suốt đời không biết đói, không cầu ăn), đi cấy trồng mà chẳng
biết đó chẳng phải là việc của họ (vì họ không cần ăn thì cày cấy để làm
gì).
Bậc tiền bối ba mươi năm, năm mươi năm
chí càng bền, niệm càng thiết, hạnh càng siêng và chẳng chịu có chút gián đoạn,
chẳng phải do thầy bạn cảnh sách, tòng lâm khuyến khích, ngôn thuyết chỉ bày,
phương tiện khuyến tấn mà được như vậy. Mà bởi cội gốc của các Ngài chỉ là một
cái chí nguyện thống niệm sanh tử chưa giải quyết xong. Giả sử đời nầy chẳng
xong thì đời nào mới xong! Niệm tấn đạo nếu tự chẳng chân thật thiết tha, dẫu
Phật Tổ có thần dị đổi phàm thành Thánh, khiến A-La-Hán khởi tham sân si, tuy
cố mà làm đó, quyết chẳng thể lâu được.
Có người vì muốn hiểu đạo mà học
đạo, mà không phá được cảnh duyên phù huyễn nổi trước mắt, lại bị cảnh duyên đó
làm cho vọng niệm khởi lên chẳng dừng. Vọng niệm đã khởi thì dầu sức học đạo
như núi gò, sẽ thấy có ngày bị vọng niệm làm hại. Kinh Lăng Nghiêm nói:
"Cuồng tâm nên ngưng nghỉ, ngưng nghỉ tức Bồ Đề". Cái gì là cuồng
tâm? Hễ ngoài việc thống niệm sanh tử, đề câu thoại đầu sở tham ra, dù có làm
trăm ngàn điều siêu việt thế gian, đều chẳng khỏi bị chê là cuồng tâm.
Tổ Thiếu-Lâm nói: "Ngoài
dứt các duyên, trong không nghĩ tưởng, tâm như tường vách, có thể vào
đạo". Nhưng "vào đạo" gác lại. Tâm nầy có từng như tường vách
hay chưa? Nếu chưa mà mong muốn nhập đạo, đó là điều chẳng tự xét.
Tham thiền cả một đời chẳng ngộ,
học đạo cả một đời chẳng rõ, chỉ cần chẳng dễ dàng buông bỏ cái chánh niệm nầy
để tham để học thì chắc chắn có ngày đến được chỗ cùng tột. Nếu bỏ chánh niệm
nầy vọng đem thức tình xuyên tạc, lấy lời người khác làm kiến giải của mình,
dẫu hiểu hết cổ kim, tọa đoạn (quét sạch) Phật Tổ cũng đều là dối trình cuồng
kiến, tự mang tội lỗi, chẳng phải là điều của người chân thật học đạo làm.
Thiền-nhân Văn gửi thư đến cầu pháp
tham thiền, nhân lúc không có khách đến, thuận tay bất giác viết dây dưa như
thế, ông như có chí thì lời nầy của tôi cũng chẳng hóa ra vô ích. Hãy cố gắng
lên!
KHAI THỊ
THIỀN NHÂN KHẢ ÔNG NHIÊN
Ở
HẢI ĐÔNG
I. Núi
sông đất đai chẳng ngại nhãn quang, sáng tối sắc không qui về tự kỷ. Cử tâm
động niệm chẳng phải người khác, thấy sắc nghe tiếng xưa nay sẵn sàng.
Vì tự chẳng về, về liền
được,
Cảnh đẹp quê hương có ai
tranh.
Những lời nói nầy, người có chút thông
minh nghe qua đều biết có. Dầu cho ông ghi nhớ được nhiều, nói được thông
thuộc, đối với sanh tử tình vọng của chính mình muốn hoàn toàn quét sạch thì
xiết bao xa cách như trời với đất. Hiện nay ở bên bờ sanh tử, mở to đôi mắt
giữa ban ngày, đối thanh đối sắc, gặp thuận gặp nghịch, hễ có một niệm khởi
diệt càng thấy quét sạch chẳng nổi, mà dẫu cho đối với thị phi thuận nghịch mỗi
mỗi đều quét sạch được, cái biết quét sạch ấy cũng là lấy trò đồng bóng làm chủ
tể, mà sống theo nhà ma quỷ, có dùng được gì!
Hiện nay nhiều nơi dạy người tham
thiền phần nhiều chỉ tham những loại thiền nầy, chỉ quý thuyết thông, chẳng cầu
tâm ngộ. Nếu cái tâm chí linh này chẳng từng hướng lên trên ruộng đất chân thật
triệt ngộ một phen, mặc cho ông lấy cái tư chất thông minh hướng vào trong bụng
Thích Ca, Đạt Ma cho đến Lâm Tế, Đức Sơn nhất thời chạy qua trăm vòng, ngàn
vòng thấy suốt tim phổi, cũng chính là si cuồng chạy ở bên ngoài vậy.
Người chân thật có chí vì sanh
tử, hẳn chẳng chịu đạp bước vào lối mòn nầy. Chỉ nắm lấy một câu thoại đầu sở
tham vô nghĩa vô vị đó liền tại trước mắt tương tự như người chết. Duy có một
cái tâm chân tham thật cứu, không khởi một chút vọng tưởng muốn hiểu thiền,
hiểu đạo. Giả sử chính ngay lúc tham, Thích Ca, Di Lặc đem hết tam muội đổ trút
vào bụng ông, ngay lúc ấy ông phải mửa ra hết, tình nguyện suốt đời chẳng hiểu
Phật pháp, quyết chẳng ở trước khi chưa ngộ vọng đem ý thức hướng vào sự kỳ-đặc
của người khác lập bày, thấm lấy một điểm vào trong tâm thức, đó là đàm dãi con
chồn ([1]) hay
khiến cho người ta mắt thấy hoa đốm giữa hư không, si cuồng chạy bên ngoài,
không giúp được gì cả. Ông nếu tham đến trăm năm sau rõ ràng ở dưới thân mình
không có chỗ xu hướng, chính là người tốt thanh tịnh bậc nhất. Ông chỉ cần lòng
tin chẳng lui sụt, đời sau quyết định ông có cái thời tiết chân chánh ngộ đạo.
Ông nếu muốn gấp hiểu thiền, thì ngay cái gấp nầy chính là hướng vào trong lưới
luân hồi rồi vậy. Ngài Qui Sơn nói: "Tông nầy khó được cái chỗ sâu mầu
nhiệm của nó, rất cần phải kỹ lưỡng dụng tâm".
Lão huyễn (Ngài
Minh Bổn tự xưng) nói
như thế chỉ muốn người quyết liễu việc lớn sanh tử, chẳng muốn người chỉ lo đem
tâm thức hướng lên con đường nghĩa lý xuyên tạc cổ kim. Ông nếu vượt qua sanh
tử chẳng nổi, phải bước chân nhằm vào thực tế như vậy mà đi! Ông nếu chỉ muốn
hiểu Thiền, Phật cũng chẳng giúp gì cho ông được.
Khả-Ông cầu cảnh sách, lão huyễn
viết như thế.
II. Người
xưa nói: "Thần quang chiếu khắp (kiến tánh) là đạo quý nhất của muôn đời, vào cửa
nầy rồi, chớ còn tri giải".
Kinh Lăng Nghiêm cũng nói: "Tri
kiến lập tri tức gốc vô minh, tri kiến vô kiến tức là Niết Bàn".
Từ xưa chư Phật, chư Tổ quét
sạch tri giải của người học chẳng phải là vô cớ. Bởi vì đạo nầy là pháp môn
nhất-tướng bình đẳng, dày như đất đỡ nâng, rộng như trời trùm khắp, không có
chỗ nào cho ông đặt tâm, không có chỗ cho ông để ý, không có chỗ cho ông ra
sức, nhẫn đến không có chỗ cho ông ngồi, chỉ quý trước lúc chưa đi ỉa (chưa
ngộ), xa được liền hành, vừa muốn nghĩ suy thì chẳng dính dáng.
Người thời nay thấy nói như thế,
liền đem ý thức ra lãnh hội, rơi vào trong lưới tri giải, chẳng cầu cái ngộ
chân chánh. Ông nếu chẳng từng chân chánh nhắm dưới gót chân rõ ràng khai ngộ
một phen thì mặc cho ông đem hết những ngữ ngôn tương tự trong Truyền Đăng Lục
dùng tâm ý thức gánh vác, y theo người khác để hiểu, luôn luôn nói: "Việc
nầy xưa nay đầy đủ, Phật cùng chúng sanh nguyên không thiếu kém, bình thường
mặc áo ăn cơm đều là tam muội sẵn sàng, ông muốn đem tâm riêng cầu Phật pháp,
trở thành thịt da lành lặn, khoét thành vết thương". Nói được cũng tương
tợ, ngặt vì ông chưa hướng vào chỗ tình quên, thức hết mà ngộ. Vì ông chưa ngộ
nên nói càng gần thì thức tình càng mạnh. Nếu là người muốn rõ việc lớn sanh tử
thì chẳng chịu khi chưa ngộ lầm giữ lấy tri giải, lầm hiểu Phật pháp. Bất cứ
lúc nào cũng chỉ nắm lấy câu thoại đầu vô nghĩa, vô vị để tham, tương tợ như
gậm một thanh sắt sống. Sáng gặm chẳng đứt, chiều gặm nữa; năm nay gặm chẳng
đứt, sang năm gặm nữa; càng gặm chẳng đứt thì không ngừng gặm, chẳng chịu bỏ
ngang. Nói gì ba mươi năm, năm mươi năm, gặm đến chỗ cùng cực, thì có thời tiết
đứt gãy. Chỉ cần có lòng tin kiên cố chẳng đổi chẳng dời, muốn gặm đứt thì đâu
có lẽ nào không xong việc lớn. Chỉ vì cái chánh niệm hướng đến đạo của ông
chẳng kiên cố chẳng miên mật, chưa từng đặt chân vững chắc lên câu thoại đầu sở
tham nên ngẫu nhiên thấy người nói tương tợ Bát-Nhã lại đem tâm học giải. Nếu
như còn giữ những thứ kiến giải lầm lạc nầy mà muốn chân chánh ngộ-minh, ấy là
đi sụt lùi mà muốn tiến tới trước, không có lý nầy vậy.
Thủ-tọa Khả-Ông mang tư chất thông
minh, có chí lớn quyết liễu thoát sanh tử, ban đầu vô cớ rước lấy một thứ tương
tợ tri giải. Hơn ba năm ở núi, gần đây mới tin được nổi và chẳng bị tri giải
làm mê hoặc. Nay khởi niệm nhớ cố hương, lập chí lớn nguyện hết những năm về
chiều ra sức tham cứu đến chỗ cùng tận sâu xa để mong chánh ngộ. Ông lại viết
thư xin lời cảnh sách, do đó tôi dẫn lời trước để dạy ông. Còn có một câu sau
cùng hai tay xin trao gửi:
Phải nên chỗ ngộ cầu siêu
việt,
Chớ nhằm bên nghe, giữ
kiến tri.
Hãy nhớ lấy! nhớ lấy!
KHAI THỊ
THỦ TỌA LINH TẨU CỔ
Tham thiền phải giải quyết xong cái
nghi tình sanh tử. Cái nghi nầy đã giải quyết, thì tất cả thị phi sai biệt đồng
thời đều giải quyết. Đã giải quyết xong như thế mới biết xưa nay không một vật.
Ở chỗ không một vật cũng không có người nghi, cũng không có người sanh tử, cũng
không có người giải quyết, cũng không có người nhận lời nói như thế, tất cả đều
thâu về tự kỷ, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, pháp tánh xưa nay bình đẳng.
Đến chỗ này còn nói có một tí ti như vi trần là Phật, là pháp, là thiền, là đạo
đều rơi vào vọng duyên. Thiền đạo, Phật pháp còn là vọng thì há nghi cùng chẳng
nghi chẳng phải là vọng ư?
Ông nếu thật chưa từng hướng về tự kỷ
triệt ngộ một phen chưa thấu suốt nguồn đáy, bèn hướng vào trong tâm trần lao
hư vọng phóng túng sanh ra vọng kiến, lấy câu: "Bổn lai vô nhất vật"
của người khác, dùng tình ý thức hòa hội suy tính rồi nói không có tam giới để
ra, không có Niết Bàn để chứng. Nói được cũng tương tợ, song chỉ là lời nói
thôi, nên đều trở thành vọng kiến; tính đem vọng kiến để thoát sanh tử thì có
khác nào ôm củi chữa lửa, lửa càng cháy mạnh, thật là vô lý.
Ông nếu chân thật muốn hạ thủ
công phu, trước tiên đem cái việc lớn sanh tử vô thường đặt ở trong lòng không
cho có chút gián đoạn chỉ đề một câu thoại đầu, hết một báo thân nầy hướng
thẳng tới trước đi. Điều thiết yếu là chẳng được nghĩ trước tính sau, hạ thủ
công phu được, cũng như thế ấy hạ thủ, hạ thủ công phu chẳng được, cũng như thế
ấy hạ thủ. Lâu ngày chẳng thay chẳng đổi, công phu thuần thục, việc hay giỏi
đều quên, các vọng đều tiêu, bất giác bất tri ngộ nhập.
Công phu có thuần thục hay không thuần
thục, nghi tình có khởi hay không khởi. Người xưa nói: "Tham thiền không
bí quyết, chỉ cần sanh tử thiết". Một cái tâm vì việc lớn sanh tử nầy của
ông chí thiết chí chân, chỉ từ trên cái tâm chân thiết đều là nghi tình, tự
nhiên chẳng cần buông bỏ hay bày đặt. Làm lâu ngày, cái tâm thiết tha vì sanh
tử chẳng gián đoạn thì đầu đuôi xuyên suốt, thì còn có pháp nào có thể làm
chướng ngại!
Cái chánh niệm vì sanh tử của ông
chẳng chân chẳng thiết, chỉ lo cố đề thoại đầu khởi mạnh nghi tình, quyết định
chẳng thể khai ngộ. Hễ cố được một lúc thì nghi được một lúc, cái tâm cố làm đó
thối một chút thì nghi tình cũng theo đó mất luôn.
Chỉ cần ở chỗ công phu chẳng
thuần thục, chẳng nên cố khởi nghi tình, chỉ cần đem sanh tử vô thường suy nghĩ
một bận xem, thấy đến không biết phải làm sao, không có phương tiện có thể phá
trừ, duy có một câu thoại đầu. Lại mạnh mẽ đề khởi cùng nó hạ thủ đi, hạ thủ
được, cũng như thế ấy hạ thủ, hạ thủ chẳng được, cũng như thế ấy hạ thủ. Hạ thủ
đến chỗ chẳng biết làm thế nào, bèn là lúc công phu thuần thục, cũng chẳng nên
nghĩ là thuần thục, chỉ đầu đuôi nối nhau hạ thủ đi! Hạ thủ như thế mà chẳng triệt
chứng thì thật vô lý!
Nói khó nói dễ đều do người đó
dùng sự suy lường của mình mà phân biệt, chứ thật ra tuyệt không có khó dễ. Như
Đức Sơn thấy thổi tắt cây đuốc, liền lãnh hội, Linh Vân thấy hoa đào, ngay khi
ấy lãnh hội. Cơ duyên như thế là dễ hay khó. Phải biết ở trên phần của Đức Sơn,
Linh Vân là dễ, ở trên phần người khác thì chẳng phải dễ. Ông nếu chẳng lấy
việc lớn sanh tử làm nhiệm vụ nặng nề của mình, quyết ý tham vấn nguyện cầu
chánh ngộ, dẫu cho đem 1700 công án, mỗi mỗi chú giải để cho ông hiểu, có thể
nói là dễ đấy. Song chẳng biết hiểu lời nói là dễ, thấu được sanh tử tình vọng
kia thì khó đó lại khó. Chỉ cần tin được một câu thoại đầu liên tục tham cứu,
cũng chẳng cần hỏi là dễ hay khó. Lâu ngày tâm tánh sáng suốt thì khó cùng với
dễ chẳng cần phải nói.
Chữ "KHÔNG" và
"Sau khi chết, thiêu rồi, cái gì là tánh của ta" đã là hai lớp, dù
tôi có chỉ ông thoại đầu thì chẳng xiết lộn xộn, công phu càng thấy đa đoan.
Hôm nay ông chỉ cần đem hai câu thoại đầu kể trên xem câu nào được thuần thục
hơn, rồi chỉ lấy một câu khán được thuần thục đó, đứng vững gót chân, cứ như
thế một niệm muôn năm hạ thủ đi. Hạ thủ không ngừng, một chỗ thấu thì ngàn muôn
chỗ đồng thời thấu. Hạ thủ đến chỗ quên cả mê ngộ, mất hết Thánh phàm, nhìn lại
thấy một ngàn bảy trăm tắc công án đều là lời nói dư, chỉ là mạt vàng làm
loà mắt mà thôi. Hãy kỹ lưỡng, hãy kỹ lưỡng!
Ba năm nay, tôi không viết chữ
cũng không nói chuyện với người, vì ông từ xa đến hỏi, bất giác nói dây dưa như
thế.
KHAI THỊ
THỦ TỌA UYÊN Ở HẢI ĐÔNG
Trên công phu nói khởi
nghi tình, phải biết nghi tình vốn không có những việc chỉ bảo truyền thụ, cũng
không có hình dạng, cũng không có tri giác cũng không có cán nắm, cũng không có
xu hướng, cũng không có phương tiện, cũng không có tạo tác an bài v.v... lại
không riêng có đạo lý có thể sắp đặt chỉ bảo được để làm cho ông khởi nghi.
Chỗ gọi là nghi đó, chỉ
là một việc lớn sanh tử ngay nơi bản thân ông chưa từng sáng tỏ, chỉ nghi việc
lớn sanh tử nầy vì sao từ vô lượng kiếp đến nay trôi lăn mãi đến ngày hôm nay
là cái lỗ mũi nào. Lại vì sao từ ngày nay bị trôi vào tận đời vị lai, quyết
định có ngày nào xong? Chỉ cái nầy là chỗ nghi. Từ xưa Phật Tổ đều từ cái nghi
nầy nghi mãi chẳng thôi tự nhiên đường tâm bặt, tình vọng tiêu, tri giải hết,
năng sở quên, bất giác hốt nhiên tương ưng, tức là thời tiết của nghi tình vỡ.
Người xưa cũng
chẳng từng đi khán thoại đầu, tham công án, lên bồ đoàn làm hình thức, mà chỉ
thiết tha ở trên việc lớn sanh tử khởi nghi, đi ba ngàn dặm, năm ngàn dặm tìm
gặp thiện tri thức, chưa kịp cởi giày cỏ đã liền nói ngay: "Con vì việc
lớn sanh tử, vô thường nhanh chóng". Ngàn người, muôn người đều như thế,
xuất gia như thế, hành cước (du phương) như thế, cầu thiện tri thức như thế,
học đạo như thế, chẳng làm cái việc thứ hai nào khác, giả sử có cũng chẳng làm.
Từ đời sau đến ngày nay, dưới
Thiền Tông chẳng nên có những lời dây dưa phổ biến, thường thường chân chưa
bước vào cửa đã bị một thứ ngữ ngôn nầy dẫn dụ đem đi vào trong hang ổ dây dưa
trói buộc, gọi là Phật pháp, gọi là Thiền đạo, bị cuốn vào trong lưới tri giải
chẳng được xuất đầu, chỉ thêm đa văn là sở tri chướng, đối với đạo chẳng từng
có chút dính dáng. Các bậc tôn túc gần đây chẳng nỡ thấy trong tùng lâm có một
tệ bệnh nầy, chưa đợi ông mở miệng, chỉ đem một câu thoại đầu vô nghĩa vô vị
quăng ra trước mặt người học, chỉ muốn ông buông bỏ tất cả thân tâm, thế giới,
các duyên tạp niệm và thiền đạo, Phật pháp, ngữ ngôn, văn tự v.v...Chỉ dạy ông
hướng lên trên câu thoại đầu nầy khởi đại nghi tình tham cứu đi!
Chính ngay lúc
tham cũng chẳng phải muốn rõ Phật pháp mà tham, cũng chẳng phải muốn hiểu thiền
đạo mà tham, cũng chẳng phải muốn cầu tất cả tri giải mà tham. Chỗ dụng tâm
tham chỉ là chính mình có cái việc lớn sanh tử vô thường mà không biết làm sao?
Vì thế tham đến chỗ thoại đầu vỡ thì việc lớn sanh tử cũng theo đó đều vỡ. Chỗ
việc lớn sanh tử rõ thì tất cả ngữ ngôn văn tự cũng theo đó đều rõ. Ngoài sanh
tử ra, không riêng có thoại đầu. Ngoài thoại đầu ra không riêng có sanh tử.
Từ xưa cổ nhân
chỉ nghi sanh tử mà liễu ngộ đạo, người thời nay chỉ nghi thoại đầu mà liễu ngộ
đạo. Cái việc khởi nghi tình dường như có khác, nhưng cái đạo ngộ kia thật
không xưa không nay, không tạp không khác.
Chính đương lúc
nghi thoại đầu cũng chớ cầu phương tiện, cần phải tin tham thiền không có
phương tiện; cũng chớ cầu xu hướng, phải biết tham thiền không có xu hướng;
cũng chớ cầu cán nắm, phải biết tham thiền không có cán nắm. Nói phương tiện
thì câu thoại đầu là phương tiện, câu thoại đầu là xu hướng, câu thoại đầu là
cán nắm. Chỉ cần tin được nổi, dựa được ổn. Đời nầy tham câu thoại đầu, quyết
định phải ở trên câu thoại đầu nầy thấu triệt, như chưa thấu triệt cũng không
sao, chỉ vì tự mình thiếu sự gan dạ, thiếu sự kiên cố, thiếu sự bất thoái
chuyển, thiếu niềm tin và sự nắm chắc mà thôi. Chỉ cần nắm được chánh niệm tham
câu thoại đầu cho chắc, cũng đừng để ý đến hôn trầm tán loạn, cũng đừng để ý
đến động tịnh nói nín, cũng đừng để ý đến sanh, già, bệnh, chết, cũng đừng để ý
đến khổ vui thuận nghịch, cũng đừng để ý đến thành tựu hay chẳng thành tựu
v.v... cho đến trừ cái chánh niệm tham câu thoại đầu nầy ra,dẫu cho tam thế chư
Phật, lịch đại Tổ Sư đồng thời hiện ra trước mặt đem pháp yếu vô thượng đệ nhất
nghĩa đế trút vào trong bụng ta, cũng cần phải lập tức mửa ra, và cũng đừng để
ý đến các Ngài. Bởi vì việc nầy chẳng ở trên Phật Tổ, chẳng ở trên cảnh duyên,
chẳng ở trên văn tự, chẳng ở trên tri giải, chỉ ở chỗ tột cùng là ông tin được
việc lớn sanh tử vô thường. Vì chẳng biết phải làm sao để giải quyết vấn đề
sanh tử nên phải tham thoại đầu của cổ nhân. Trừ một cái niệm tham thoại đầu
của cổ nhân nầy ra còn muốn hướng vào trong một niệm thứ hai tìm kiếm thì giống
như vạch sóng tìm nước vậy. Cổ nhân nói:"Mật ở bên ông". Và đâu từng
có một pháp cho người để thấy nghe, để nắm giữ. Hôm nay dạy ông khán câu thoại
đầu đã là bất đắc dĩ rồi. Nếu ngoài câu thoại đầu nầy ra, lại suy nghĩ tính
toán càng không dính dáng. Lâu ngày, về sau công phu thuần thục, thời tiết đến,
nghi tình vỡ. Phải biết nghi đó, tham đó cho đến cùng câu thoại đầu quy về tự
kỷ, lại không có một pháp có lý lẽ, cũng không có một pháp là liễu hay chẳng
liễu, cho nên trong Kinh nói: "Sum-la vạn tượng, một pháp sở ấn". Chỉ
một pháp cũng không có chỗ tìm, há có câu thoại đầu ư? Chỉ cần tin nhận, quyết
chẳng gạt nhau.
Thiền nhân Uyên ở Hải
Đông hằng ngày ở trong tăng đường, nhân khán thoại đầu chưa xong, viết thư cầu
chỉ dạy, tôi viết vài lời đáp ông như thế.
KHAI THỊ
THIỀN NHÂN VÔ ĐỊA LẬP
Bốn chữ "hồi quang phản
chiếu" là cảnh giới độc thoát phàm tình, siêu nhập lãnh vực đại ngộ. Ông
công phu chưa tới chỗ nầy thì quang làm sao hồi, chiếu làm sao phản. Ông nếu
chưa chân chánh ngộ minh hễ có lý để hồi để phản đều là tự dối. Vì ngộ đến chỗ
triệt thì tâm quang chẳng đợi hồi mà tự hồi, giác chiếu chẳng đợi phản mà tự
phản. Vì không có đối đãi nên cũng không có quang để hồi, cũng không có chiếu
để phản, ấy là nhất hạnh tam muội. Từ xưa, Phật Tổ đều nhằm vào chỗ nầy đặt gót,
chứ chẳng phải chỗ ý thức tình vọng có thể đến.
Hiện nay có một bọn người ngu
si ở chỗ vắng lặng thâu cái thấy nghe tuyệt kiến văn tương tợ như gỗ đá, gọi là
hồi quang phản chiếu, chiếu như thế ấy ba mươi năm,niệm niệm muốn thoát sanh tử
chẳng được.
Chỉ cần mạnh mẽ đề khởi
câu: "Triệu Châu vì sao nói chữ KHÔNG?”. Ngày đêm tham cứu, đi cũng nghi,
ngồi cũng nghi. Chính đương lúc khán như thế, điều thiết yếu là chẳng được
tưởng là hồi quang phản chiếu. Chỗ tham cứu chẳng được, chính là lúc tán thân
bỏ mạng. Lâu ngày thuần thục hốt nhiên khai ngộ, chẳng từng tự biết mà hồi
quang phản chiếu hoàn tất vậy. Nếu còn cho là hồi quang phản chiếu thì vẫn y
như xưa, chưa được ngộ.
Thiền nhân
Vô-Địa-Lập cầu lời cảnh sách, tôi viết như thế.
KHAI THỊ
THƯỢNG CHỦ PHÙ
Như nói trong 24 tiếng đồng hồ làm chủ
chẳng được, chẳng biết lìa câu thoại đầu sở tham nầy ra, lại gọi cái gì làm
chủ? Phải biết chính câu thoại đầu nầy là chủ của ông. Chỉ cần thường khiến cho
câu thoại đầu sở tham nầy chẳng lìa tâm niệm, ấy là làm được chủ, cũng chẳng
nên nghĩ là làm được chủ. Ý của người xưa trước kia chẳng từng nói đến
"làm chủ", như Tổ Qui-Sơn nói: "Có làm chủ tể chớ theo nhân
tình" là lời nói tạm thời sách phát sự tinh tấn cho người, chứ chẳng phải
đạo.
Lại nói ở trên hôn trầm, tán loạn, thị
phi, nghịch thuận khán thoại đầu. Lời nầy không có đạo lý khó hiểu, chỉ tại ông
hiểu chẳng được, cố sanh tri kiến. Như đang khi khán thoại đầu chợt các cảnh
hôn trầm, tán loạn, thuận nghịch hiện tiền thì phải phấn chấn tinh thần hướng
vào trong hôn trầm, tán loạn khán, lâu ngày hôn trầm, tán loạn, tình vọng thuận
nghịch tự tiêu. Có người thấy các cảnh hôn trầm, tán loạn, thuận nghịch nầy
hiện tiền bèn sanh nghi, rồi lầm cho rằng chắc còn có phương tiện nào khác để
trừ khử các thói quen hôn trầm, tán loạn v.v...Lại đổ lỗi cho căn khí, túc
nghiệp, các thứ cảnh duyên, vừa khởi tâm nầy thì ở trên hôn trầm, tán loạn
chồng thêm hôn trầm tán loạn, ở trong thuận nghịch lại thêm thuận nghịch. Vì
thế dạy ông lúc hôn trầm tán loạn chỉ ở trên hôn trầm tán loạn khán, cũng chẳng
phải có vật gì khác để khán, cũng chẳng phải khán hôn trầm, tán loạn là vật gì?
Cũng chẳng dạy ông ở trong hôn trầm tán loạn, thuận nghịch v.v... tìm cái lỗ
mũi nào khác. Chỉ dạy ông ở trên hôn trầm, tán loạn v.v...chỉ đề khởi thoại đầu
tự khán, hằng chẳng buông bỏ, cũng chẳng vọng khởi niệm thứ hai phân biệt đây
là hôn trầm, tán loạn, thuận nghịch v.v… Hạ thủ công phu chỉ cần ngộ thoại đầu,
chẳng cần ông bài trừ hôn trầm, tán loạn v.v...Ông chỉ cần thống thiết nghĩ đến
việc lớn sanh tử vô thường, đơn đề một câu thoại đầu khởi lên đại nghi tình để
cầu chánh ngộ. Hễ niệm sanh tử thiết tha thì tự nhiên thoại đầu miên mật. Ở chỗ
khán thoại đầu miên mật, hôn trầm tán loạn tự nhiên chẳng hiện. Lúc hạ thủ công
phu thấy có hôn trầm tán loạn v.v...tức là cái niệm vì sanh tử của ông chẳng
thống thiết, niệm khán thoại đầu chẳng miên mật.
Lại nói ở trên thoại đầu khởi
nghi tình sợ rơi vào suy nghĩ. Nói vậy là sai rồi. Người xưa chỉ vì việc lớn
sanh tử chưa giải quyết, hai ba mươi năm đi ba ngàn dặm, một muôn dặm, gặp
thiện tri thức liền thưa: "Con vì việc lớn sanh tử", chứ đâu từng
khán thoại đầu, khởi nghi tình. Tuy chẳng khán thoại đầu, khởi nghi tình mà cái
tâm vì việc lớn sanh tử chưa giải quyết, chính là chỗ nghi của người xưa.
Người tham học thời gần đây có
cái khổ là chẳng lấy sanh tử làm việc lớn, lại còn thêm ngữ ngôn rườm rà của
Thiền Tông càng nhiều, khiến cho người học chưa bước vào cửa, trước đã lấy sự
ghi nhớ ngữ ngôn làm sự nghiệp, khiến cho cái chánh niệm vì sanh tử bị ngăn
cách. Cho nên các bậc tôn túc thời gần đây bất đắc dĩ đem câu thoại đầu vô
nghĩa vô vị ném vào trong ruộng bát thức của ông, bảo ông bỏ đi tất cả tri
giải, chỉ hướng vào chỗ chưa hiểu của câu thoại đầu nghi đi. Cái nghi tình như
đụng nhằm núi bạc vách sắt trước mặt không có một bước có thể tiến, vừa khởi
niệm thứ hai là rơi vào suy lường. Hễ chẳng khởi niệm thứ hai tức là nghi tình,
trong nghi tình nầy tự nhiên cắt đứt tất cả các bệnh tri kiến, giải hội, hốt
nhiên ông ở chỗ nghi đụng nhằm lật ngược (ngộ) mới biết như một lời nửa câu của cổ
nhân thật là đống lửa lớn, là suy mao kiếm ([2]) chẳng
thể phạm được. Hễ dốc lòng tin thì không việc gì chẳng xong.
KHAI THỊ
THIỀN NHÂN NHẬT BỔN NGUYÊN
Tâm nầy mê thành sanh tử, ngộ
thành Niết Bàn. Vậy cái mê sanh tử hẳn là khó trừ, nhưng trái lại chẳng biết
Niết Bàn của ngộ vẫn là mạt vàng rơi vào mắt. Phải biết Bát-Nhã như đống lửa
lớn chẳng cho tất cả ghé vào. Ông hạ thủ công phu, tâm chẳng chịu chân thật
thiết tha, chẳng thể ở trên một niệm đầu tiên làm mù (không
biết gì hết) để tọa
đoạn, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ ngây ngây tương tợ như người chết dựa
vào câu thoại đầu sở tham, tất cả đều chém đứt. Người học thường ở chỗ tọa
chẳng đoạn mà sanh ra sự tính toán sai khác, cho là khó, là dễ, dẫn khởi tình
vọng sai biệt lăng xăng giao tiếp, lòng chẳng thể tùy chỗ cắt đứt. Rồi lập mười
điều nguyện nặng, muốn dựa vào sức của các nguyện nầy cắt đứt những suy nghĩ
vẫn vơ, vọng tưởng hư huyễn như đá đè cỏ, dẫu cho có lập ngàn điều nguyện nặng
cũng đè chẳng được, càng thấy xa xôi.
Ông chẳng nghĩ sanh tử vô thường
là một đoạn nhân duyên lớn nhất từ vô thỉ. Ông cần muốn tương ưng thì không có
phương tiện nào khác hơn là chỉ có một câu thoại đầu sở tham, ngay đây chỉ cần
một phiến chánh niệm quyết định chẳng thoái chuyển, chẳng đổi dời, sống cùng nó
sống, chết cùng nó chết. Giả sử khi chưa ngộ, ngàn Thích Ca, muôn Di Lặc trút
cả bốn biển Phật pháp vào lỗ tai ông cũng đều là trần lao hư vọng chứ chẳng
phải cứu cánh. Chỉ vì cái chánh niệm của ông chẳng vững vàng nên điên đảo cuồng
vọng ngàn đường muôn lối trọn không có lúc thôi nghỉ.
Cẩn trọng! cẩn trọng!
Thiền nhân Nguyên hãy cố gắng!
KHAI THỊ
THỊ GIẢ TỰ HẢI VĂN
Phật Tổ thuở xưa thống thiết vì việc
lớn sanh tử chưa giải quyết xong, nhiều kiếp ở trong biển Bồ Đề huân tập sâu
dầy, luyện kỹ chẳng phí phút giây cho đến ở trong pháp Bồ Đề bỏ trăm ngàn muôn
ức thân mạng, xem phú quý ân ái chẳng khác nào bụi bay qua mắt. Một niệm chăm
chăm đề khởi câu thoại đầu vô nghĩa vô vị của cổ nhân, quên lạnh quên nóng, bỏ
ngủ bỏ ăn, chẳng đến chỗ đại phát minh, chỗ hoàn toàn thôi nghỉ thì chẳng thôi.
Đủ thế tài như thế, mỗi mỗi thấu đảnh thấu đáy, đầu đuôi xâu suốt với nhau. Sau
đó đem chỗ sở đắc đưa vào lò rèn trui đi luyện lại để cho mảy trần sạch hết,
trắng trẻo thanh khiết, ở trên bờ sanh tử Niết Bàn dạo chơi tự tại, đây là
người tâm không thi đậu về. Đâu có giống như người thời nay gót chân cạn cợt
chẳng chịu tử tâm, tử chí hướng vào chỗ chân thật đứng vững gót chân để cầu
chân thật giải thoát, chỉ quý ở trên sách vở ghi nhớ, bên miệng nói tai nghe,
nhiễm thành thói quen chỉ muốn hiểu thiền là xong. Trái lại, chẳng biết việc
lớn sanh tử ở dưới gót chân vẫn y như cũ đen như dầu hắc, chẳng những vô ích mà
còn hại nữa.
Thị giả Tự-Hải-Văn cầu lời cảnh
sách, tôi khai thị đường tắt nhập đạo như thế.
Hạ thủ công phu chỉ cần tin cho
nổi. Từ một niệm đầu tiên tin cho nổi, như vậy ba mươi năm vĩnh viễn chẳng sanh
niệm thứ hai. Càng tham chẳng được càng thêm tinh tấn, càng hạ thủ chẳng được
càng thêm dũng mãnh. Ông ở chỗ hạ thủ chẳng được, tham chẳng được, chợt sanh
một niệm nghi hoặc vọng kiến khởi các thứ tình giải hoặc phàm hoặc Thánh
v.v...đều rơi vào hầm sanh tử.
Tham thiền, nếu tham chẳng được
chẳng nên nói căn khí chậm lụt, chẳng nên nói nghiệp chướng nặng, chẳng nên nói
thời tiết muộn, chẳng nên nói chẳng gặp thiện tri thức. Đại ý chỉ vì một cái
chánh niệm vì sanh tử của ông chẳng chân chẳng thiết. Tâm nầy nếu chân thiết,
nói gì ba mươi năm, mà ba mươi đời cũng không sợ hãi, cứ mật thiết hướng tới
trước tham cứu. Cổ nhân nói:
Điều can trác tận trùng
tài trúc
Bất kế công trình đắc tiện
hưu.
(Cần câu gãy hết trồng
trúc khác
Chẳng tính công trình,
được mới thôi.)
Nếu ông chẳng đủ những thể tài nầy thì
tham thiền học đạo đều là kiến giải điên đảo. Người học đạo chân chánh cần phải
biết.
Thị giả Văn hãy cố gắng, lão
huyễn nói như thế.
KHAI THỊ
THIỀN NHÂN Ý
Phật pháp toàn thể của ông đầy
đủ, ông vừa chợt sanh một niệm muốn nhằm ở trên Phật pháp nắm lấy thì đã rơi
vào ý địa, không bao giờ cùng với Phật pháp tương ưng. Ông nếu chân chánh chẳng
chịu bỏ qua việc lớn sanh tử, lại chẳng hướng vào lúc một niệm chưa khởi mà
gánh vác, chỉ đem câu thoại đầu :"Khi tứ đại tan rã hướng vào chỗ nào an
thân lập mạng?". Tùy theo ông bất cứ ở chỗ nào đứng ngồi miên mật tham
cứu. Chính đương lúc tham, tất cả những nghĩa lý của Kinh điển và ngữ ngôn,
công án trong Thiền Tông từ xưa đến nay đã ghi nhớ được đều chẳng được nhớ nửa
chữ trong lòng, cũng chẳng được treo nửa chữ ở bên khoé miệng. Trong 24 tiếng
đồng hồ ngây ngây tương tự như xác chết biết đi. Chỉ như thế chuyên chú đề câu
thoại đầu sở tham, tham cứu lâu ngày chẳng lui sụt thì tự có cái thời tiết siêu
nhiên đốn ngộ. Ông nếu chưa đích thân đến cái thời tiết chánh ngộ nầy mà chỉ
muốn đem tâm ý thức hướng lên trên ngữ ngôn tương tợ hoà hội tri giải, dẫu cho
ông hiểu được một gánh Thiền đạo Phật pháp, đây gọi là "ăn đàm dãi con
chồn", muôn kiếp ông cũng không xong việc.
Thiền nhân Ý hãy nhớ lấy
KHAI THỊ
THIỀN NHÂN NHÂN
1. Chỉ có
niềm tin mới khiến cho mình đề khởi câu thoại đầu sở tham bất kể thời hạn, bền
bỉ tham đi tự nhiên có lúc ngộ nhập. Chẳng nên ở ngay lúc tham cứu sanh ra tất
cả tâm nghi ngờ, lại chẳng nên sanh tất cả tâm cầu mau khai ngộ. Ví như đi
đường, gắng sức ắt tự đến nơi.
Lúc tham thoại đầu, hạ thủ công
phu, hễ có tất cả kiến văn giác tri kỳ đặc, thù thắng, ứng nghiệm v.v... đều là
duyên ma, chỉ cần chẳng sanh tâm chạy theo, lâu ngày tự cởi mở. Ông nếu vừa
sanh một niệm tình chấp ưa thích thì rơi vào cảnh ma, tự cho là phát minh, trở
thành cuồng loạn.
Ngộ đạo như người đến nhà, cảnh vật
trước mắt đều là nhà cũ, mỗi mỗi tự nhiên ổn đáng rõ ràng, không còn có một mảy
may nghi hoặc. Nếu như còn nửa điểm nghi hoặc quyết định chẳng phải nhà cũ thì
phải tiếp tục tham cứu. Bằng không, thì vọng thành dị kiến.
Tham chữ "Không", chỉ
cần hướng lên trên chữ KHÔNG khởi nghi tình tham Triệu Châu vì sao nói chữ
“KHÔNG" nầy?. Trong 24 tiếng đồng hồ chỉ tham như thế. Chính đương lúc
tham, chẳng hỏi có suy nghĩ phân biệt hay không suy nghĩ phân biệt. Có suy nghĩ
hay không suy nghĩ đều thuộc về vọng tưởng. Hôm nay chỉ muốn ông hướng lên trên
câu thoại đầu sở tham khởi nghi tình. Chẳng nên ở trên tất cả cảnh duyên khởi
tưởng phân biệt. Hễ ngoài câu thoại đầu sở tham ra, khởi một niệm khác bất luận
là niệm về Phật, niệm về Pháp đều là chẳng phải chánh niệm. đều là hạt giống
sanh tử.
Người chân thật hạ thủ công phu
trong 24 tiếng đồng hồ,niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, như một người địch với
muôn người, đâu có thì giờ rảnh mà để ý đến thân mạng thế duyên, cũng đâu có
thì giờ rảnh để yêu cầu người khai phát, cũng đâu có thì giờ rảnh hỏi người để
tìm ngôn cú, tìm giải hội.
Lại có một hạng người ba ngày
không được khai phát thì tâm mờ mịt. Bọn nầy đều là người đuổi theo vọng lưu
chuyển, chẳng phải là người hạ thủ công phu.
Đại khái, người hạ thủ công phu
như kẻ ăn trộm muốn trộm vàng bạc của người, lúc đi cũng muốn trộm, lúc ngồi
cũng muốn trộm, lúc rảnh cũng muốn trộm, lúc bận cũng muốn trộm, lại đâu để lộ
cái tâm muốn ăn trộm nầy cho người ta thấy. Càng muốn ăn trộm thì càng giấu kín
ý muốn. Tâm tâm, niệm niệm như thế lâu ngày chẳng lui sụt thì đến được địa vị
của cổ nhân. Đâu giống như người trong 24 tiếng đồng hồ làm chủ không được, chỉ
muốn chạy theo vọng tưởng lưu chuyển, cố làm chủ tể, chạy lên bồ đoàn làm hình
thức, niệm niệm giong ruổi tìm cầu chẳng chịu thôi nghỉ, đâu tìm được thời tiết
tương ưng.
Hãy ghi nhớ!
Thời giờ qua mau như nước chảy,
phải nên tự tỉnh!
KHAI THỊ
THIỀN NHÂN DIỆU NHIÊN
Tham thiền chỉ cần tin cho nổi
và đến trên câu thoại đầu tham đi, chẳng cần đem ý thức hướng lên trên
"nhất" cùng "vạn" suy nghĩ. Ông nếu suy nghĩ nói:
"nhất" là vật gì, "vạn" là vật gì, dẫu cho ông chỉ điểm
được rõ ràng minh bạch cũng chính là si cuồng chạy ở bên ngoài chẳng bao giờ
cùng với đạo tương ưng.
Ông nếu tin nổi thì chẳng cần
hỏi NHẤT là NHẤT ở chỗ nào? VẠN là VẠN ở chỗ nào? Ông chỉ lo NHẤT thì chỉ là
NHẤT, VẠN chỉ là VẠN. Chỉ cần nhằm dưới "NHẤT quy về chỗ nào?" đứng
vững gót chân một niệm vạn niên tham đi! Tham đến lúc tâm không thi đậu về, đại
triệt đại ngộ, thì ngay nơi NHẤT mà VẠN, ngay nơi VẠN mà NHẤT,NHẤT chẳng phải
VẠN, vạn chẳng phải NHẤT rõ ràng ở trong lòng. Ông nếu chưa ngộ dù cho ông đem
NHẤT cùng VẠN nói được nhiều lời hay đẹp cũng đều chẳng ra ngoài vọng tưởng
điên đảo. Thượng nhân Nhiên hãy tin lấy!
KHAI THỊ
THIỀN NHÂN HUYỀN
"Triệu Châu vì sao nói chữ
KHÔNG?" Chỉ cần trong 24 tiếng đồng hồ miên mật đề khởi đại nghi tình tham
đi, chẳng cần nghi câu nầy cùng với các câu thoại đầu "cây bách trước
sân" và "núi Tu-Di" là đồng hay là khác. Nếu ông đem ý thức
hướng lên trên thoại đầu so sánh thì sẽ dẫn vào trong lưới nghiệp thức không
bao giờ ông ngộ được.
Tham thiền cần phải cắt đứt mạng
căn sanh tử, không có phương tiện nào khác. Ông chỉ cần cắt đứt các thứ tri
kiến giải hội, chỉ nắm chắc câu thoại đầu sở tham chẳng kể năm tháng, tận tình
tham đi, chẳng sợ không ngộ. Ông nếu một niệm nắm không chắc thì thấy chỗ hạ
thủ của ông chẳng tương ưng, phần nhiều sanh giải hội, đâu có lý nào cái tâm
giải hội có thể cắt đứt được mạng căn sanh tử!
Ở quê hương ông, từ trước đến nay
không có người nói đến cách hạ thủ công phu, phần đông chỉ hướng lên con đường
nghĩa lý tri giải mà đi. Dẫu có hiểu được rõ trong bụng Phật Thích Ca cũng chỉ
là nghiệp thức mênh mang. Ngài Qui Sơn nói: "Thiền Tông nầy khó được chỗ
nhiệm mầu của nó, rất cần phải kỹ lưỡng dụng tâm"; thật chẳng phải dễ. Chỉ
cần dốc lòng chân thật bền lâu tham đi, quyết chẳng dối gạt nhau đâu!
Ngài Triệu Châu nói :
"Vì y còn nghiệp thức". Một lời nầy là con mắt kim cương của Triệu Châu,
chẳng nói với người học là "có nghiệp thức". Ông nếu hướng lên trên
nghiệp thức hội thì con mắt kim cương của Triệu Châu đồng thời cũng bị mù mất.
Hôm nay ông chẳng cần hỏi
có nghiệp thức hay không nghiệp thức, chỉ đề khởi câu thoại đầu nói trên chẳng
quày đầu, chẳng khởi niệm, tham lâu ngày tự nhiên ngộ, chẳng cần sanh một chút
tri kiến nào khác; cũng chẳng cần hỏi nghi lớn nghi nhỏ, khởi cùng chẳng khởi.
Vừa có tri kiến nầy là quày đầu, khởi niệm rồi vậy.
KHAI THỊ
THƯỢNG NHÂN MỤC
(trong
lúc bệnh)
Kinh Di-Giáo nói: "Ví như
người chăn trâu cầm roi trông nom chẳng cho nó phạm vào lúa mạ của người".
Ngài Qui Sơn nói: "Một khi
vào đám cỏ, nắm mũi kéo ra". Tổ Bá Trượng khen: "Ông đúng là người
chăn trâu giỏi".
Phải biết tứ đại là thân
bệnh, lục căn là tâm bệnh. Một câu thoại đầu muốn ông tham cứu là thiền bệnh.
Một niệm rỗng sáng ngay đó siêu việt, là Phật bệnh. Nói một cách vi tế thì hễ
dính vào kiến văn giải hội đều là nguồn gốc của bệnh, huống là ăn uống thất
thường, cơ thể sanh bệnh, cái nầy là bệnh ở trong bệnh. Nay muốn trị bệnh nầy
cũng không khó, chỉ cần đem câu thoại đầu "Triệu Châu vì sao nói chữ
KHÔNG?" đặt ở trên chiếu, bên gối. Đây là thuốc thần đáng giá ngàn vàng.
Muốn cho thuốc nầy linh nghiệm, không có cách nào khác hơn là khiến cho trong
lòng lạnh băng băng, rỗng lặng lặng, trăm điều chẳng nghĩ, trăm điều chẳng lo,
Phật đến, Tổ đến đều để các ngài qua một bên, chẳng cần biết đến, trong lòng
không nghĩ trước tính sau, trong ngoài như cây khô, tro lạnh, con quỷ vô thường
giết người hiện ra trước đều tọa đoạn một lượt. Hạ thủ như vậy ấy là chăn trâu,
ấy là lương y, ấy là thiền trong Niết-Bàn đường, ấy là việc gốc của người xuất
gia hành cước. Còn có một câu chưa chỉ bày, đợi ông thuốc bệnh đều quên sẽ nói
cho ông nghe.
Thượng nhân Mục trong khi
bệnh cầu cảnh sách, tôi viết như thế để cảnh sách ông.
KHAI THỊ
THIỀN NHÂN DẬT
Nghi tình không lớn nhỏ, hễ nghi
nặng thì gọi đó là đại nghi, nghi nhẹ thì gọi đó là tiểu nghi.
Sao gọi là nặng? Chỉ nghe
nói đến việc lớn sanh tử liền tự mang ở trong lòng, muốn buông xuống buông
chẳng được, tương tợ như người rất đói cầu miếng ăn, tự nhiên buông chẳng được,
dẫu muốn chẳng khởi cũng chẳng tự do mà chẳng khởi, đây là nặng, cho nên gọi là
đại nghi. Có cái đại nghi nầy thì tự nhiên bỏ ngủ quên ăn, thân tâm nhất như,
cũng không biết là đại nghi, tự nhiên nghi mãi chẳng thôi. Như người xưa đứng
trước sân khán chữ KHÔNG mưa to đến toàn thân đều ướt chẳng biết thân mình ướt,
nhân vị tăng bên cạnh gọi, tỉnh lại mới biết trên thân bị mưa ướt. Đây là công
phu thuần thục quên cảnh quên duyên, đây là đại nghi. Đương lúc đại nghi trong
lòng ông vừa có một niệm biết là đại nghi thì đã lầm rồi, cũng chẳng thành đại
nghi. Cảnh giới của đại nghi nầy chẳng thuộc về ông. Ông muốn được cần phải có
cái chánh niệm vì sanh tử trong tâm ông chân thật thống thiết, không có một
điểm sắp đặt so sánh, lâu ngày chầy tháng đều không gián đoạn tự nhiên hiện
tiền. Không có chỗ để ông ra sức, ông hạ thủ công phu đều không có phương tiện,
cũng không có chỗ thương lượng. Chỉ cần một cái chánh niệm vì sanh tử chân thật
thống thiết lâu ngày tự nhiên siêu việt. Ông vì chẳng rõ cách hạ thủ cho nên
mới sanh ra nhiều tri giải.
Hôm nay chẳng cần sanh tất cả
giải hội, cũng chẳng cần nói tôi căn tánh hạ liệt, cũng chẳng cần nói tôi đối
với bát nhã duyên cạn, cũng chẳng cần hỏi người khác để cầu phương tiện khéo
léo uyển chuyển khai thị, hễ có một chút dị kiến đều là tà ma, ngoại đạo. Trong
suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ chỉ nắm chặt câu thoại đầu "Triệu Châu vì
sao nói chữ KHÔNG?". Hôm nay tham chẳng được, hôm nay nắm chặt, ngày mai
tham chẳng được, ngày mai nắm chặt, cho đến năm nay năm tới, đời nầy đời sau
cũng chẳng cần hỏi bao lâu. Hễ tham chẳng thấu, chỉ thế ấy nắm chặt đi, trừ cái
chánh niệm dốc cả thân tâm hạ thủ công phu lâu dài nầy ra thì dẫu Thích Ca, Đạt
Ma có trút hết thiền đạo vào trong bụng ông cũng cứu ông chẳng được.
Hãy nhớ lấy! Hãy nhớ lấy!
KHAI THỊ
THIỀN NHÂN ANH
I. Thiền
Tông có một hạng người thông minh linh lợi ngay dưới ngữ ngôn của cổ nhân giải
hội được tương tự bèn nhận lấy. Lúc ấy cổ nhân chẳng có thời giờ nghiệm lại
người ấy ngộ hay chẳng ngộ, nhất thời bỏ qua. Người ấy liền đem cái chỗ nhận
của mình dạy người rằng chẳng cần tham thoại đầu chỉ quý sẵn sàng lãnh hội, kéo
nhau vào trong lưới tri kiến, lúc nói thì in tuồng như đồng, chỗ làm thì trọn
không dính dáng.
Có một hạng người căn cơ ngu
độn, thấy nói tham thiền cần phải khán thoại đầu khởi đại nghi tình mới đốn ngộ
nhập, ngay đó cứ nắm chặt câu thoại đầu sở tham hai ba mươi năm, đầu đuôi xuyên
suốt liền nhau chẳng chịu buông bỏ. Lâu ngày tình vọng tiêu hết, sau khi khai
ngộ hễ có người học đến thỉnh-ích, ắt muốn họ hạ thủ công phu khán thoại đầu
khởi nghi tình. Những bậc thầy loại nầy dạy người tuy khó thấm vào, song trước
sau chẳng làm hư hỏng căn tánh người học.
Từ khi có Thiền Tông đến nay tuy
nói: "Trực chỉ nhân tâm", nhưng vào cửa có muôn đường ngàn lối bất
đồng. Bởi vì các bậc thầy tuy đều căn cứ vào một cái lý "trực chỉ" mà
theo căn tánh người và chỗ ngộ nhập của chính mình chẳng đồng, vì thế dẫn dụ
chẳng đồng, nhưng chỗ chí lý cứu cánh là một, đều là liễu thoát việc lớn sanh
tử, ngoài ra không làm việc gì khác. Chúng sanh tâm thức sai khác nhau rất
nhiều chẳng thể một phen ỉa(ngộ) liền thôi.
Lại có thuyết nói:
"Sau khi ngộ cần phải gặp thiện tri thức", hoặc có thuyết nói:
"Được chỗ ngộ nhập rồi cần phải thật tiễn bảo nhậm". Đó đều là chỗ
ngộ chưa triệt để, còn kẹt ở dị chấp, chẳng thể gỡ niệm cởi trói cho người, cho
nên mới có nói: "Gặp thiện tri thức và thật tiễn bảo nhậm"; nếu ngộ
triệt để thì không có nói như thế. Cổ nhân tuy chẳng khán công án khởi nghi
tình, chỉ vì lúc chưa ngộ, các Ngài dụng tâm cùng với người thời nay khác hẳn.
Nếu dạy người thời nay chẳng hạ thủ công phu, thì họ đều ngồi trong cái lưới
điên đảo.
Cổ nhân có nói: "Dựa
vào người khác để hiểu là làm chướng ngại cửa ngộ của mình". Kinh Viên
Giác nói: "Chúng sanh đời mạt pháp hy vọng thành đạo, chẳng cho cầu ngộ,
chỉ thêm đa văn, tăng trưởng ngã kiến".
II. Việc
lớn sanh tử là từ vô lượng kiếp về trước trôi nổi đến ngày hôm nay, chẳng phải
một sớm một chiều mà thành. Hôm nay muốn lật ngược lại cái sanh tử căn trần
trôi nổi từ vô lượng kiếp nầy chẳng phải là chuyện dễ!
Phải lấy chí khí quyết
định đem hết cuộc đời nầy làm kỳ hạn. Đời nầy nếu chưa xong, thì đời sau, kiếp
tới tiếp tục làm nữa! Phải biết việc nầy không có chỗ cho ông ra sức, không có
chỗ cho ông nôn nóng, không có chỗ cho ông dụng tình; càng ra sức càng mê muội,
càng nôn nóng càng lăng xăng, càng dụng tình càng hôn trầm tán loạn. Chỉ cần
tất cả chỗ đều mật mật thiết thiết nắm chắc một câu thoại đầu sở tham, tất cả
chỗ chẳng được buông bỏ, chẳng được gián đoạn, chỉ như thế mật mật thiết thiết
như mèo chăm rình bắt chuột mà tham cứu đi!
Thứ nhất: chẳng
nên lập kỳ hạn.
Thứ hai: chẳng
nên tránh huyên náo cầu yên tịnh.
Thứ ba: chẳng
nên chọn lựa cảnh duyên.
Thứ tư: chẳng
nên đem tâm chờ ngộ.
Thứ năm: chẳng
nên tính kể công trình.
Thứ sáu: chẳng
nên tìm phương tiện khác.
Thứ bảy: chẳng
nên gặp chướng nạn mà lo buồn.
Thứ tám: chẳng
nên gặp thuận mà vui mừng.
Thứ chín: chẳng
nên sanh tâm khiếp sợ.
Thứ mười: chẳng
nên lấy bỏ, nương tựa, chống trái.
Lìa mười việc nầy, chỉ
thận trọng giữ lấy câu thoại đầu: "Khi tứ đại tan rã hướng vào chỗ nào an
thân lập mạng?". Hết cuộc đời nầy cho đến đời vị lai, chỉ như thế cứ hướng
tới trước. Nếu hiện tại tham chẳng được cũng chẳng nên đổi câu thoại đầu sở
tham.
Thiền nhân Anh hãy cố gắng!.
KHAI THỊ
THƯỢNG NHÂN KHÔNG
Ở HẢI
ĐÔNG
Phật Tổ chẳng nỡ thấy ông có
sanh tử tình thức như ngọn đèn,tựa giọt nước không có lúc tạm dừng. Cái chỗ
chẳng dừng ấy chẳng kẹt thanh thì kẹt sắc, chẳng kẹt không thì kẹt có, chẳng
kẹt công dụng thì kẹt vô vi, chẳng kẹt thánh thì kẹt phàm, niệm niệm chẳng dừng
gặp chỗ nào cũng dính mắc. Chỗ dính mắc ấy là cái sanh tử dao chặt chẳng đứt,
cưa xẻ chẳng ra. Phải biết sanh tử tình thức nầy ở trong cứu cánh không biến
thành cứu cánh có, tự trói, tự buộc chưa từng có chút gián đoạn.
Ngày nay thật muốn giải quyết
xong một đoạn sanh tử chẳng chút gián đoạn nầy thì phải lập tức phát khởi tâm
chân chánh, quyết định chẳng gián đoạn, đề khởi câu thoại đầu của cổ nhân một
cách miên mật, cùng nó cứu cánh đi! Một đoạn công phu nầy thật không có chỗ cho
ông suy lý, không có chỗ cho ông tìm hiểu, không có chỗ cho ông hoà hội, cũng
không có chỗ cho ông trốn tránh, chỉ có lòng tin chân thật nầy đưa ông nhập vào
mà thôi.
Các vị tôn túc thời gần đây phần
đông chẳng lấy việc lớn sanh tử làm điều thiết yếu cho người học. Thường thường
chỉ muốn cho người học chóng hiểu thiền đ<
PHÁP NGỮ TRÍCH TỪ BỘ
QUẢNG LỤC
Học đạo cần phải đầy đủ năm thứ chánh tín:
1. Phải tin cái ông chủ mừng giận, buồn vui trong
tâm của mình toàn thể cùng với chư phật chẳng thiếu mảy may.
2. Phải tin từ vô lượng kiếp đến nay cùng sắc
thanh, yêu ghét nhiễm thành tập khí lưu chuyển kết thành một thứ sanh tử vô
thường, ở trong thân tứ đại niệm niệm trôi chảy, đổi mới không ngừng.
3. Phải tin người xưa chỉ dạy một lời nửa câu như
thanh Ỷ-thiên trường kiếm, luôn luôn bức bách đến chỗ tận cùng để cắt đứt mạng
căn của người học.
4. Phải tin công phu hằng ngày chỉ sợ không làm,
chứ làm mãi không ngừng niệm niệm tinh chuyên thì chắc chắn có ngày thấu thoát.
5. Phải tin sanh tử vô thường chẳng phải là việc
nhỏ. Nếu chẳng phấn chí quyết định để mong độc thoát thì không có cách nào để
tự khỏi cái khổ tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Lại có ba pháp làm con đường tắt để tấn
đạo:
·
o
- Mắt huệ sáng
- Lý tánh thông
- Chí kiên cố
Mắt huệ sáng thì
chiếu phá cảnh giới hiện lượng thân tâm thế gian, tất cả thị phi, yêu ghét, lấy
bỏ, được mất, giàu nghèo, thọ yểu, khổ vui v.v... đều là duyên mộng huyễn, trọn
không thật nghĩa mà chẳng khởi phân biệt.
Lý tánh thông thì đối
với ngữ ngôn danh tướng của Phật Tổ thuở xưa nói ra, cho đến pháp yếu sai biệt
của Thánh hiền trong tam-giáo và bách gia chư tử đều hội quy về một nguồn chẳng
sanh dị kiến.
Chí kiên cố thì từ
ngày hôm nay cho đến tận đời vị lai chẳng hỏi gần xa, nếu chẳng triệt chứng,
quyết định chẳng thôi.
Ba pháp nầy, nếu đủ pháp thứ nhất mà
thiếu pháp thứ hai và thứ ba, chỉ thành một người vô sự.
Đủ pháp thứ hai mà thiếu pháp
thứ nhất và thứ ba, chỉ thành người linh lợi.
Phải biết đạo
nầy như đi đường xa ngàn dặm, nếu đủ pháp thứ nhất và pháp thứ hai, mà thiếu
pháp thứ ba là như người đi chín trăm dặm rồi dừng.
Đủ pháp thứ nhất và pháp thứ ba
mà thiếu pháp thứ hai thì chẳng khỏi khóc vì lối tẽ.
Đủ pháp thứ hai và thứ ba mà
thiếu pháp thứ nhất, tôi biết người nầy chạm vật bị kẹt.
Ba pháp hoàn
toàn đầy đủ, tuy chưa cất bước, tôi dám bảo đảm người nầy chẳng khác gì người
đã đến nhà, còn phải hỏi về đường lối nữa ư?
Người học đạo
không ai chẳng nói sanh tử là việc lớn. Đến khi bị hỏi cái gì là sanh tử, thì
mờ mịt không biết đường trả lời. Hoặc có người cho rằng tại người ấy chẳng biết
mới hỏi, nên thong thả nói: ông đã chẳng biết sanh tử là cái gì. Nay phát tâm
vì sanh tử không phải là hư vọng sao?
Luận về việc
lớn sanh tử nếu chẳng biết lý của sanh tử thì gia công học đạo vô ích. Ví như
người tịch cốc (khỏi ăn mà sống được), bảo họ cấy cày, dù cho có miễn cưỡng nghe lời, không bao lâu
cũng lười biếng bỏ bê. Sao vậy? Vì người tịch cốc đã quên đói thì lúa thóc cũng
đâu có chỗ dùng, giống như người học đã không biết manh mối của sanh tử thì
tham học để làm gì? Hoặc giả miễn cưỡng cho rằng: "Sanh chẳng biết từ đâu
đến, chết chẳng biết đi về đâu, ấy là sanh tử". Đây thật là lời nói ngông
cuồng. Dẫu cho biết được chỗ đến, chỗ đi, thì ngay cái chỗ "biết" đó
rõ ràng là sanh tử. Lấy sanh tử để thoát sanh tử, không có lý ấy.
Phải biết sanh
tử nguyên không có thể tánh. Nhân mê tự tâm lầm chạy theo luân hồi thành ra có
sanh tử. Ví như khí lạnh kết nước thành băng, khí lạnh chợt tiêu thì băng trở
lại thành nước. Chất chứa mê nơi tâm, lầm kết sanh tử cũng vậy. Chỗ mê đã ngộ
thì tâm thể trạm nhiên (như nước yên lặng trong suốt), muốn tìm sanh tử như người ngủ thức dậy tìm
lại việc trong mộng, đâu có lẽ nào được!
Phải biết
sanh tử vốn không, nhờ ngộ mới biết Niết Bàn vốn có, vì mê nên không hay. Hoặc
chẳng thể triệt ngộ tự tâm mà muốn giải quyết xong việc lớn sanh tử thì có khác
nào chẳng rút bỏ củi lửa mà muốn nồi nước đừng sôi, lý đó làm sao có được!
Liễu thoát sanh tử
không gì thân thiết hơn ngộ tâm. Ngộ tâm không gì hơn sự lập chí. Quên lạnh
nóng, bỏ ăn ngủ, không tình vọng, một niệm nầy ở chỗ động tịnh như binh hùng
tướng mạnh phòng thủ thành trì nghiêm ngặt, giặc chẳng thể nào xâm phạm được.
Cổ nhân gọi đó là chánh chí. Như vậy tâm như tường vách, thình lình khai
ngộ.Ngộ rồi chẳng những sanh tử không tịch mà Niết-Bàn cũng không có chỗ đặt
để. Bằng không, thì sanh tử cùng mê vọng giao kết từ nhiều kiếp xa xưa đến tận
đời vị lai, lưu chuyển không chút gián đoạn, gọi đó là việc lớn sanh tử, há là
lời hư dối ư?
Tâm chẳng mê chẳng
đọa sanh tử. Nghiệp chẳng buộc chẳng thọ hình hài. Ái chẳng nặng chẳng vào
Ta-Bà. Niệm chẳng khởi chẳng sanh nghiệp lụy. Bởi nhân mê khởi vọng, do vọng
sanh chấp. Thuận theo chỗ chấp ấy thì cái niệm yêu thích lăng xăng mống khởi.
Nghịch với chỗ chấp ấy thì cái thói quen giận ghét bừng bừng nổi dậy. Tình yêu
ghét phát khởi thì dấu vết sanh tử động chuyển trôi chảy đổi mới chẳng dừng, niệm
niệm nối nhau, cho đến một khoảnh sát na đủ tám trăm sanh diệt, há đợi trăm năm
tắt thở, sau đó mới là sanh tử ư?
Nguyên chỗ mê kia
vốn không có tự tánh, cũng không có chỗ khởi, mà chính vì mình từ vô lượng kiếp
lâu xa đến nay, chẳng thể hội gốc đạo, mất đi tự tâm mà ra. Ngày hôm nay, muốn
được tâm nầy, chẳng bị mê vọng lôi cuốn, không có phương tiện nào khác hơn là
chỉ đề khởi câu thoại đầu: "Chết rồi, thiêu xong, cái gì là tánh của
ta?". Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ như cầm thanh kiếm bén kim cương
trên tay, trước hết hướng vào trong ruộng thức thứ tám, tận lực chém một nhát
như chém một cuộn chỉ rối, một nhát đứt hết. Chỗ thấy của mắt đã đứt, chỗ nghe
của tai cũng đứt, cho đến mũi lưỡi thân ý, hương vị xúc pháp đồng thời đều đứt.
Việc quá khứ đã dứt, việc hiện tại đang dứt, việc vị lai sẽ dứt. Lục soát hết
trong lòng không có cái để dứt, và cái dứt cũng dứt. Cái dứt đã dứt thì cái dứt
cũng chẳng thành lập. Cái dứt đã chẳng lập thì cả pháp giới đều là tự tâm.
Trong ấy không có cái năng dứt và sở dứt. Năng sở đã không thì thấy nghe hay
biết không có chỗ đặt để. Đến chỗ nầy tức là chỗ buông bỏ thân mạng của chư
Phật, Bồ Tát, thiện tri thức thuở xưa, cũng là chỗ hoàn toàn thôi nghỉ, chỗ đại
giải thoát, chỗ đại an lạc, cũng là tam muội chẳng lìa thế gian mà thành tựu
xuất thế gian. Tam muội nầy vào tay, tìm cái yêu cũng chẳng thể được, tìm cái
ghét cũng chẳng thể được. Ở chỗ chẳng thể được (bất khả đắc)xem lại các pháp hữu vi thế gian thấy như giấc
mộng đêm qua. Như trong Kinh nói:
"Tịnh tột ánh sáng thông suốt
Tịch chiếu trùm hư không
Nhìn trở lại thế gian
Giống như việc trong
mộng".
Như hiện nay, người
rõ biết việc nầy như mộng, chính đang lúc nói, con người nói nầy cũng là ở
trong mộng, hà huống nói xong rồi, âm thanh tan mất, tình theo cảnh đổi thay!
Nhà mộng ba cõi lăn lóc chẳng dừng, nếu
chẳng phấn chí ra sức đại tinh tấn gan dạ nhảy một cái ra khỏi cái nhà đại mộng
nầy, ở giữa thanh thiên bạch nhật, mặc áo cả cười một tiếng khoái chí bình
sanh, nếu quyết lấy mộng đi vào mộng, phan duyên lẫn nhau, chạy theo vọng trần,
đọa vào địa ngục Vô-Gián, há chẳng cô phụ từ nhiều kiếp đến nay chư Phật,
Bồ-Tát đã vì ông mà gieo hạt giống Bát-Nhã bồ đề ư?
Ông nếu chẳng phải đủ
hạt giống sâu dày nầy, đâu được đời nầy ở chỗ giàu sang, trong nhà thập thiện,
cho đến phát tâm vào đạo, cà-sa che thân, làm người nối dòng giống Phật. Ngày
nay đến chỗ nầy, đã xuất gia rồi, đã làm Tăng rồi, đã gặp thiện tri thức rồi,
đã nghe đạo rồi, cái điều ông còn thiếu đó, chỉ cần ra sức làm một phen để đích
thân đến chỗ cứu cánh mà thôi. Huống là tuổi chưa già, sức còn sung, nếu chẳng
lợi dụng lúc thân nầy còn mạnh khoẻ đi một hơi thẳng đến nhà thì chớp mắt bèn
là vô thường, già bệnh đuổi gấp, đến lúc ấy tay chân rối loạn, lỗi sẽ về ai?
Đem hết tất cả những cái tham, cái yêu, cái giận, cái si của cả một đời kiểm
điểm qua một lượt đều dùng chẳng được. Trái lại, còn bị nó làm chướng ngại,
trói buộc, che lấp, xoay chuyển, cuốn trôi, cô phụ cái nhân duyên tốt đẹp, làm
người không biết hổ thẹn, bị Phật quở trách.
Phải biết, luân hồi
nơi tam giới, ra vào trong bốn loài (Noãn, thai, thấp, hoá), lăn lóc lênh đênh chịu khổ liên tục. Như thế
có gì đáng lưu luyến đâu, mà chẳng chịu siêu nhiên độc thoát! Người có chí lẽ
nào lại làm như thế!
TỨC HƯU CA
(Dịch âm)
Đạo nhân chi hưu tức hiện hưu
Bất đãi triêu mộ tính xuân thu
Thử hưu bất cách đệ nhị niệm
Chỉ ư đương niệm cơ toàn thâu.
Hựu vấn:
Đạo nhân hà duyên hưu đắc tốc?
Sanh tử luân hồi như chuyển cốc
Tự hận tòng tiền bất khẳng hưu
Uổng bị trần lao khổ câu thúc.
Tức kim cánh bất khẳng hưu khứ
Ý mã tình viên lan bất đắc
Tùy thanh trục sắc như khiêu sắc
Miết chuyển cơ luân vô mịch sứ
Túc kim bất hưu hà nhật hưu
Tráng sắc bất đình như thủy lưu
Cổ kim đa thiểu vị hưu giả
Độc lâu đôi tích như sơn khâu.
Hưu phục hưu, cánh hưu hưu
Nhậm thị Bắc Uất Đơn Việt
Thùy quản Nam thiệm Bộ Châu
Chỉ tương nhất có đại hưu tự
Thiên cổ vạn cô vi đồng trù.
Nể bất kiến
Nhị thiên niên tiền Cam Giá chủng
Tẩu nhập Tuyết Sơn đà bất động
Đẳng thị phú quý như băng hoa
Cánh bất đã tha tam giới hống
Tự tòng ma thời nhất hưu trực đáo kim
Hoàng kim khỏa diện quang nghiêm thân
Thiên điệp hồng liên bỗng song túc
Bất nhiễm thế gian phiền não trần.
Tức tiện hưu lai hoàn bất tảo
Cánh bất tức hưu đề áo não
Thế, xuất thế gian nhất tề hưu
Thử thời phương bạt Bồ Đề đạo.
Hữu tận Bồ Đề đạo diệc không
Bạch vân áp toái Tu Di phong
Đáo đầu Phật đã bất yếu tố
Tòng giao tứ hải dương chân phong.
BÀI CA LIỀN THÔI
Đạo nhân nói thôi, lập tức thôi
Chẳng đợi sáng chiều hay xuân thu
Thôi nầy chẳng cách đệ nhị niệm
Chỉ ngay đương niệm tâm liền thôi.
Có người hỏi:
Đạo nhân vì sao thôi được chóng?
Luân hồi sanh tử, bánh xe quay
Tự hận từ lâu thôi chẳng được
Uổng bị câu thúc khổ trần lao.
Ngày nay còn chẳng chịu thôi đi
Ý mã, tình viên ngăn chẳng được
Theo thanh theo sắc nhảy như rận
Vừa chuyển cơ luân tìm chẳng được.
Hôm nay chẳng thôi, ngày nào thôi
Tuổi trẻ chẳng dừng như nước trôi
Xưa nay bao người chưa thôi nghỉ
Đầu lâu chất lại như núi đồi.
Thôi lại thôi, lại thôi thôi
Đâu lo Nam Thiệm Bộ Châu
Chỉ đem một chữ THÔI nầy
Thiên cổ vạn cổ làm bạn lữ
Ông thấy chăng?
Chạy vào núi tuyết, lôi chẳng lay
Nhìn xem phú quí như hoa tuyết
Chẳng còn ở trong ba cõi ồn.
Từ đó thôi rồi thẳng đến nay
Mặt vàng ánh sáng trang nghiêm thân
Sen hồng ngàn cánh đỡ chân Phật
Chẳng nhiễm thế gian phiền não trần.
Bây giờ liền thôi còn chẳng sớm
Nếu chẳng liền thôi, luống áo não
Thế, xuất thế gian một lượt thôi
Lúc ấy mới đạt bồ đề đạo.
Thôi hết, bồ đề đạo cũng không
Mây trắng đè nát núi Tu Di
Rốt cuộc Phật cũng chẳng cần làm
([1]) Người vác bảng: Người chỉ lo hạ thủ công
phu một cách tích cực, nhọc mà không thông đường lối
([2]) Là Bắc Cu Lô Châu
[3]) Cam giá là mía. Dòng họ Thích Ca
là con cháu của vua Cam Giá.
([4]) Mặc tình hoằng dương Thiền Tông ở
khắp nơi.
PHÁP NGỮ TRÍCH TỪ BỘ
QUẢNG LỤC
Học đạo cần phải đầy đủ năm thứ chánh tín:
1. Phải tin cái ông chủ mừng giận, buồn vui trong
tâm của mình toàn thể cùng với chư phật chẳng thiếu mảy may.
2. Phải tin từ vô lượng kiếp đến nay cùng sắc
thanh, yêu ghét nhiễm thành tập khí lưu chuyển kết thành một thứ sanh tử vô
thường, ở trong thân tứ đại niệm niệm trôi chảy, đổi mới không ngừng.
3. Phải tin người xưa chỉ dạy một lời nửa câu như
thanh Ỷ-thiên trường kiếm, luôn luôn bức bách đến chỗ tận cùng để cắt đứt mạng
căn của người học.
4. Phải tin công phu hằng ngày chỉ sợ không làm,
chứ làm mãi không ngừng niệm niệm tinh chuyên thì chắc chắn có ngày thấu thoát.
5. Phải tin sanh tử vô thường chẳng phải là việc
nhỏ. Nếu chẳng phấn chí quyết định để mong độc thoát thì không có cách nào để
tự khỏi cái khổ tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Lại có ba pháp làm con đường tắt để tấn
đạo:
·
o
- Mắt huệ sáng
- Lý tánh thông
- Chí kiên cố
Mắt huệ sáng thì
chiếu phá cảnh giới hiện lượng thân tâm thế gian, tất cả thị phi, yêu ghét, lấy
bỏ, được mất, giàu nghèo, thọ yểu, khổ vui v.v... đều là duyên mộng huyễn, trọn
không thật nghĩa mà chẳng khởi phân biệt.
Lý tánh thông thì đối
với ngữ ngôn danh tướng của Phật Tổ thuở xưa nói ra, cho đến pháp yếu sai biệt
của Thánh hiền trong tam-giáo và bách gia chư tử đều hội quy về một nguồn chẳng
sanh dị kiến.
Chí kiên cố thì từ
ngày hôm nay cho đến tận đời vị lai chẳng hỏi gần xa, nếu chẳng triệt chứng,
quyết định chẳng thôi.
Ba pháp nầy, nếu đủ pháp thứ nhất mà
thiếu pháp thứ hai và thứ ba, chỉ thành một người vô sự.
Đủ pháp thứ hai mà thiếu pháp
thứ nhất và thứ ba, chỉ thành người linh lợi.
Phải biết đạo
nầy như đi đường xa ngàn dặm, nếu đủ pháp thứ nhất và pháp thứ hai, mà thiếu
pháp thứ ba là như người đi chín trăm dặm rồi dừng.
Đủ pháp thứ nhất và pháp thứ ba
mà thiếu pháp thứ hai thì chẳng khỏi khóc vì lối tẽ.
Đủ pháp thứ hai và thứ ba mà
thiếu pháp thứ nhất, tôi biết người nầy chạm vật bị kẹt.
Ba pháp hoàn
toàn đầy đủ, tuy chưa cất bước, tôi dám bảo đảm người nầy chẳng khác gì người
đã đến nhà, còn phải hỏi về đường lối nữa ư?
Người học đạo
không ai chẳng nói sanh tử là việc lớn. Đến khi bị hỏi cái gì là sanh tử, thì
mờ mịt không biết đường trả lời. Hoặc có người cho rằng tại người ấy chẳng biết
mới hỏi, nên thong thả nói: ông đã chẳng biết sanh tử là cái gì. Nay phát tâm
vì sanh tử không phải là hư vọng sao?
Luận về việc
lớn sanh tử nếu chẳng biết lý của sanh tử thì gia công học đạo vô ích. Ví như
người tịch cốc (khỏi ăn mà sống được), bảo họ cấy cày, dù cho có miễn cưỡng nghe lời, không bao lâu
cũng lười biếng bỏ bê. Sao vậy? Vì người tịch cốc đã quên đói thì lúa thóc cũng
đâu có chỗ dùng, giống như người học đã không biết manh mối của sanh tử thì
tham học để làm gì? Hoặc giả miễn cưỡng cho rằng: "Sanh chẳng biết từ đâu
đến, chết chẳng biết đi về đâu, ấy là sanh tử". Đây thật là lời nói ngông
cuồng. Dẫu cho biết được chỗ đến, chỗ đi, thì ngay cái chỗ "biết" đó
rõ ràng là sanh tử. Lấy sanh tử để thoát sanh tử, không có lý ấy.
Phải biết sanh
tử nguyên không có thể tánh. Nhân mê tự tâm lầm chạy theo luân hồi thành ra có
sanh tử. Ví như khí lạnh kết nước thành băng, khí lạnh chợt tiêu thì băng trở
lại thành nước. Chất chứa mê nơi tâm, lầm kết sanh tử cũng vậy. Chỗ mê đã ngộ
thì tâm thể trạm nhiên (như nước yên lặng trong suốt), muốn tìm sanh tử như người ngủ thức dậy tìm
lại việc trong mộng, đâu có lẽ nào được!
Phải biết
sanh tử vốn không, nhờ ngộ mới biết Niết Bàn vốn có, vì mê nên không hay. Hoặc
chẳng thể triệt ngộ tự tâm mà muốn giải quyết xong việc lớn sanh tử thì có khác
nào chẳng rút bỏ củi lửa mà muốn nồi nước đừng sôi, lý đó làm sao có được!
Liễu thoát sanh tử
không gì thân thiết hơn ngộ tâm. Ngộ tâm không gì hơn sự lập chí. Quên lạnh
nóng, bỏ ăn ngủ, không tình vọng, một niệm nầy ở chỗ động tịnh như binh hùng
tướng mạnh phòng thủ thành trì nghiêm ngặt, giặc chẳng thể nào xâm phạm được.
Cổ nhân gọi đó là chánh chí. Như vậy tâm như tường vách, thình lình khai
ngộ.Ngộ rồi chẳng những sanh tử không tịch mà Niết-Bàn cũng không có chỗ đặt
để. Bằng không, thì sanh tử cùng mê vọng giao kết từ nhiều kiếp xa xưa đến tận
đời vị lai, lưu chuyển không chút gián đoạn, gọi đó là việc lớn sanh tử, há là
lời hư dối ư?
Tâm chẳng mê chẳng
đọa sanh tử. Nghiệp chẳng buộc chẳng thọ hình hài. Ái chẳng nặng chẳng vào
Ta-Bà. Niệm chẳng khởi chẳng sanh nghiệp lụy. Bởi nhân mê khởi vọng, do vọng
sanh chấp. Thuận theo chỗ chấp ấy thì cái niệm yêu thích lăng xăng mống khởi.
Nghịch với chỗ chấp ấy thì cái thói quen giận ghét bừng bừng nổi dậy. Tình yêu
ghét phát khởi thì dấu vết sanh tử động chuyển trôi chảy đổi mới chẳng dừng,
niệm niệm nối nhau, cho đến một khoảnh sát na đủ tám trăm sanh diệt, há đợi
trăm năm tắt thở, sau đó mới là sanh tử ư?
Nguyên chỗ mê kia
vốn không có tự tánh, cũng không có chỗ khởi, mà chính vì mình từ vô lượng kiếp
lâu xa đến nay, chẳng thể hội gốc đạo, mất đi tự tâm mà ra. Ngày hôm nay, muốn
được tâm nầy, chẳng bị mê vọng lôi cuốn, không có phương tiện nào khác hơn là
chỉ đề khởi câu thoại đầu: "Chết rồi, thiêu xong, cái gì là tánh của
ta?". Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ như cầm thanh kiếm bén kim cương
trên tay, trước hết hướng vào trong ruộng thức thứ tám, tận lực chém một nhát
như chém một cuộn chỉ rối, một nhát đứt hết. Chỗ thấy của mắt đã đứt, chỗ nghe
của tai cũng đứt, cho đến mũi lưỡi thân ý, hương vị xúc pháp đồng thời đều đứt.
Việc quá khứ đã dứt, việc hiện tại đang dứt, việc vị lai sẽ dứt. Lục soát hết
trong lòng không có cái để dứt, và cái dứt cũng dứt. Cái dứt đã dứt thì cái dứt
cũng chẳng thành lập. Cái dứt đã chẳng lập thì cả pháp giới đều là tự tâm.
Trong ấy không có cái năng dứt và sở dứt. Năng sở đã không thì thấy nghe hay
biết không có chỗ đặt để. Đến chỗ nầy tức là chỗ buông bỏ thân mạng của chư
Phật, Bồ Tát, thiện tri thức thuở xưa, cũng là chỗ hoàn toàn thôi nghỉ, chỗ đại
giải thoát, chỗ đại an lạc, cũng là tam muội chẳng lìa thế gian mà thành tựu
xuất thế gian. Tam muội nầy vào tay, tìm cái yêu cũng chẳng thể được, tìm cái
ghét cũng chẳng thể được. Ở chỗ chẳng thể được (bất khả đắc)xem lại các pháp hữu vi thế gian thấy như giấc
mộng đêm qua. Như trong Kinh nói:
"Tịnh tột ánh sáng thông suốt
Tịch chiếu trùm hư không
Nhìn trở lại thế gian
Giống như việc trong
mộng".
Như hiện nay, người
rõ biết việc nầy như mộng, chính đang lúc nói, con người nói nầy cũng là ở
trong mộng, hà huống nói xong rồi, âm thanh tan mất, tình theo cảnh đổi thay!
Nhà mộng ba cõi lăn lóc chẳng dừng, nếu
chẳng phấn chí ra sức đại tinh tấn gan dạ nhảy một cái ra khỏi cái nhà đại mộng
nầy, ở giữa thanh thiên bạch nhật, mặc áo cả cười một tiếng khoái chí bình
sanh, nếu quyết lấy mộng đi vào mộng, phan duyên lẫn nhau, chạy theo vọng trần,
đọa vào địa ngục Vô-Gián, há chẳng cô phụ từ nhiều kiếp đến nay chư Phật,
Bồ-Tát đã vì ông mà gieo hạt giống Bát-Nhã bồ đề ư?
Ông nếu chẳng phải đủ
hạt giống sâu dày nầy, đâu được đời nầy ở chỗ giàu sang, trong nhà thập thiện,
cho đến phát tâm vào đạo, cà-sa che thân, làm người nối dòng giống Phật. Ngày
nay đến chỗ nầy, đã xuất gia rồi, đã làm Tăng rồi, đã gặp thiện tri thức rồi,
đã nghe đạo rồi, cái điều ông còn thiếu đó, chỉ cần ra sức làm một phen để đích
thân đến chỗ cứu cánh mà thôi. Huống là tuổi chưa già, sức còn sung, nếu chẳng
lợi dụng lúc thân nầy còn mạnh khoẻ đi một hơi thẳng đến nhà thì chớp mắt bèn
là vô thường, già bệnh đuổi gấp, đến lúc ấy tay chân rối loạn, lỗi sẽ về ai?
Đem hết tất cả những cái tham, cái yêu, cái giận, cái si của cả một đời kiểm
điểm qua một lượt đều dùng chẳng được. Trái lại, còn bị nó làm chướng ngại,
trói buộc, che lấp, xoay chuyển, cuốn trôi, cô phụ cái nhân duyên tốt đẹp, làm
người không biết hổ thẹn, bị Phật quở trách.
Phải biết, luân hồi
nơi tam giới, ra vào trong bốn loài (Noãn, thai, thấp, hoá), lăn lóc lênh đênh chịu khổ liên tục. Như thế
có gì đáng lưu luyến đâu, mà chẳng chịu siêu nhiên độc thoát! Người có chí lẽ
nào lại làm như thế!
TỨC HƯU CA
(Dịch âm)
Đạo nhân chi hưu tức hiện hưu
Bất đãi triêu mộ tính xuân thu
Thử hưu bất cách đệ nhị niệm
Chỉ ư đương niệm cơ toàn thâu.
Hựu vấn:
Đạo nhân hà duyên hưu đắc tốc?
Sanh tử luân hồi như chuyển cốc
Tự hận tòng tiền bất khẳng hưu
Uổng bị trần lao khổ câu thúc.
Tức kim cánh bất khẳng hưu khứ
Ý mã tình viên lan bất đắc
Tùy thanh trục sắc như khiêu sắc
Miết chuyển cơ luân vô mịch sứ
Túc kim bất hưu hà nhật hưu
Tráng sắc bất đình như thủy lưu
Cổ kim đa thiểu vị hưu giả
Độc lâu đôi tích như sơn khâu.
Hưu phục hưu, cánh hưu hưu
Nhậm thị Bắc Uất Đơn Việt
Thùy quản Nam thiệm Bộ Châu
Chỉ tương nhất có đại hưu tự
Thiên cổ vạn cô vi đồng trù.
Nể bất kiến
Nhị thiên niên tiền Cam Giá chủng
Tẩu nhập Tuyết Sơn đà bất động
Đẳng thị phú quý như băng hoa
Cánh bất đã tha tam giới hống
Tự tòng ma thời nhất hưu trực đáo kim
Hoàng kim khỏa diện quang nghiêm thân
Thiên điệp hồng liên bỗng song túc
Bất nhiễm thế gian phiền não trần.
Tức tiện hưu lai hoàn bất tảo
Cánh bất tức hưu đề áo não
Thế, xuất thế gian nhất tề hưu
Thử thời phương bạt Bồ Đề đạo.
Hữu tận Bồ Đề đạo diệc không
Bạch vân áp toái Tu Di phong
Đáo đầu Phật đã bất yếu tố
Tòng giao tứ hải dương chân phong.
BÀI CA LIỀN THÔI
Đạo nhân nói thôi, lập tức thôi
Chẳng đợi sáng chiều hay xuân thu
Thôi nầy chẳng cách đệ nhị niệm
Chỉ ngay đương niệm tâm liền thôi.
Có người hỏi:
Đạo nhân vì sao thôi được chóng?
Luân hồi sanh tử, bánh xe quay
Tự hận từ lâu thôi chẳng được
Uổng bị câu thúc khổ trần lao.
Ngày nay còn chẳng chịu thôi đi
Ý mã, tình viên ngăn chẳng được
Theo thanh theo sắc nhảy như rận
Vừa chuyển cơ luân tìm chẳng được.
Hôm nay chẳng thôi, ngày nào thôi
Tuổi trẻ chẳng dừng như nước trôi
Xưa nay bao người chưa thôi nghỉ
Đầu lâu chất lại như núi đồi.
Thôi lại thôi, lại thôi thôi
Đâu lo Nam Thiệm Bộ Châu
Chỉ đem một chữ THÔI nầy
Thiên cổ vạn cổ làm bạn lữ
Ông thấy chăng?
Chạy vào núi tuyết, lôi chẳng lay
Nhìn xem phú quí như hoa tuyết
Chẳng còn ở trong ba cõi ồn.
Từ đó thôi rồi thẳng đến nay
Mặt vàng ánh sáng trang nghiêm thân
Sen hồng ngàn cánh đỡ chân Phật
Chẳng nhiễm thế gian phiền não trần.
Bây giờ liền thôi còn chẳng sớm
Nếu chẳng liền thôi, luống áo não
Thế, xuất thế gian một lượt thôi
Lúc ấy mới đạt bồ đề đạo.
Thôi hết, bồ đề đạo cũng không
Mây trắng đè nát núi Tu Di
Rốt cuộc Phật cũng chẳng cần làm
([1]) Người vác bảng: Người chỉ lo hạ thủ công
phu một cách tích cực, nhọc mà không thông đường lối
([2]) Là Bắc Cu Lô Châu
[3]) Cam giá là mía. Dòng họ Thích Ca
là con cháu của vua Cam Giá.
([4]) Mặc tình hoằng dương Thiền Tông ở
khắp nơi.
PHÁP NGỮ TRÍCH TỪ BỘ
QUẢNG LỤC
Học đạo cần phải đầy đủ năm thứ chánh tín:
1. Phải tin cái ông chủ mừng giận, buồn vui trong
tâm của mình toàn thể cùng với chư phật chẳng thiếu mảy may.
2. Phải tin từ vô lượng kiếp đến nay cùng sắc
thanh, yêu ghét nhiễm thành tập khí lưu chuyển kết thành một thứ sanh tử vô
thường, ở trong thân tứ đại niệm niệm trôi chảy, đổi mới không ngừng.
3. Phải tin người xưa chỉ dạy một lời nửa câu như
thanh Ỷ-thiên trường kiếm, luôn luôn bức bách đến chỗ tận cùng để cắt đứt mạng
căn của người học.
4. Phải tin công phu hằng ngày chỉ sợ không làm,
chứ làm mãi không ngừng niệm niệm tinh chuyên thì chắc chắn có ngày thấu thoát.
5. Phải tin sanh tử vô thường chẳng phải là việc
nhỏ. Nếu chẳng phấn chí quyết định để mong độc thoát thì không có cách nào để
tự khỏi cái khổ tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Lại có ba pháp làm con đường tắt để tấn
đạo:
·
o
- Mắt huệ sáng
- Lý tánh thông
- Chí kiên cố
Mắt huệ sáng thì
chiếu phá cảnh giới hiện lượng thân tâm thế gian, tất cả thị phi, yêu ghét, lấy
bỏ, được mất, giàu nghèo, thọ yểu, khổ vui v.v... đều là duyên mộng huyễn, trọn
không thật nghĩa mà chẳng khởi phân biệt.
Lý tánh thông thì đối
với ngữ ngôn danh tướng của Phật Tổ thuở xưa nói ra, cho đến pháp yếu sai biệt
của Thánh hiền trong tam-giáo và bách gia chư tử đều hội quy về một nguồn chẳng
sanh dị kiến.
Chí kiên cố thì từ
ngày hôm nay cho đến tận đời vị lai chẳng hỏi gần xa, nếu chẳng triệt chứng,
quyết định chẳng thôi.
Ba pháp nầy, nếu đủ pháp thứ nhất mà
thiếu pháp thứ hai và thứ ba, chỉ thành một người vô sự.
Đủ pháp thứ hai mà thiếu pháp
thứ nhất và thứ ba, chỉ thành người linh lợi.
Phải biết đạo
nầy như đi đường xa ngàn dặm, nếu đủ pháp thứ nhất và pháp thứ hai, mà thiếu
pháp thứ ba là như người đi chín trăm dặm rồi dừng.
Đủ pháp thứ nhất và pháp thứ ba
mà thiếu pháp thứ hai thì chẳng khỏi khóc vì lối tẽ.
Đủ pháp thứ hai và thứ ba mà
thiếu pháp thứ nhất, tôi biết người nầy chạm vật bị kẹt.
Ba pháp hoàn
toàn đầy đủ, tuy chưa cất bước, tôi dám bảo đảm người nầy chẳng khác gì người
đã đến nhà, còn phải hỏi về đường lối nữa ư?
Người học đạo
không ai chẳng nói sanh tử là việc lớn. Đến khi bị hỏi cái gì là sanh tử, thì
mờ mịt không biết đường trả lời. Hoặc có người cho rằng tại người ấy chẳng biết
mới hỏi, nên thong thả nói: ông đã chẳng biết sanh tử là cái gì. Nay phát tâm
vì sanh tử không phải là hư vọng sao?
Luận về việc
lớn sanh tử nếu chẳng biết lý của sanh tử thì gia công học đạo vô ích. Ví như
người tịch cốc (khỏi ăn mà sống được), bảo họ cấy cày, dù cho có miễn cưỡng nghe lời, không bao lâu
cũng lười biếng bỏ bê. Sao vậy? Vì người tịch cốc đã quên đói thì lúa thóc cũng
đâu có chỗ dùng, giống như người học đã không biết manh mối của sanh tử thì
tham học để làm gì? Hoặc giả miễn cưỡng cho rằng: "Sanh chẳng biết từ đâu
đến, chết chẳng biết đi về đâu, ấy là sanh tử". Đây thật là lời nói ngông
cuồng. Dẫu cho biết được chỗ đến, chỗ đi, thì ngay cái chỗ "biết" đó
rõ ràng là sanh tử. Lấy sanh tử để thoát sanh tử, không có lý ấy.
Phải biết sanh
tử nguyên không có thể tánh. Nhân mê tự tâm lầm chạy theo luân hồi thành ra có
sanh tử. Ví như khí lạnh kết nước thành băng, khí lạnh chợt tiêu thì băng trở
lại thành nước. Chất chứa mê nơi tâm, lầm kết sanh tử cũng vậy. Chỗ mê đã ngộ
thì tâm thể trạm nhiên (như nước yên lặng trong suốt), muốn tìm sanh tử như người ngủ thức dậy tìm
lại việc trong mộng, đâu có lẽ nào được!
Phải biết
sanh tử vốn không, nhờ ngộ mới biết Niết Bàn vốn có, vì mê nên không hay. Hoặc
chẳng thể triệt ngộ tự tâm mà muốn giải quyết xong việc lớn sanh tử thì có khác
nào chẳng rút bỏ củi lửa mà muốn nồi nước đừng sôi, lý đó làm sao có được!
Liễu thoát sanh tử
không gì thân thiết hơn ngộ tâm. Ngộ tâm không gì hơn sự lập chí. Quên lạnh
nóng, bỏ ăn ngủ, không tình vọng, một niệm nầy ở chỗ động tịnh như binh hùng
tướng mạnh phòng thủ thành trì nghiêm ngặt, giặc chẳng thể nào xâm phạm được.
Cổ nhân gọi đó là chánh chí. Như vậy tâm như tường vách, thình lình khai
ngộ.Ngộ rồi chẳng những sanh tử không tịch mà Niết-Bàn cũng không có chỗ đặt
để. Bằng không, thì sanh tử cùng mê vọng giao kết từ nhiều kiếp xa xưa đến tận
đời vị lai, lưu chuyển không chút gián đoạn, gọi đó là việc lớn sanh tử, há là
lời hư dối ư?
Tâm chẳng mê chẳng
đọa sanh tử. Nghiệp chẳng buộc chẳng thọ hình hài. Ái chẳng nặng chẳng vào
Ta-Bà. Niệm chẳng khởi chẳng sanh nghiệp lụy. Bởi nhân mê khởi vọng, do vọng
sanh chấp. Thuận theo chỗ chấp ấy thì cái niệm yêu thích lăng xăng mống khởi.
Nghịch với chỗ chấp ấy thì cái thói quen giận ghét bừng bừng nổi dậy. Tình yêu
ghét phát khởi thì dấu vết sanh tử động chuyển trôi chảy đổi mới chẳng dừng,
niệm niệm nối nhau, cho đến một khoảnh sát na đủ tám trăm sanh diệt, há đợi
trăm năm tắt thở, sau đó mới là sanh tử ư?
Nguyên chỗ mê kia
vốn không có tự tánh, cũng không có chỗ khởi, mà chính vì mình từ vô lượng kiếp
lâu xa đến nay, chẳng thể hội gốc đạo, mất đi tự tâm mà ra. Ngày hôm nay, muốn
được tâm nầy, chẳng bị mê vọng lôi cuốn, không có phương tiện nào khác hơn là
chỉ đề khởi câu thoại đầu: "Chết rồi, thiêu xong, cái gì là tánh của
ta?". Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ như cầm thanh kiếm bén kim cương
trên tay, trước hết hướng vào trong ruộng thức thứ tám, tận lực chém một nhát
như chém một cuộn chỉ rối, một nhát đứt hết. Chỗ thấy của mắt đã đứt, chỗ nghe
của tai cũng đứt, cho đến mũi lưỡi thân ý, hương vị xúc pháp đồng thời đều đứt.
Việc quá khứ đã dứt, việc hiện tại đang dứt, việc vị lai sẽ dứt. Lục soát hết
trong lòng không có cái để dứt, và cái dứt cũng dứt. Cái dứt đã dứt thì cái dứt
cũng chẳng thành lập. Cái dứt đã chẳng lập thì cả pháp giới đều là tự tâm.
Trong ấy không có cái năng dứt và sở dứt. Năng sở đã không thì thấy nghe hay
biết không có chỗ đặt để. Đến chỗ nầy tức là chỗ buông bỏ thân mạng của chư
Phật, Bồ Tát, thiện tri thức thuở xưa, cũng là chỗ hoàn toàn thôi nghỉ, chỗ đại
giải thoát, chỗ đại an lạc, cũng là tam muội chẳng lìa thế gian mà thành tựu
xuất thế gian. Tam muội nầy vào tay, tìm cái yêu cũng chẳng thể được, tìm cái
ghét cũng chẳng thể được. Ở chỗ chẳng thể được (bất khả đắc)xem lại các pháp hữu vi thế gian thấy như giấc
mộng đêm qua. Như trong Kinh nói:
"Tịnh tột ánh sáng thông suốt
Tịch chiếu trùm hư không
Nhìn trở lại thế gian
Giống như việc trong
mộng".
Như hiện nay, người
rõ biết việc nầy như mộng, chính đang lúc nói, con người nói nầy cũng là ở
trong mộng, hà huống nói xong rồi, âm thanh tan mất, tình theo cảnh đổi thay!
Nhà mộng ba cõi lăn lóc chẳng dừng, nếu
chẳng phấn chí ra sức đại tinh tấn gan dạ nhảy một cái ra khỏi cái nhà đại mộng
nầy, ở giữa thanh thiên bạch nhật, mặc áo cả cười một tiếng khoái chí bình
sanh, nếu quyết lấy mộng đi vào mộng, phan duyên lẫn nhau, chạy theo vọng trần,
đọa vào địa ngục Vô-Gián, há chẳng cô phụ từ nhiều kiếp đến nay chư Phật,
Bồ-Tát đã vì ông mà gieo hạt giống Bát-Nhã bồ đề ư?
Ông nếu chẳng phải đủ
hạt giống sâu dày nầy, đâu được đời nầy ở chỗ giàu sang, trong nhà thập thiện,
cho đến phát tâm vào đạo, cà-sa che thân, làm người nối dòng giống Phật. Ngày
nay đến chỗ nầy, đã xuất gia rồi, đã làm Tăng rồi, đã gặp thiện tri thức rồi,
đã nghe đạo rồi, cái điều ông còn thiếu đó, chỉ cần ra sức làm một phen để đích
thân đến chỗ cứu cánh mà thôi. Huống là tuổi chưa già, sức còn sung, nếu chẳng
lợi dụng lúc thân nầy còn mạnh khoẻ đi một hơi thẳng đến nhà thì chớp mắt bèn
là vô thường, già bệnh đuổi gấp, đến lúc ấy tay chân rối loạn, lỗi sẽ về ai?
Đem hết tất cả những cái tham, cái yêu, cái giận, cái si của cả một đời kiểm
điểm qua một lượt đều dùng chẳng được. Trái lại, còn bị nó làm chướng ngại,
trói buộc, che lấp, xoay chuyển, cuốn trôi, cô phụ cái nhân duyên tốt đẹp, làm
người không biết hổ thẹn, bị Phật quở trách.
Phải biết, luân hồi
nơi tam giới, ra vào trong bốn loài (Noãn, thai, thấp, hoá), lăn lóc lênh đênh chịu khổ liên tục. Như thế
có gì đáng lưu luyến đâu, mà chẳng chịu siêu nhiên độc thoát! Người có chí lẽ
nào lại làm như thế!
TỨC HƯU CA
(Dịch âm)
Đạo nhân chi hưu tức hiện hưu
Bất đãi triêu mộ tính xuân thu
Thử hưu bất cách đệ nhị niệm
Chỉ ư đương niệm cơ toàn thâu.
Hựu vấn:
Đạo nhân hà duyên hưu đắc tốc?
Sanh tử luân hồi như chuyển cốc
Tự hận tòng tiền bất khẳng hưu
Uổng bị trần lao khổ câu thúc.
Tức kim cánh bất khẳng hưu khứ
Ý mã tình viên lan bất đắc
Tùy thanh trục sắc như khiêu sắc
Miết chuyển cơ luân vô mịch sứ
Túc kim bất hưu hà nhật hưu
Tráng sắc bất đình như thủy lưu
Cổ kim đa thiểu vị hưu giả
Độc lâu đôi tích như sơn khâu.
Hưu phục hưu, cánh hưu hưu
Nhậm thị Bắc Uất Đơn Việt
Thùy quản Nam thiệm Bộ Châu
Chỉ tương nhất có đại hưu tự
Thiên cổ vạn cô vi đồng trù.
Nể bất kiến
Nhị thiên niên tiền Cam Giá chủng
Tẩu nhập Tuyết Sơn đà bất động
Đẳng thị phú quý như băng hoa
Cánh bất đã tha tam giới hống
Tự tòng ma thời nhất hưu trực đáo kim
Hoàng kim khỏa diện quang nghiêm thân
Thiên điệp hồng liên bỗng song túc
Bất nhiễm thế gian phiền não trần.
Tức tiện hưu lai hoàn bất tảo
Cánh bất tức hưu đề áo não
Thế, xuất thế gian nhất tề hưu
Thử thời phương bạt Bồ Đề đạo.
Hữu tận Bồ Đề đạo diệc không
Bạch vân áp toái Tu Di phong
Đáo đầu Phật đã bất yếu tố
Tòng giao tứ hải dương chân phong.
BÀI CA LIỀN THÔI
Đạo nhân nói thôi, lập tức thôi
Chẳng đợi sáng chiều hay xuân thu
Thôi nầy chẳng cách đệ nhị niệm
Chỉ ngay đương niệm tâm liền thôi.
Có người hỏi:
Đạo nhân vì sao thôi được chóng?
Luân hồi sanh tử, bánh xe quay
Tự hận từ lâu thôi chẳng được
Uổng bị câu thúc khổ trần lao.
Ngày nay còn chẳng chịu thôi đi
Ý mã, tình viên ngăn chẳng được
Theo thanh theo sắc nhảy như rận
Vừa chuyển cơ luân tìm chẳng được.
Hôm nay chẳng thôi, ngày nào thôi
Tuổi trẻ chẳng dừng như nước trôi
Xưa nay bao người chưa thôi nghỉ
Đầu lâu chất lại như núi đồi.
Thôi lại thôi, lại thôi thôi
Đâu lo Nam Thiệm Bộ Châu
Chỉ đem một chữ THÔI nầy
Thiên cổ vạn cổ làm bạn lữ
Ông thấy chăng?
Chạy vào núi tuyết, lôi chẳng lay
Nhìn xem phú quí như hoa tuyết
Chẳng còn ở trong ba cõi ồn.
Từ đó thôi rồi thẳng đến nay
Mặt vàng ánh sáng trang nghiêm thân
Sen hồng ngàn cánh đỡ chân Phật
Chẳng nhiễm thế gian phiền não trần.
Bây giờ liền thôi còn chẳng sớm
Nếu chẳng liền thôi, luống áo não
Thế, xuất thế gian một lượt thôi
Lúc ấy mới đạt bồ đề đạo.
Thôi hết, bồ đề đạo cũng không
Mây trắng đè nát núi Tu Di
Rốt cuộc Phật cũng chẳng cần làm
([1]) Người vác bảng: Người chỉ lo hạ thủ công
phu một cách tích cực, nhọc mà không thông đường lối
([2]) Là Bắc Cu Lô Châu
[3]) Cam giá là mía. Dòng họ Thích Ca
là con cháu của vua Cam Giá.
([4]) Mặc tình hoằng dương Thiền Tông ở
khắp nơi.
PHÁP NGỮ TRÍCH TỪ BỘ
QUẢNG LỤC
Học đạo cần phải đầy đủ năm thứ chánh tín:
1. Phải tin cái ông chủ mừng giận, buồn vui trong
tâm của mình toàn thể cùng với chư phật chẳng thiếu mảy may.
2. Phải tin từ vô lượng kiếp đến nay cùng sắc
thanh, yêu ghét nhiễm thành tập khí lưu chuyển kết thành một thứ sanh tử vô
thường, ở trong thân tứ đại niệm niệm trôi chảy, đổi mới không ngừng.
3. Phải tin người xưa chỉ dạy một lời nửa câu như
thanh Ỷ-thiên trường kiếm, luôn luôn bức bách đến chỗ tận cùng để cắt đứt mạng
căn của người học.
4. Phải tin công phu hằng ngày chỉ sợ không làm,
chứ làm mãi không ngừng niệm niệm tinh chuyên thì chắc chắn có ngày thấu thoát.
5. Phải tin sanh tử vô thường chẳng phải là việc
nhỏ. Nếu chẳng phấn chí quyết định để mong độc thoát thì không có cách nào để
tự khỏi cái khổ tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Lại có ba pháp làm con đường tắt để tấn
đạo:
·
o
- Mắt huệ sáng
- Lý tánh thông
- Chí kiên cố
Mắt huệ sáng thì
chiếu phá cảnh giới hiện lượng thân tâm thế gian, tất cả thị phi, yêu ghét, lấy
bỏ, được mất, giàu nghèo, thọ yểu, khổ vui v.v... đều là duyên mộng huyễn, trọn
không thật nghĩa mà chẳng khởi phân biệt.
Lý tánh thông thì đối
với ngữ ngôn danh tướng của Phật Tổ thuở xưa nói ra, cho đến pháp yếu sai biệt
của Thánh hiền trong tam-giáo và bách gia chư tử đều hội quy về một nguồn chẳng
sanh dị kiến.
Chí kiên cố thì từ
ngày hôm nay cho đến tận đời vị lai chẳng hỏi gần xa, nếu chẳng triệt chứng,
quyết định chẳng thôi.
Ba pháp nầy, nếu đủ pháp thứ nhất mà
thiếu pháp thứ hai và thứ ba, chỉ thành một người vô sự.
Đủ pháp thứ hai mà thiếu pháp
thứ nhất và thứ ba, chỉ thành người linh lợi.
Phải biết đạo
nầy như đi đường xa ngàn dặm, nếu đủ pháp thứ nhất và pháp thứ hai, mà thiếu
pháp thứ ba là như người đi chín trăm dặm rồi dừng.
Đủ pháp thứ nhất và pháp thứ ba
mà thiếu pháp thứ hai thì chẳng khỏi khóc vì lối tẽ.
Đủ pháp thứ hai và thứ ba mà
thiếu pháp thứ nhất, tôi biết người nầy chạm vật bị kẹt.
Ba pháp hoàn
toàn đầy đủ, tuy chưa cất bước, tôi dám bảo đảm người nầy chẳng khác gì người
đã đến nhà, còn phải hỏi về đường lối nữa ư?
Người học đạo
không ai chẳng nói sanh tử là việc lớn. Đến khi bị hỏi cái gì là sanh tử, thì
mờ mịt không biết đường trả lời. Hoặc có người cho rằng tại người ấy chẳng biết
mới hỏi, nên thong thả nói: ông đã chẳng biết sanh tử là cái gì. Nay phát tâm
vì sanh tử không phải là hư vọng sao?
Luận về việc
lớn sanh tử nếu chẳng biết lý của sanh tử thì gia công học đạo vô ích. Ví như
người tịch cốc (khỏi ăn mà sống được), bảo họ cấy cày, dù cho có miễn cưỡng nghe lời, không bao lâu
cũng lười biếng bỏ bê. Sao vậy? Vì người tịch cốc đã quên đói thì lúa thóc cũng
đâu có chỗ dùng, giống như người học đã không biết manh mối của sanh tử thì
tham học để làm gì? Hoặc giả miễn cưỡng cho rằng: "Sanh chẳng biết từ đâu
đến, chết chẳng biết đi về đâu, ấy là sanh tử". Đây thật là lời nói ngông
cuồng. Dẫu cho biết được chỗ đến, chỗ đi, thì ngay cái chỗ "biết" đó
rõ ràng là sanh tử. Lấy sanh tử để thoát sanh tử, không có lý ấy.
Phải biết sanh
tử nguyên không có thể tánh. Nhân mê tự tâm lầm chạy theo luân hồi thành ra có
sanh tử. Ví như khí lạnh kết nước thành băng, khí lạnh chợt tiêu thì băng trở
lại thành nước. Chất chứa mê nơi tâm, lầm kết sanh tử cũng vậy. Chỗ mê đã ngộ
thì tâm thể trạm nhiên (như nước yên lặng trong suốt), muốn tìm sanh tử như người ngủ thức dậy tìm
lại việc trong mộng, đâu có lẽ nào được!
Phải biết
sanh tử vốn không, nhờ ngộ mới biết Niết Bàn vốn có, vì mê nên không hay. Hoặc
chẳng thể triệt ngộ tự tâm mà muốn giải quyết xong việc lớn sanh tử thì có khác
nào chẳng rút bỏ củi lửa mà muốn nồi nước đừng sôi, lý đó làm sao có được!
Liễu thoát sanh tử
không gì thân thiết hơn ngộ tâm. Ngộ tâm không gì hơn sự lập chí. Quên lạnh
nóng, bỏ ăn ngủ, không tình vọng, một niệm nầy ở chỗ động tịnh như binh hùng
tướng mạnh phòng thủ thành trì nghiêm ngặt, giặc chẳng thể nào xâm phạm được.
Cổ nhân gọi đó là chánh chí. Như vậy tâm như tường vách, thình lình khai
ngộ.Ngộ rồi chẳng những sanh tử không tịch mà Niết-Bàn cũng không có chỗ đặt
để. Bằng không, thì sanh tử cùng mê vọng giao kết từ nhiều kiếp xa xưa đến tận
đời vị lai, lưu chuyển không chút gián đoạn, gọi đó là việc lớn sanh tử, há là
lời hư dối ư?
Tâm chẳng mê chẳng
đọa sanh tử. Nghiệp chẳng buộc chẳng thọ hình hài. Ái chẳng nặng chẳng vào
Ta-Bà. Niệm chẳng khởi chẳng sanh nghiệp lụy. Bởi nhân mê khởi vọng, do vọng
sanh chấp. Thuận theo chỗ chấp ấy thì cái niệm yêu thích lăng xăng mống khởi.
Nghịch với chỗ chấp ấy thì cái thói quen giận ghét bừng bừng nổi dậy. Tình yêu
ghét phát khởi thì dấu vết sanh tử động chuyển trôi chảy đổi mới chẳng dừng,
niệm niệm nối nhau, cho đến một khoảnh sát na đủ tám trăm sanh diệt, há đợi
trăm năm tắt thở, sau đó mới là sanh tử ư?
Nguyên chỗ mê kia
vốn không có tự tánh, cũng không có chỗ khởi, mà chính vì mình từ vô lượng kiếp
lâu xa đến nay, chẳng thể hội gốc đạo, mất đi tự tâm mà ra. Ngày hôm nay, muốn
được tâm nầy, chẳng bị mê vọng lôi cuốn, không có phương tiện nào khác hơn là
chỉ đề khởi câu thoại đầu: "Chết rồi, thiêu xong, cái gì là tánh của
ta?". Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ như cầm thanh kiếm bén kim cương
trên tay, trước hết hướng vào trong ruộng thức thứ tám, tận lực chém một nhát
như chém một cuộn chỉ rối, một nhát đứt hết. Chỗ thấy của mắt đã đứt, chỗ nghe
của tai cũng đứt, cho đến mũi lưỡi thân ý, hương vị xúc pháp đồng thời đều đứt.
Việc quá khứ đã dứt, việc hiện tại đang dứt, việc vị lai sẽ dứt. Lục soát hết
trong lòng không có cái để dứt, và cái dứt cũng dứt. Cái dứt đã dứt thì cái dứt
cũng chẳng thành lập. Cái dứt đã chẳng lập thì cả pháp giới đều là tự tâm.
Trong ấy không có cái năng dứt và sở dứt. Năng sở đã không thì thấy nghe hay
biết không có chỗ đặt để. Đến chỗ nầy tức là chỗ buông bỏ thân mạng của chư
Phật, Bồ Tát, thiện tri thức thuở xưa, cũng là chỗ hoàn toàn thôi nghỉ, chỗ đại
giải thoát, chỗ đại an lạc, cũng là tam muội chẳng lìa thế gian mà thành tựu
xuất thế gian. Tam muội nầy vào tay, tìm cái yêu cũng chẳng thể được, tìm cái
ghét cũng chẳng thể được. Ở chỗ chẳng thể được (bất khả đắc)xem lại các pháp hữu vi thế gian thấy như giấc
mộng đêm qua. Như trong Kinh nói:
"Tịnh tột ánh sáng thông suốt
Tịch chiếu trùm hư không
Nhìn trở lại thế gian
Giống như việc trong
mộng".
Như hiện nay, người
rõ biết việc nầy như mộng, chính đang lúc nói, con người nói nầy cũng là ở
trong mộng, hà huống nói xong rồi, âm thanh tan mất, tình theo cảnh đổi thay!
Nhà mộng ba cõi lăn lóc chẳng dừng, nếu
chẳng phấn chí ra sức đại tinh tấn gan dạ nhảy một cái ra khỏi cái nhà đại mộng
nầy, ở giữa thanh thiên bạch nhật, mặc áo cả cười một tiếng khoái chí bình
sanh, nếu quyết lấy mộng đi vào mộng, phan duyên lẫn nhau, chạy theo vọng trần,
đọa vào địa ngục Vô-Gián, há chẳng cô phụ từ nhiều kiếp đến nay chư Phật,
Bồ-Tát đã vì ông mà gieo hạt giống Bát-Nhã bồ đề ư?
Ông nếu chẳng phải đủ
hạt giống sâu dày nầy, đâu được đời nầy ở chỗ giàu sang, trong nhà thập thiện,
cho đến phát tâm vào đạo, cà-sa che thân, làm người nối dòng giống Phật. Ngày
nay đến chỗ nầy, đã xuất gia rồi, đã làm Tăng rồi, đã gặp thiện tri thức rồi,
đã nghe đạo rồi, cái điều ông còn thiếu đó, chỉ cần ra sức làm một phen để đích
thân đến chỗ cứu cánh mà thôi. Huống là tuổi chưa già, sức còn sung, nếu chẳng
lợi dụng lúc thân nầy còn mạnh khoẻ đi một hơi thẳng đến nhà thì chớp mắt bèn
là vô thường, già bệnh đuổi gấp, đến lúc ấy tay chân rối loạn, lỗi sẽ về ai?
Đem hết tất cả những cái tham, cái yêu, cái giận, cái si của cả một đời kiểm
điểm qua một lượt đều dùng chẳng được. Trái lại, còn bị nó làm chướng ngại,
trói buộc, che lấp, xoay chuyển, cuốn trôi, cô phụ cái nhân duyên tốt đẹp, làm
người không biết hổ thẹn, bị Phật quở trách.
Phải biết, luân hồi
nơi tam giới, ra vào trong bốn loài (Noãn, thai, thấp, hoá), lăn lóc lênh đênh chịu khổ liên tục. Như thế
có gì đáng lưu luyến đâu, mà chẳng chịu siêu nhiên độc thoát! Người có chí lẽ
nào lại làm như thế!
TỨC HƯU CA
(Dịch âm)
Đạo nhân chi hưu tức hiện hưu
Bất đãi triêu mộ tính xuân thu
Thử hưu bất cách đệ nhị niệm
Chỉ ư đương niệm cơ toàn thâu.
Hựu vấn:
Đạo nhân hà duyên hưu đắc tốc?
Sanh tử luân hồi như chuyển cốc
Tự hận tòng tiền bất khẳng hưu
Uổng bị trần lao khổ câu thúc.
Tức kim cánh bất khẳng hưu khứ
Ý mã tình viên lan bất đắc
Tùy thanh trục sắc như khiêu sắc
Miết chuyển cơ luân vô mịch sứ
Túc kim bất hưu hà nhật hưu
Tráng sắc bất đình như thủy lưu
Cổ kim đa thiểu vị hưu giả
Độc lâu đôi tích như sơn khâu.
Hưu phục hưu, cánh hưu hưu
Nhậm thị Bắc Uất Đơn Việt
Thùy quản Nam thiệm Bộ Châu
Chỉ tương nhất có đại hưu tự
Thiên cổ vạn cô vi đồng trù.
Nể bất kiến
Nhị thiên niên tiền Cam Giá chủng
Tẩu nhập Tuyết Sơn đà bất động
Đẳng thị phú quý như băng hoa
Cánh bất đã tha tam giới hống
Tự tòng ma thời nhất hưu trực đáo kim
Hoàng kim khỏa diện quang nghiêm thân
Thiên điệp hồng liên bỗng song túc
Bất nhiễm thế gian phiền não trần.
Tức tiện hưu lai hoàn bất tảo
Cánh bất tức hưu đề áo não
Thế, xuất thế gian nhất tề hưu
Thử thời phương bạt Bồ Đề đạo.
Hữu tận Bồ Đề đạo diệc không
Bạch vân áp toái Tu Di phong
Đáo đầu Phật đã bất yếu tố
Tòng giao tứ hải dương chân phong.
BÀI CA LIỀN THÔI
Đạo nhân nói thôi, lập tức thôi
Chẳng đợi sáng chiều hay xuân thu
Thôi nầy chẳng cách đệ nhị niệm
Chỉ ngay đương niệm tâm liền thôi.
Có người hỏi:
Đạo nhân vì sao thôi được chóng?
Luân hồi sanh tử, bánh xe quay
Tự hận từ lâu thôi chẳng được
Uổng bị câu thúc khổ trần lao.
Ngày nay còn chẳng chịu thôi đi
Ý mã, tình viên ngăn chẳng được
Theo thanh theo sắc nhảy như rận
Vừa chuyển cơ luân tìm chẳng được.
Hôm nay chẳng thôi, ngày nào thôi
Tuổi trẻ chẳng dừng như nước trôi
Xưa nay bao người chưa thôi nghỉ
Đầu lâu chất lại như núi đồi.
Thôi lại thôi, lại thôi thôi
Đâu lo Nam Thiệm Bộ Châu
Chỉ đem một chữ THÔI nầy
Thiên cổ vạn cổ làm bạn lữ
Ông thấy chăng?
Chạy vào núi tuyết, lôi chẳng lay
Nhìn xem phú quí như hoa tuyết
Chẳng còn ở trong ba cõi ồn.
Từ đó thôi rồi thẳng đến nay
Mặt vàng ánh sáng trang nghiêm thân
Sen hồng ngàn cánh đỡ chân Phật
Chẳng nhiễm thế gian phiền não trần.
Bây giờ liền thôi còn chẳng sớm
Nếu chẳng liền thôi, luống áo não
Thế, xuất thế gian một lượt thôi
Lúc ấy mới đạt bồ đề đạo.
Thôi hết, bồ đề đạo cũng không
Mây trắng đè nát núi Tu Di
Rốt cuộc Phật cũng chẳng cần làm
([1]) Người vác bảng: Người chỉ lo hạ thủ công
phu một cách tích cực, nhọc mà không thông đường lối
([2]) Là Bắc Cu Lô Châu
[3]) Cam giá là mía. Dòng họ Thích Ca
là con cháu của vua Cam Giá.
([4]) Mặc tình hoằng dương Thiền Tông ở
khắp nơi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét