LUẬN
TỌA THIỀN Thiền sư Đại Giác, Hòa thượng Lan Khê
Thích Nhật Quang Việt
Dịch
Lời Giới
Thiệu
Quyển LUẬN TỌA THIỀN của Thiền sư Đại
Giác là món quà vô giá tặng cho những bạn đang khát khao pháp vị Thiền
tông.
Trên hình thức một quyển sách rất
nhỏ, song nội dung hàm chứa được diệu chỉ bất khả thuyết của Thiền gia. Nếu độc
giả chỉ đọc suông để tìm những lý thú thông thường, sẽ khó thấy giá trị của
nó.
Quả thật người quyết nương ngón tay
để thấy mặt trăng, chịu khó nghiền nát những vỏ cứng ngôn từ, bỗng nhiên diệu
chỉ giáo ngoại biệt truyền xuất hiện.
Phật tử Việt Nam chịu ảnh hưởng Thiền
tông rất sâu đậm, hầu hết các vị trụ trì ở những đại già lam đều xuất thân từ
dòng phái Lâm Tế. Thế mà, hỏi đến phương pháp tu của tông Lâm Tế thế nào, có mấy
người hiểu biết. Đó là điều đáng buồn và đáng thẹn của Phật tử Việt
Nam.
Thích Nhật Quang, một Thiền sinh
trong Tu Viện Chơn Không, xem qua quyển Tọa Thiền Luận thấy sự thiết yếu của nó,
phát tâm phiên dịch để góp phần làm sáng tỏ đường lối của Tu viện nói gần, giúp
ích cho đại đa số Phật tử Việt Nam hiểu biết phần nào phương pháp tu hành của
tông Lâm Tế nói xa.
Để giúp thêm tài liệu nghiên cứu của
các Thiền sinh, ngoài những Kinh, Luận trong chương trình tu học. Tu viện cho
xuất bản quyển sách này và sẽ xuất bản những quyển khác tương
tợ. Để khích lệ sự cố gắng tham khảo của dịch giả, chúng tôi
có ít lời giới thiệu cùng độc giả.
THÍCH THANH TỪ
LUẬN TỌA
THIỀN Thiền sư Đại
Giác.
Xét thấy, Tọa Thiền là pháp môn đại giải
thoát. Các pháp từ đó mà lưu xuất, muôn hạnh từ đó mà thông đạt, thần thông, trí
huệ, phước đức, đều từ trong cửa này mà khởi lên, cho đến con đường tánh mạng
của trời, người cũng đều từ cửa ngõ này mà mở ra.
Chư Phật đã từ cửa ngõ này mà ra vào.
Người thực hành hạnh Bồ-tát chính phải vào cửa này, hàng Nhị thừa thì còn ở giữa
đường, bọn ngoại đạo tuy có đi mà chẳng vào được con đường chính. Phàm các tông
Hiển, Mật chẳng thực hành pháp môn này, thì chẳng còn con đường nào khác để
thành Phật.
1. HỎI: Nói rằng Tọa Thiền là cội nguồn
của các pháp, ý chỉ đó thế nào?
ĐÁP: Thiền là Phật trong tâm, Luật là
Phật tướng ngoài, Kinh Giáo là lời Phật nói ra, niệm Phật tức là niệm danh hiệu
Phật, tất cả đều từ trong Phật tâm lưu xuất, thế nên nói cội nguồn là vậy.
2. HỎI: Pháp Thiền vô tướng, vô niệm,
linh đức chẳng lộ bày, kiến tánh cũng chẳng có chứng cứ, do đâu mà có thể tin
được?
ĐÁP: Tâm ta cùng tâm Phật một vị, há
chẳng phải là linh đức ư? Tâm ta ta chẳng biết, bảo cái nào làm chứng cứ? Tức
tâm tức Phật, cầu chứng cứ gì bên ngoài?
3. HỎI: Có thể tu pháp nhất tâm, cũng tu
muôn hạnh, muôn thiện, công đức có gì so sánh được?
ĐÁP: “Chóng giác xong Như Lai Thiền, sáu
độ muôn hạnh thể tự tròn đầy”. Thế thì, một pháp thiền gồm đủ tất cả pháp. Há
chẳng thấy nói: “Ba cõi chỉ một tâm, ngoài tâm không pháp khác”. Dù tu muôn hạnh
mà không nhận pháp tâm này, thì không thể đắc ngộ. Nếu chẳng đắc ngộ mà thành
Phật, lẽ ấy làm gì có?
4. HỎI: Pháp tâm này đâu thể tu hành, dù
có dụng công tu hành, cũng chẳng được khai ngộ, kết quả thành Phật chẳng nhất
định, thì dù cho nhọc nhằn tu hành, nào có lợi ích gì?
ĐÁP: Tông này là pháp môn sâu mầu kín
nhiệm, nếu tai ta được một lần nghe, liền thành thắng nhân Bồ-đề. Người xưa nói:
“Người nghe tông này mà không tin, phước còn vượt hơn trời, người; kẻ học mà không thông hiểu thì trọn đến quả Phật”. Nên biết, pháp này là tâm tông của Phật. Phật tâm tự nó vốn chẳng có mê, ngộ, đây chính là diệu thuật của Như Lai. Dù rằng chưa được tỏ ngộ, nhưng một phen ngồi thiền, tức là ngồi tòa Phật, một ngày ngồi thiền, một ngày làm Phật, trọn đời ngồi thiền là trọn đời làm Phật, kiếp tương lai cũng như thế, người chỉ tin thế ấy, là người đại căn cơ.
“Người nghe tông này mà không tin, phước còn vượt hơn trời, người; kẻ học mà không thông hiểu thì trọn đến quả Phật”. Nên biết, pháp này là tâm tông của Phật. Phật tâm tự nó vốn chẳng có mê, ngộ, đây chính là diệu thuật của Như Lai. Dù rằng chưa được tỏ ngộ, nhưng một phen ngồi thiền, tức là ngồi tòa Phật, một ngày ngồi thiền, một ngày làm Phật, trọn đời ngồi thiền là trọn đời làm Phật, kiếp tương lai cũng như thế, người chỉ tin thế ấy, là người đại căn cơ.
5. HỎI: Nếu đã như thế, thì tôi cũng có
thể tu hành. Vậy làm thế nào an tâm? Phải dụng tâm thế nào?
ĐÁP: Phật tâm tất cả đều không trước
tướng. Lấy lìa tướng làm thật tướng. Đi, đứng, ngồi, nằm trong bốn oai nghi, lấy
ngồi làm nghĩa an ổn. Do ngồi ngay thẳng mà tư duy thật tướng.
6. HỎI: Nghĩa ngồi ngay thẳng, tư duy
thật tướng này, xin nói rõ hơn?
ĐÁP: Ngồi ngay thẳng, chính là đức
Như-Lai kiết-già-phu-tọa. Tư duy thật tướng, cũng gọi là ngồi thiền.
Kết pháp giới định ấn, thân tâm chẳng động, mắt mở chừng phân nửa, giữ mũi thật ngay thẳng, sẽ thấy các pháp hữu vi in tuồng giấc mộng, như làn bọt nước, cũng chẳng khác bong bóng nổi. Chớ buộc niệm !
Kết pháp giới định ấn, thân tâm chẳng động, mắt mở chừng phân nửa, giữ mũi thật ngay thẳng, sẽ thấy các pháp hữu vi in tuồng giấc mộng, như làn bọt nước, cũng chẳng khác bong bóng nổi. Chớ buộc niệm !
7. HỎI: Chân ngồi kiết-già, tay bắt ấn
là oai nghi của Như-Lai, còn mắt mở phân nửa, giữ mũi ngay thẳng là việc gì?
ĐÁP: Mắt mở lớn sẽ thấy xa, bị cảnh lăng
xăng trước mắt bức bách, tâm dễ tán loạn. Nhắm mắt thì sa vào cảnh hôn trầm,
trong tâm không được sáng suốt. Mắt mở phân nửa, thì niệm chẳng vội vàng, thân
tâm nhất như… Xét rõ, thì sanh tử, phiền não chẳng có thể gần gũi. Đó gọi là lập
địa thành Phật, là đại dụng đại cơ.
8. HỎI: Dù được nghe các việc như thế
rồi, nhưng lòng tin vẫn chưa vững. Đọc tụng kinh chú chứa công ấy, trì trai giữ
giới xướng danh hiệu Phật, nhóm đức ấy, việc đó có chỗ tựa nương. Riêng chẳng
làm việc gì khác, yên ngồi trong thiền định, hay có những kỳ đặc sao?
ĐÁP: Nghi như thế là nghiệp sanh tử,
nghi như thế là phiền não chướng. Thực hành tất cả pháp tâm không sở đắc, gọi là
thậm thâm Bát nhã, là trí huệ Bát nhã. Trí huệ này, là kiếm báu có thể chặt đứt
cội nguồn sinh tử. Tu các căn lành, mong được quả báo, đó là phàm phu mê muội.
Hàng Bồ-tát khi tu các căn lành, chẳng cầu quả báo ấy, chỉ hướng đến đại từ đại
bi mà tu thiện căn, cho nên thành chất liệu Bồ-đề.
Vì mong cầu quả báo mà tu các căn lành, chỉ thành đạt quả phúc nhỏ hẹp trời người, hạn định trong nghiệp sinh tử hữu lậu thôi.
Vì mong cầu quả báo mà tu các căn lành, chỉ thành đạt quả phúc nhỏ hẹp trời người, hạn định trong nghiệp sinh tử hữu lậu thôi.
9. HỎI: Chẳng nhờ chứa nhóm các căn
lành, công đức thì đâu có thể thành tựu muôn đức, tròn đầy Phật quả được?
ĐÁP: Nếu đợi nhóm hợp đủ các căn lành,
công đức thì phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp mới thành Phật được. Ngược lại,
người thực hành nhân quả bất nhị pháp môn là thành Phật ngay trong đời này.
Nghĩa là, minh tự tâm, ngộ tự tánh, nhận thấy tự mình vốn sẵn là Phật, chẳng đợi
đến nay mới thành.
10. HỎI: Người kiến tánh thành Phật,
chẳng y cứ nhân quả. Vậy thì, không thể tu các căn lành sao?
ĐÁP: Người kiến tánh thành Phật, dù có
tu các căn lành, chỉ vì lợi ích, chẳng vì quả báo. Bởi giáo hóa chúng sanh, nên
dạy nhân quả, do vì thân mình không sở đắc, nên chẳng trông vào các công đức; vô
tâm với tất cả.
11. HỎI: Người vô tâm như thế nào? Nếu
đã vô tâm, thì ai kiến tánh, ai ngộ đạo? Cái gì lại hay vì chúng sanh mà thuyết
pháp giáo hóa?
ĐÁP: Vô tâm là nói người không tất cả
tâm ngu si, chẳng phải nói người không tâm biện biệt cặn kẽ tà chánh. Ta chẳng
nghĩ tưởng chúng sanh, cũng chẳng vọng cầu Phật đạo, lại chẳng nghĩ mê, chẳng
cầu ngộ, chẳng chạy theo sự tôn kính của người, cũng chẳng thích nghe danh hư
lợi dưỡng, chẳng nhàm chán độc hại oán thù, mặc cho tất cả việc lành dữ, chẳng
khởi niệm sai biệt, đó gọi là Đạo Nhơn Vô Tâm.
Thế nên nói: Đạo vô tâm hợp với người, người vô tâm hợp với đạo.
Thế nên nói: Đạo vô tâm hợp với người, người vô tâm hợp với đạo.
12. HỎI: Trì trai giữ giới, đọc tụng
kinh chú, xướng danh hiệu Phật, công đức đó có hơn kém nhau chăng?
ĐÁP: Người trì trai là lìa ăn tham dục,
kiếp tương lai sẽ được phước đức lớn. Giữ giới, là vì ngưng tâm ác, sinh tâm
lành. Người có tâm lành, nếu sinh trong cõi trời, người thì địa vị rất là tôn
quý. Còn người đọc tụng kinh chú, là gìn giữ pháp Phật, nên đời sau sẽ được trí
huệ lớn. Do xướng danh hiệu Phật, đời sau quyết chắc sanh đất Phật. Lại vô tâm
này là Phật tâm. Công đức Phật tâm này lời lẽ không diễn tả xiết, nghĩ lường
không thể cùng tột, thật là chẳng thể nghĩ nghị.
13. HỎI: Giờ đây, công đức của căn lành
đã rõ ràng rồi, chẳng còn nghi ngờ nữa. Nhưng đối với công đức của vô tâm còn có
chỗ chưa hiểu?
ĐÁP: Học đòi oai nghi Phật, truyền đạt
lời nói Phật và xướng danh hiệu Phật, đều có công đức. Lại đạo nhơn vô tâm cũng
hay có các công đức. Nếu bảo vô tâm không công đức, thì các hạnh khác không thể
có công đức. Vì tất cả căn lành là nhân duyên công đức của trời, người, còn vô
tâm là con đường chóng chứng đạo Bồ-đề. Công đức đó không thể dùng lời lẽ mà kể
xiết, thực là một đại sự nhân duyên, phiền não, sinh tử tự tiêu diệt, thân tâm
nhất như, tức tâm thành Phật, còn nghi gì nữa ư?
Người xưa nói: “Cúng dường ba đời các đức Phật, chẳng bằng cúng dường một đạo nhơn vô tâm” Thực là, cảnh giới chỉ có Phật với Phật biết nhau, hạng phàm phu cùng Nhị thừa chẳng có thể lường nổi.
Người xưa nói: “Cúng dường ba đời các đức Phật, chẳng bằng cúng dường một đạo nhơn vô tâm” Thực là, cảnh giới chỉ có Phật với Phật biết nhau, hạng phàm phu cùng Nhị thừa chẳng có thể lường nổi.
14. HỎI: Các kinh chẳng nói vô tâm, cũng
chẳng khen ngợi. Cớ sao tông này lại quý trọng lẽ ấy đến thế?
ĐÁP: Trong các kinh nói đến lẽ này rất
nhiều. Như nói: “Ngôn ngữ đạo đoạn”. Hoặc nói: “Bất khả thuyết”. Hay là: “Cứu
cánh không”. Cũng nói: “Một đại sự nhân duyên”. Hoặc lại nói: “Các pháp vốn tịch
diệt”. Đức Thích Ca đóng cửa thất, Ngài Tịnh Danh ngậm miệng. Đây há chẳng phải
chỉ bày cảnh giới vô tâm là gì ư? Vì ảnh hưởng đến bậc Bồ-tát đã chứng trí, nên
đức Thế Tôn không nói đó thôi. Lại hàng Nhị thừa còn kém cỏi nên Phật cũng chẳng
nói. Do đó, kinh Pháp Hoa dạy: “Đối với hạng người không trí, chớ nói kinh này”.
Ấy chẳng ngoài ý dẫn trên.
Các kinh có đến tám muôn bốn ngàn pháp
môn, nhưng chẳng ngoài hai pháp sắc, không. Tất cả loài có hình tướng đều thuộc
sắc là thân, còn loài chẳng lộ bày tướng ra, đều thuộc Không. Thân có hình
tướng, nên nói là sắc, tâm không hình, nên bảo rằng không. Các kinh điển của
Phật nói, đều chẳng rời ngoài hai pháp sắc, không này. Đó là nói cảnh giới vô
tâm bất khả thuyết. Sở dĩ, chẳng khen ngợi lẽ này, là vì ngôn ngữ chẳng đến
được, nên chỉ nói “Ngoài giáo truyền riêng”.
15. HỎI: Thế thì, sắc thân này có thể là
mê ư? Cũng có thể là ngộ ư? Tâm là vật gì? Căn bản của mê và ngộ không thể không
biết đó. Lại tâm ở trong thân, hay ở ngoài thân, nó từ chỗ nào dấy lên như thế?
ĐÁP: Sắc thân bốn đại, năm uẩn đầy khắp
mười phương, là căn bản của tất cả chúng sanh. Nhân duyên hòa hợp, thì thân thể
kiến lập, gọi đó là sinh. Quả báo đổi dời, thì bốn đại phân tán, gọi đó là chết.
Sắc tướng, thì có phàm thánh, tâm thể vốn chẳng ngộ, mê. Tuy nhiên, giả có mê,
nên gọi chúng sanh, ngộ gọi là chư Phật. Mê ngộ chỉ nhân vọng tâm, chân tâm thì
không mê ngộ, chúng sanh hay Phật vốn nhân nơi một tâm mê ngộ này. Rõ được bản
tánh, thì hoàn toàn không có phàm, thánh sai biệt. Nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói:
“Bản tánh nhiệm mầu tròn sáng, rời ngoài các danh tướng, xưa nay chẳng có thế giới chúng sanh”
“Bản tánh nhiệm mầu tròn sáng, rời ngoài các danh tướng, xưa nay chẳng có thế giới chúng sanh”
16. HỎI: Tâm tánh vốn chẳng mê. Nếu vậy,
mê tình khởi từ chỗ nào?
ĐÁP: Nếu khởi vọng niệm, mê liền theo đó
mà đến. Mê đến, nên phiền não sanh. Vọng niệm nếu dứt thì mê cũng từ đó mà đi.
Mê đã đi, nên phiền não diệt. Nên biết, pháp phiền não là pháp sinh, đó là hạt
giống sanh tử, Bồ-đề là pháp diệt, thì là vui tịch diệt. Khi mê, các pháp đều là
phiền não. Lúc ngộ, các pháp đều là Bồ-đề. Người đời chẳng biết cội gốc mê ngộ
này, nên nhàm sanh tử, buộc niệm chẳng khởi, cho đó là một niệm không sanh, là
vô tâm. Đó vẫn là niệm sanh tử, chẳng phải vô tâm, chẳng phải tịch diệt. Dùng
niệm dứt niệm, là sanh tử nối tiếp.
17. HỎI: Tiểu thừa thì rơi vào lý Không,
chẳng biết vô tâm. Đại thừa Bồ-tát có thể được vô tâm chăng?
ĐÁP: Hàng Bồ-tát đến Thập địa vẫn còn
lầm trí nhị chướng, chẳng được vô tâm. Một hoặc chướng này, vào đệ Thất địa, tâm
tìm pháp vẫn còn, nên bị chướng. Đến đệ Thập địa, có tâm giác chiếu, nên cũng bị
chướng, cho đến lúc thành Đẳng Chánh Giác, mới hợp với vô tâm này.
18. HỎI: Đã là hạng Bồ-tát đến Thập địa
còn chẳng biết, huống nữa bọn phàm phu sơ tâm học đạo, thì làm sao có thể hợp
với vô tâm?
ĐÁP: Đại thừa thì không thể nghĩ bàn. Có
trường hợp thẳng tiệt (chặt đứt) một niệm, chóng ngộ cội nguồn.
Các nhà bên giáo lập Tam hiền, Thập thánh là vì hạng người căn cơ chậm lụt. Hạng lợi căn, ngay khi mới phát tâm liền thành Chánh giác. Cũng có trường hợp thẳng đến thành Phật một cách nhanh chóng không thể nghĩ lường.
Bậc Thập Địa, Đẳng Giác hợp với vô tâm, thì ngang với hạng người hiện nay kiến tánh thành Phật. Nên biết, trong lý vô tâm không có sai khác.
Các nhà bên giáo lập Tam hiền, Thập thánh là vì hạng người căn cơ chậm lụt. Hạng lợi căn, ngay khi mới phát tâm liền thành Chánh giác. Cũng có trường hợp thẳng đến thành Phật một cách nhanh chóng không thể nghĩ lường.
Bậc Thập Địa, Đẳng Giác hợp với vô tâm, thì ngang với hạng người hiện nay kiến tánh thành Phật. Nên biết, trong lý vô tâm không có sai khác.
19. HỎI: Thấy tánh thành Phật, việc đó
thế nào? Tánh là gì? Thấy là thấy cái gì? Dùng trí có thể biết chăng? Con mắt có
thể thấy chăng? Nghĩa đó ra sao?
ĐÁP: Học kinh luận được trí, tức là trí
phân biệt bằng thấy nghe hiểu biết. Ở đây, người tu hành chẳng dùng trí ấy mà
thấy biết bằng hồi quang phản chiếu, bằng tự tánh sẵn có, cũng gọi là huệ nhãn.
Tuy nhiên, sau khi thấy tánh rồi, vẫn thụ dụng bằng thấy nghe hiểu biết như
thường.
20. HỎI: Thấy biết tự tánh sẵn có, cái
thấy biết có thể biết được, còn tự tánh sẵn có là thế nào?
ĐÁP: Vì tất cả chúng sanh xưa nay vẫn có
tánh, nên trợ giúp khởi lên tự thể. Tánh này từ vô thủy đến nay chẳng sinh,
chẳng diệt, không sắc, không hình, thường trụ chẳng biến đổi, gọi đó là tự tánh
sẵn có. Tự tánh này cùng với chư Phật, một vị bình đẳng, nên cũng gọi là Phật
tánh. Tất cả ngôi Tam Bảo, chúng sanh trong sáu nẻo, do tánh này làm cội gốc mà
thành tựu tất cả pháp.
21. HỎI: Hồi quang phản chiếu là thế
nào?
ĐÁP: Chiếu là soi rõ các pháp bên ngoài,
tự mình có cái sáng suốt chiếu lại bên trong.
Tâm sáng suốt, như ánh sáng không lường, không ngằn của mặt trời, mặt trăng hay chiếu soi trong ngoài tất cả cõi nước. Ánh sáng đó, chẳng đến chỗ u ám gọi là núi đen hang quỷ, các loài quỷ thần đều ẩn nấp trong đó. Hạng quỷ thần này, hay nhiễu hại chúng sanh. Tâm pháp cũng như thế, trí sáng không lường không ngằn của tâm tánh hay chiếu suốt các cảnh giới. Ánh sáng đó, chẳng đến chỗ ngăn khuất, gọi là vô minh, ấm giới, tất cả phiền não đều trụ trong đó. Phiền não, thì hay nhiễu hại chúng sanh. Trí tâm là ánh sáng. Vọng niệm là những cái bóng. Soi sáng sự vật nói là chiếu. Cảnh giới tâm niệm chẳng đổi dời hướng vào bản tánh, nên nói rằng hồi quang phản chiếu.
Lại nói chiếu khắp, chính là chiếu khắp đương thể (thể hiện hữu) chỗ mê, ngộ chưa hiện bày. Thế mà thời nay người dùng vọng niệm để suy tìm bản tâm, lấy phiền não làm thú vui, thì bao giờ mới cởi bỏ sanh tử?
Tâm sáng suốt, như ánh sáng không lường, không ngằn của mặt trời, mặt trăng hay chiếu soi trong ngoài tất cả cõi nước. Ánh sáng đó, chẳng đến chỗ u ám gọi là núi đen hang quỷ, các loài quỷ thần đều ẩn nấp trong đó. Hạng quỷ thần này, hay nhiễu hại chúng sanh. Tâm pháp cũng như thế, trí sáng không lường không ngằn của tâm tánh hay chiếu suốt các cảnh giới. Ánh sáng đó, chẳng đến chỗ ngăn khuất, gọi là vô minh, ấm giới, tất cả phiền não đều trụ trong đó. Phiền não, thì hay nhiễu hại chúng sanh. Trí tâm là ánh sáng. Vọng niệm là những cái bóng. Soi sáng sự vật nói là chiếu. Cảnh giới tâm niệm chẳng đổi dời hướng vào bản tánh, nên nói rằng hồi quang phản chiếu.
Lại nói chiếu khắp, chính là chiếu khắp đương thể (thể hiện hữu) chỗ mê, ngộ chưa hiện bày. Thế mà thời nay người dùng vọng niệm để suy tìm bản tâm, lấy phiền não làm thú vui, thì bao giờ mới cởi bỏ sanh tử?
22. HỎI: Ngồi thiền lấy “một niệm không
sanh” làm tỉnh yếu (chỗ quan yếu để tỉnh giác). Lấy niệm dừng niệm, đây thời
chẳng khác lấy máu rửa máu. Việc đó thế nào?
ĐÁP: Một niệm không sanh, chính là tâm
pháp bản thể, chẳng phải dừng niệm, cũng chẳng phải chẳng dừng niệm, chỉ là một
niệm không sanh. Nếu hợp với bản thể này, thì đó là pháp tánh Như Lai. Bấy giờ,
việc ngồi thiền cũng bằng vô dụng. Không mê, không ngộ, há lại còn có một niệm
ư? Nếu chẳng nhận được bản thể này, thì đâu gọi là được không sanh. Dù đè niệm
chẳng cho khởi, cũng đều là vô minh. Chẳng khác lấy đá đè cỏ, chẳng bao lâu cỏ
ấy lại sanh. Phải công phu miên mật lắm, không thể dung dị mà được.
23. HỎI: Hoặc có người hỏi, lúc đến chỗ
một niệm không sanh, thì thế nào?
ĐÁP: Một niệm không sanh là hoàn toàn
không tướng sanh diệt, đi lại, có thể nói năng chỉ bày. Sự sanh tử theo niệm mà
khởi, nếu chẳng biết chỗ niệm khởi thì, chẳng rõ được cội gốc sanh tử. Các chúng
sanh trong suốt 12 giờ bị giặc phiền não sai sử trái với tánh bản hữu. Nếu mây
vọng niệm tan, tâm tánh như ánh sáng mặt trăng. Những niệm xấu từ trước nay đều
trở thành trí huệ, dùng niệm này có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Người
xưa bảo:
“Các ngươi bị 12 giờ sai sử, ta sai sử được 12 giờ”
“Các ngươi bị 12 giờ sai sử, ta sai sử được 12 giờ”
24. HỎI: Khi ngồi thiền, niệm khởi là
lỗi, ngừng lại có lỗi chăng? Việc đó thế nào?
ĐÁP: Lúc chưa thấy tánh, khởi hay ngừng
đều có lỗi. Trong kinh Phật dạy: “Chẳng khởi vọng niệm”, hoặc nói: “Cũng chẳng
diệt hẳn”. Đó là lối nói khiến cho ta nhận bản tánh. Người thấy tánh thì việc tu
hành là vô dụng. Bệnh mê vọng đã trừ, khoa trị liệu nào có ích gì. Tuy nhiên,
bệnh mê tình dấy khởi, thì dùng tu hành để trị liệu, bệnh niệm chẳng còn khởi
nữa, thì chẳng dùng thuốc tiếp tục.
25. HỎI: Dù có niệm khởi, nhưng niệm vốn
không tự tánh, thì có lỗi gì?
ĐÁP: Tuy không tự tánh, nhưng dấy khởi
đều có lỗi. Cũng như việc trong mộng, sau khi thức giấc, biết nó hư vọng, há bảo
không lỗi sao? Khởi lên tức thành lỗi, còn mộng là do chúng sanh vọng thấy, một
khi được nghe Phật pháp, phát khởi lòng tin, việc đó thù thắng hơn. Thế nhưng,
chẳng phải người có đạo tâm chân thực, dụng công một cách hời hợt, chẳng biết
lỗi của tâm, bất chợt đè ép các niệm nhỏ mà chẳng biết các niệm lớn. Nếu chẳng
đoạn tiệt từ cội nguồn của nó, thì dù có kết được duyên phần, cũng khó thoát
khỏi sanh tử.
26. HỎI: Tất cả việc lành, dữ đều chớ
nghĩ lường v.v… Mặc kệ nó, việc xấu tốt không nên nghĩ lường, như thế mới thực
là người dụng tâm tọa thiền. Nếu vậy, đối với các niệm lớn, nhỏ phải làm sao
đây?
ĐÁP: Tất cả việc lành, dữ đều chớ nghĩ
lường, đó là lời nói chặt thẳng vậy. Còn tính thời gian ngồi thiền, chẳng nên
dùng nó. Nếu đến ruộng đất này, thì đi, đứng, ngồi, nằm đều là thiền hẳn chẳng
nên cố chấp tướng ngồi. Tổ sư bảo: “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói, nín,
động, tịnh thể an nhiên”.
Trong Kinh Phật có dạy:
“Thường sống trong đó, kinh hành hoặc ngồi nằm…”. Những niệm nhỏ lăng xăng theo cảnh trước mắt. Những niệm lớn khởi lên, là tham dục, sân khuể, ngu si, tà kiến, kiêu mạn, tật đố, danh văn, lợi dưỡng… Người chí mỏng, lúc ngồi thiền, chỉ thu nhiếp các niệm nhỏ. Còn những ác niệm này chẳng biết chúng ngủ ngầm trong tâm ta, gọi là những niệm lớn. Ném bỏ các ác niệm này, gọi là chặt thẳng cội nguồn. Chặt thẳng cội nguồn thì phiền não là Bồ-đề, ngu si thành trí tuệ, ba độc thành ba tụ tịnh giới, vô minh thành pháp tánh đại trí. Đã vậy còn nói gì là các niệm nhỏ ư? Đức Phật dạy:
“Nếu hay chuyển vật, tức đồng Như Lai”. Là ý này vậy. Chỉ hay có thể chuyển vật, chớ để bị vật chuyển!
Trong Kinh Phật có dạy:
“Thường sống trong đó, kinh hành hoặc ngồi nằm…”. Những niệm nhỏ lăng xăng theo cảnh trước mắt. Những niệm lớn khởi lên, là tham dục, sân khuể, ngu si, tà kiến, kiêu mạn, tật đố, danh văn, lợi dưỡng… Người chí mỏng, lúc ngồi thiền, chỉ thu nhiếp các niệm nhỏ. Còn những ác niệm này chẳng biết chúng ngủ ngầm trong tâm ta, gọi là những niệm lớn. Ném bỏ các ác niệm này, gọi là chặt thẳng cội nguồn. Chặt thẳng cội nguồn thì phiền não là Bồ-đề, ngu si thành trí tuệ, ba độc thành ba tụ tịnh giới, vô minh thành pháp tánh đại trí. Đã vậy còn nói gì là các niệm nhỏ ư? Đức Phật dạy:
“Nếu hay chuyển vật, tức đồng Như Lai”. Là ý này vậy. Chỉ hay có thể chuyển vật, chớ để bị vật chuyển!
27. HỎI: Nếu hay chuyển vật tức đồng Như
Lai. Vật là vật nào? Chuyển là việc gì?
ĐÁP: Vật tức là vạn vật, chuyển tức là
thoát thể. Chuyển vật tức là gặp tất cả cảnh giới mà tâm chẳng đổi, đều hướng
đến bản tánh. Cảnh chẳng ngại tâm, thiên ma ngoại đạo, phiền não sanh tử, chẳng
có cơ hội thuận tiện. Đấy gọi là chuyển vật, nơi vật chẳng đổi tâm mà dụng tâm.
Thấy Phật, thấy pháp, còn phải đoạn tuyệt, hà huống là vọng niệm ư? Tâm đoạn
tuyệt này, dù giống như tà niệm, kỳ thực nó là chánh niệm. Chánh niệm thì gọi là
huệ niệm, cũng chính là trực nhập trí huệ chánh kiến.
28. HỎI: Phiền não, Bồ-đề, đều từ một
tâm này khởi lên đã phân minh, nhưng đầu mối của nó khởi lên từ chỗ nào?
ĐÁP: Nghe tiếng, thấy sắc, ngửi mùi, nếm
vị, biết xúc chạm, nhận rõ các pháp đều là đức dụng của sáu căn. Gá cảnh giới
này, rồi phân chia thành lành, dữ, biện biệt chánh tà, cho là trí huệ. Nơi đó
lập nhân ngã, khởi tắng ái đều là vọng kiến. Theo vọng kiến ấy, thành trước
tướng gọi là mê. Từ đây khởi mê năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, gọi là
phiền não. Do phiền não, kiến lập thân thể. Lại chúng sanh, phần nhiều ưa giết
hại, trộm cướp, tà dâm, nói vọng v.v… hoàn toàn bị rơi vào ba đường dữ, đều từ
vọng niệm mà khởi lên.
Những vọng niệm này lúc chúng mới phát khởi, liền chuyển thẳng tất cả hướng đến bản tánh, tức thành vô tâm. Đã an trụ nơi vô tâm, thì thân năm uẩn này liền thành năm phần pháp thân của Như Lai. Đấy gọi là: “Nên không chỗ trụ, mà sanh tâm kia”.
Dụng tâm như thế là người đại dụng tu hành.
Những vọng niệm này lúc chúng mới phát khởi, liền chuyển thẳng tất cả hướng đến bản tánh, tức thành vô tâm. Đã an trụ nơi vô tâm, thì thân năm uẩn này liền thành năm phần pháp thân của Như Lai. Đấy gọi là: “Nên không chỗ trụ, mà sanh tâm kia”.
Dụng tâm như thế là người đại dụng tu hành.
29. HỎI: Người dụng công ngồi thiền tích
lũy công phu lâu ngày đã thuần thục, thì không thể có tâm phiền não tà mê. Kẻ
mới tu hành, làm sao có thể sạch hết phiền não?
ĐÁP: Chẳng chán sợ phiền não, chỉ nên
tịnh tâm mình. Người xưa nói: “Học đạo cần phải sắt đá, nắm được đầu tâm liền
xét thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, tất cả việc thị phi cũng chớ quản. Nắm chặt đầu
tâm là phê phán tâm tà chánh”.
Nên biết người nhận được cái lầm của tâm mình gọi là người trí. Nếu đã có trí huệ, thì không còn mê. Ví như từ xưa ở trong hang tối, chưa từng gặp ánh sáng mặt trời, mặt trăng, chợt có ánh đèn sáng, thì bóng tối kia chẳng cần đuổi mà chốc lát tự nó biến thành sáng.
Bóng tối vô minh phiền não, khi có ánh sáng trí huệ chiếu đến, thì không đợi phải đuổi mà tự đi. Đêm xuống khắp hư không tối, nhưng ánh sáng mặt trời xuất hiện thì hư không tối tăm kia, liền thành sáng khắp.
Tâm pháp cũng như thế. Mê thì tối, ngộ là sáng. Ánh sáng trí huệ chiếu soi, thì bóng tối phiền não tan diệt liền thành sáng suốt. Thế nên, Bồ-đề không riêng có hai pháp.
Nên biết người nhận được cái lầm của tâm mình gọi là người trí. Nếu đã có trí huệ, thì không còn mê. Ví như từ xưa ở trong hang tối, chưa từng gặp ánh sáng mặt trời, mặt trăng, chợt có ánh đèn sáng, thì bóng tối kia chẳng cần đuổi mà chốc lát tự nó biến thành sáng.
Bóng tối vô minh phiền não, khi có ánh sáng trí huệ chiếu đến, thì không đợi phải đuổi mà tự đi. Đêm xuống khắp hư không tối, nhưng ánh sáng mặt trời xuất hiện thì hư không tối tăm kia, liền thành sáng khắp.
Tâm pháp cũng như thế. Mê thì tối, ngộ là sáng. Ánh sáng trí huệ chiếu soi, thì bóng tối phiền não tan diệt liền thành sáng suốt. Thế nên, Bồ-đề không riêng có hai pháp.
30. HỎI: Chiếu phiền não tối, là nương
sức trí huệ, không trí huệ, thì không thể có Bồ-đề. Thế thì làm thế nào được trí
huệ này?
ĐÁP: Trí quang của mình, tự nó sáng
suốt. Tuy nhiên khi bị vọng trần che khuất, tạm thời nó mất đi, nên nói mê mới
nổi dậy, chẳng khác người trong lúc thấy chiêm bao, mỗi việc mỗi việc đều là
tướng chân thật, sau khi thức giấc, lại không một việc.
Cũng thế, mộng vọng tưởng sau khi tỉnh, biết nó từ nơi bản không. Do chúng sanh mê muội, nên nhận vọng làm thực.
Cũng thế, mộng vọng tưởng sau khi tỉnh, biết nó từ nơi bản không. Do chúng sanh mê muội, nên nhận vọng làm thực.
31. HỎI: Người ngộ là hằng ngày so sánh
việc chẳng biết mà chợt biết được, vậy có thể biết được việc của quá khứ, vị lai
chăng?
ĐÁP: Hết sạch vọng kiến, mộng lớn chốc
lát tỉnh biết, thấy Phật tánh, gọi là đại ngộ, đại triệt. Chỗ này so sánh nghĩ
lường không thấu nổi.
Biết được việc quá khứ, vị lai, là do sức thần thông, và do công lực tu hành, chẳng nên gọi là đại ngộ. Bọn thiên ma, quỷ thần, ngoại đạo, tiên nhơn đều có thần thông này, xưa kia họ từng tu hành các khổ hạnh. Đức đó tuy có, nhưng chẳng rời tà kiến, nên chẳng vào được trong hàng Phật đạo.
Biết được việc quá khứ, vị lai, là do sức thần thông, và do công lực tu hành, chẳng nên gọi là đại ngộ. Bọn thiên ma, quỷ thần, ngoại đạo, tiên nhơn đều có thần thông này, xưa kia họ từng tu hành các khổ hạnh. Đức đó tuy có, nhưng chẳng rời tà kiến, nên chẳng vào được trong hàng Phật đạo.
32. HỎI: Người ngộ đạo, đắc pháp, mà
chẳng đầy đủ thần thông, thì có đức dụng gì?
ĐÁP: Thân này bởi do quá khứ ngu mê mà
kiến lập, dù là người kiến tánh thành Phật, nhưng thần thông chưa lộ bày. Thế
nhưng, ngộ thì thấu thoát sáu trần, đoạn tuyệt sinh tử, nên từ đó mà đầy đủ thần
thông diệu dụng. Đây chẳng phải là sức thần thông hữu lậu của bọn thiên ma,
ngoại đạo…
Người hoát nhiên đại ngộ, chẳng cần phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp, liền thành Phật đạo, đâu riêng luận thần thông diệu dụng ư!
Người hoát nhiên đại ngộ, chẳng cần phải trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp, liền thành Phật đạo, đâu riêng luận thần thông diệu dụng ư!
33. HỎI: Kiến tánh thành Phật, cùng tức
tâm tức Phật, có khác nhau chăng?
ĐÁP: Tức tâm tức Phật, là lời nói chỉ
thẳng ngoài tâm không có Phật. Nếu nhận nơi ý chỉ này, là người lanh lợi. Hoặc
cũng chỉ bày phi tâm phi Phật…
Kiến tánh thành Phật, là thấy biết tự tánh, đoạn tuyệt mạng căn chúng sanh, nhận ra bản tánh nhiệm mầu tròn sáng. Thế thì, không còn sinh tử, chẳng có phiền não, chỉ giả danh mà gọi là thành Phật. Phật là giác. Giác, thì rõ ràng xưa nay chẳng từng mê. Tuy không đồng, dị mà vào cửa in tuồng có sự sai khác. Do đó, liền thành lời nói có hai chiều.
Kiến tánh thành Phật, là thấy biết tự tánh, đoạn tuyệt mạng căn chúng sanh, nhận ra bản tánh nhiệm mầu tròn sáng. Thế thì, không còn sinh tử, chẳng có phiền não, chỉ giả danh mà gọi là thành Phật. Phật là giác. Giác, thì rõ ràng xưa nay chẳng từng mê. Tuy không đồng, dị mà vào cửa in tuồng có sự sai khác. Do đó, liền thành lời nói có hai chiều.
34. HỎI: Tánh thì thường trụ bất biến,
chư Phật cùng chúng sanh một vị bình đẳng. Tuy nhiên, mê là chúng sanh có khổ
sanh tử. Như vậy, đâu có thể bảo một vị bình đẳng được?
ĐÁP: Một vị bình đẳng là chỗ trí huệ
chiếu đến, chẳng phải hạng ngu si thấy được.
Tổ sư dạy: “Phải dùng hòn gạch đi gõ cửa thiện tri thức”. Khi chưa vào cửa, lời nói kiến tánh thành Phật là tột cùng. Vào được cửa này, vì lìa các tướng, nên thành Phật lại vô đắc.
Tổ sư dạy: “Phải dùng hòn gạch đi gõ cửa thiện tri thức”. Khi chưa vào cửa, lời nói kiến tánh thành Phật là tột cùng. Vào được cửa này, vì lìa các tướng, nên thành Phật lại vô đắc.
35. HỎI: Các tông Hiển, Mật, đều có tám
pháp: Giáo, Lý, Trí, Đoạn, Hạnh, Vị, Nhân, Quả. Hàng Nhị thừa Thanh văn, tu tứ
thiền, bát định, khỏi được ba tai nạn, nước, lửa, gió. Không, sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, vào vô dư Niết Bàn. Bậc Bồ-tát, gìn giữ ba tụ tịnh giới, tu từ bi
vạn hạnh, trải qua ba ngôi Hiền, mười bậc Thánh, dứt được các phiền não trong và
ngoài. Nếu bảo, phiền não không có nơi chỗ thì cảnh giới Phật nương đâu mà có ba
đời chư Phật, ra khỏi pháp giới chân như, thị hiện trong cõi dục sinh tử này ư?
ĐÁP: Chư Phật, Bồ-tát, lấy việc lợi sinh
làm sự nghiệp, nếu chẳng làm lợi ích chúng sanh thì chẳng phải là Phật, Bồ-tát.
Hàng Tam thừa, chẳng vì lợi ích chúng sanh, nên Đại thừa cho họ đã rơi vào hầm
sâu giải thoát. Hàng Bồ-tát Tam hiền, Thập thánh chuộng vào cửa huyền, vì độ
chúng sanh mà ra khỏi cõi an lạc tịch quang, hiện thân vào đời ác năm trược,
thành đạo dưới cội Bồ-đề.
Ví như chỗ cao nguyên đất bằng, không
thể mọc hoa sen, nơi ẩm thấp, bùn lầy hoa sen thường sinh trưởng tươi đẹp. Lại
như việc cấy hái của nhà nông, chỗ đất trắng khô, không thể gieo giống lúa mạ
được, gặp nơi bùn ướt có nhiều phân tốt, giống lúa mạ mới phát triển mạnh mẽ.
Nhân duyên đến mùa, dương khí sinh động, mưa gió thấm nhuần, mầm non lớn dần,
thân cây, nhánh lá xinh tươi, rậm rạp, lúa mạch, lúa mì… bắt đầu rộ chín. Bấy
giờ công việc của nhà nông hoàn tất, có thể ca khúc thanh bình.
Chư Phật ra đời cũng thế. Cõi giải thoát
tịch quang chẳng hay kiến lập Phật pháp, mà trong đời ác năm trược, các Ngài hay
mặc y xấu rách, đúng thời cơ nói pháp, gieo hạt giống chân chính, khuyến dẫn
chúng sanh đang bị phiền não ác nghiệp lôi cuốn. Nhân duyên đến mùa, mặt trời
tuệ chiếu soi, gió lành thổi mát, mưa pháp đượm nhuần, vị cam lồ chan rưới, mầm
non, nhánh lá, gốc giác đạo sum sê. Cây Bồ-đề sống mạnh, liền nở hoa Đẳng giác
kết trái Diệu giác. Thế là công việc hoá đạo lợi sanh được hoàn thành viên mãn,
khi này các Ngài có thể xướng khúc Diệu pháp Niết Bàn thường lạc.
Hàng đạo nhơn xem nhục thân này như một
gốc cây, gặp đất thối lục trần, sanh hạt giống giải thoát. Đã gieo mộng sắc
thân, mầm chồi tánh trí cũng nhân đây nẩy nở. Cội cây tâm niệm lớn dần, cọng ý
tưởng phát triển, nhánh thần thức rậm tươi, lá tình dục sum sê, thành cội rễ vô
ưu, trổ hoa tri kiến, kết trái giác ngộ. Như thế sự nghiệp của đạo hoàn thành,
có thể vui hát khúc Vô tâm.
Phàm phu cũng có một gốc cây, gặp đất
khô cằn ngu si, vun quén bằng phân tham ái, gieo hạt giống vô minh. Gieo mộng
năm uẩn, mầm chồi nghiệp thức sống dậy, cây chấp trước lớn dần, cộng nhân ngã,
nhánh siểm khúc, lá tật đố xanh rậm, thành gốc cây phiền não, đơm hoa đẹp mê
say, kết nên trái tam độc, và đó là việc danh lợi đã xong, có thể ca bài vui ngũ
dục.
Hãy nói từ nơi ba gốc cây này có sự hơn
kém nhau chăng? Nếu có người một tay nắm cả ba gốc cây này, cùng một lúc nhổ
sạch, vun trồng nơi đất không âm dương, liền thành cây vô ảnh, đương sự là hạng
người có lực lượng lớn.
Trời đất cùng ta đồng một cội nguồn,
muôn vật với ta chẳng khác thể tánh. Thử hỏi, ta là gì? Nếu nói rằng, thành
Phật, thì trời đất còn cách xa ta lắm!
TIỂU SỬ TÁC
GIẢ
Luận Tọa Thiền này của Thiền sư Đại Giác, Hòa thượng Lan Khê, hiệu Đạo Long biên soạn. Ngài cũng chính là người khai sơn chùa Kiến Trường ở Liêm Thương, được ban thụy hiệu là Đại Giác Thiền sư.
Thiền sư người nhà Tống sang Nhật Bản,
vì người tham thiền học đạo đem cả mục đích, phương pháp cùng chỗ dụng tâm trong
khi tọa thiền ra đinh ninh dạy bảo. Phần phụ có bài Tỉnh Hành Văn và Văn Phát
Nguyện của Thiền sư Đại Huệ, Tọa Thiền Luận của Hòa thượng Trung Phong. Chính
tập luận này, người khai bản, mang tâm trạng thiết tha của lão bà, đem đối chiếu
phần sau của trong Tăng lục, điểm sở đắc ấy, cũng chẳng có thể so sánh. Luận Tọa
Thiền từ xưa đã có rất nhiều bản như:
- Tọa Thiền Nghi của Tông Trường Lộ.
- Tọa Thiền Nghi của Phật Tâm Tài.
- Tọa Thiền Châm của ngài Hoằng Trí.
- Tọa Thiền Châm và Phổ Khuyến Tọa Thiền Châm của ngài Đạo Nguyên.
- Tọa Thiền Dụng Tâm Ký của Oánh Sơn v.v… nhưng chỉ có tập Luận Tọa Thiền của Lan Khê là luận về lối Tọa Thiền của Tông Lâm Tế. Dùng thể văn vấn đáp, những điều trình bày trong đó rất chu đáo, khẩn thiết, tiện cho kẻ sơ cơ tham khảo về cách tham thiền.
Sư tên húy là Đạo Long, hiệu Lan Khê, họ Nhiễm, người ở Phù Giang đất Tây Thục. Sanh vào năm Gia Định thứ 6 T.L. 1215, thời Nam Tống vua Ninh Tông, Trung Hoa.
- Tọa Thiền Nghi của Phật Tâm Tài.
- Tọa Thiền Châm của ngài Hoằng Trí.
- Tọa Thiền Châm và Phổ Khuyến Tọa Thiền Châm của ngài Đạo Nguyên.
- Tọa Thiền Dụng Tâm Ký của Oánh Sơn v.v… nhưng chỉ có tập Luận Tọa Thiền của Lan Khê là luận về lối Tọa Thiền của Tông Lâm Tế. Dùng thể văn vấn đáp, những điều trình bày trong đó rất chu đáo, khẩn thiết, tiện cho kẻ sơ cơ tham khảo về cách tham thiền.
Sư tên húy là Đạo Long, hiệu Lan Khê, họ Nhiễm, người ở Phù Giang đất Tây Thục. Sanh vào năm Gia Định thứ 6 T.L. 1215, thời Nam Tống vua Ninh Tông, Trung Hoa.
Sư thiên tánh rất siêu việt. Năm 13
tuổi, Sư đến chùa Đại Từ Thành đô và được độ. Sau, Sư đi du lịch khắp nơi để
tham cầu bậc thiện tri thức. Sư lại đáp thuyền vào Triết Giang, tham kiến ngài
Vô Chuẩn Sư Phạm, Si Tuyệt, Đạo Xung, Bắc Giang, Cự Giản… ngày ngày tham luận,
nhưng đều chưa khế ngộ.
Sư lại chống tích tìm đến Dương Sơn (Hồ
Nam) y chỉ Thiền sư Vô Minh-Huệ Tánh. Một hôm, Thiền sư Huệ Tánh đưa câu:
“Đông Sơn ngưu quá song linh”. Sư bỗng
nhiên khai ngộ. Từ giã thầy, Sư đến ngụ dưới núi Thiên Đồng thuộc Châu Minh.
Chợt có vị tăng Nhật Bản đến nói: “ Nước
tôi giáo pháp tuy được long thịnh, song rất tiếc là Thiền tông chưa có người
xiển phát”.
Nhân câu nói này, Sư ôm chí vượt bể
đông, sang Nhật Bản giáo hóa.
Năm Thuần Hựu thứ sáu T.L. 1246, thương
thuyền người Nhật cập bến Viễn Đình, Sư tới nơi và thu xếp mọi việc. Chí du
phương đã quyết, Sư tự đem theo một vài môn đệ thân tín như: Nghĩa Ông, Long
Giang… cùng đến Bác Đa. Bấy giờ, theo niên lịch của Nhật Bản là thời hậu Thiên
Hoàng Tha Nga, năm Khoan Nguyên thứ 4, T.L. 1247. Năm ấy, Sư được 33 tuổi.
Lúc đầu, phái đoàn của Sư lưu lại chùa
Viên Giác, Bác Đa. Sau đến kinh đô, ngụ trong khách viện của chùa Tuyền Dũng.
Nghe danh chùa Thọ Phước ở Liêm Thương
Đại Hiệt Liễu Tâm, Sư đến nơi, dựng tích khai pháp tòa.
Lúc này, nhà cầm quyền tại đây là Bắc
Điều Thời Lai, nghe Sư đến giáo hóa phương này rất vui mừng, rước Sư về trụ trì
chùa Thường Lạc.
Việc hành chánh được rảnh rỗi, ông
thường vào thất Sư thưa hỏi pháp yếu. Đồng thời, ông kiến tạo trong núi Địa
Doanh một ngôi đại già lam, đến năm Kiến Trường thứ 5 mới hoàn thành, lấy hiệu
là Cự Phước Sơn Kiến Trường Hưng Quốc Thiền Tự, thỉnh Sư về làm thủy tổ khai
sơn.
Sư ở chùa Thường Lạc bảy năm, rồi vào
chùa Kiến Trường ở bảy năm nữa, để tiếp đãi đại chúng bốn phương. Khi đó, họ
Thời Lai có quyên góp của một ngàn người, cùng chung đúc một quả chuông to,
thỉnh Sư làm bài Minh.
Niên hiệu Chính Nguyên thứ I, Sư đã 46
tuổi. Năm ấy, Sư nhận lời mời trở về chùa Kiến Nhơn ở kinh đô. Để cử hành ngày
úy kỵ Thiền sư Khai Sơn Minh Am, tại đây họ Thời Thánh tặng Sư hiệu “Đệ nhất
Quốc Sư”.
Trong thời gian trụ trì chùa Đông Phước,
sư đã một phen làm cho ngọn gió thiền chấn động chốn kinh thành nước Nhật. Hậu
Thiên Hoàng Tha Nga quá mộ danh Sư, Ngài triệu Sư vào cung sớm hôm ân cần thưa
hỏi pháp yếu. Sư có dâng một bài kệ:
Âm:
Túc duyên thâm hậu đáo Phù Tang,
Thiểm chủ tinh lam, thập ngũ sương.
Đại quốc bát tông kim đỉnh thạnh,
Kiến thiền môn phế, ngưỡng hiền vương.
Thiểm chủ tinh lam, thập ngũ sương.
Đại quốc bát tông kim đỉnh thạnh,
Kiến thiền môn phế, ngưỡng hiền vương.
Dịch:
Duyên trước sâu dày đến Phù Tang,
Kẻ hèn nương ở mười lăm năm.
Đại quốc tám tông nay thịnh đạt,
Cửa thiền dựng lại đợi vua hiền.
Kẻ hèn nương ở mười lăm năm.
Đại quốc tám tông nay thịnh đạt,
Cửa thiền dựng lại đợi vua hiền.
Thấy Sư dốc chí hộ trì tông môn, Thượng
Hoàng lấy làm sung sướng và cảm động.
Sư ở chùa Kiến Nhơn được ba năm, thì
nhường lại cho Nghĩa Ông. Sư trở lại Thương Dịch ở chùa Kiến Trường. Ở đây một
nhóm người phản nghịch, chúng sàm tấu lên Mạc Phủ, liền đày Sư ra Giáp Châu ở
chùa Đông Quang. Phương này, tất cả quân dân đều tranh nhau hướng về Sư. Sư
nói:
“Ta vì pháp vượt bể đến đây, mà chỉ được
giáo hóa chung quanh kinh vua, chưa có dịp rảnh rang để hướng dẫn những kẻ ở xa
xôi hẻo lánh. Nay, nhân vừa đến phương này, âu long thiên cũng sắp đặt cho ta
vậy”.
Sư thản nhiên sống tại đây ba năm, rồi
trở lại chùa Kiến Trường. Nhưng việc nghi hiềm chưa hết, Sư lại bị dời ra Giáp
Châu nữa. Lần này chẳng bao lâu, việc Sư được sáng tỏ, họ Thời Lại cho sứ rước
Sư về chùa Thọ Phước ở Thương Dịch.
Niên hiệu Hoằng An thứ I T.L. 1270,
tháng 5, Sư trở về chùa Kiến Trường.
Mùa thu, khoảng thượng tuần tháng bảy,
Sư cho hay có chút bệnh. Đến ngày 24, Sư tắm gội sạch sẽ, mặc áo xong, để lại
bài kệ:
Ỵ
ỉ
Âm:
Dụng ế tình thuật
Tam thập dư niên
Đả phiên cân đẩu
Địa chuyển thiên toàn.
Ỵ
ỉ
Âm:
Dụng ế tình thuật
Tam thập dư niên
Đả phiên cân đẩu
Địa chuyển thiên toàn.
Dịch:
Dùng thuật bệnh mắt
Hơn ba mươi năm
Đấu gân đảo ngược
Đất lở trời nghiêng.
Hơn ba mươi năm
Đấu gân đảo ngược
Đất lở trời nghiêng.
Viết xong, đặt bút xuống, sư từ giả đại
chúng rồi thị tịch, thọ 66 tuổi. Môn đồ làm lễ trà tỳ, thu linh cốt, xây tháp gỗ
bên đông nam chùa Kiến Trường thừa sự cúng dường.
Năm sau, họ Bắc Điều Thời Tông tâu về
triều phong thụy hiệu cho Sư là: “Đại Giác Thiền sư”, là vị Thiền sư đầu tiên ở
đất Nhật được Thiên Hoàng phong thụy hiệu.
Môn nhân nối pháp Sư gồm: Nghĩa Ông, Vi
Hàng, Vô Cập, Hoằng Biện, Ước Ông, Lâm Tẩu, Nguyệt Phong, Tang Điền v.v… gồm có
24 vị.
Phần trước tác của Sư ngoài tập luận này, còn có ba quyển ngữ lục và một quyển góp nhặt những lời di chúc của Sư đều được lưu hành ở đời.
Phần trước tác của Sư ngoài tập luận này, còn có ba quyển ngữ lục và một quyển góp nhặt những lời di chúc của Sư đều được lưu hành ở đời.
TỈNH HÀNH
VĂN
Phàm huyễn duyên hòa hợp, nhân huyễn mà thành sắc thân này. Sự nghiệp tu trì, từ sự hiển bày chánh lý ấy. Lý đã hiển thì không việc gì chẳng đạt. Sắc thân được thành, do huyễn mà lập. Thế nên các Thánh trước, đối với lẽ này đã rỗng suốt. Ứng cơ không trệ ngại, vượt lên trên và thông suốt, ra ngoài các phẩm loại. Chỉ có đức rúng động trời đất, không xa nào mà chẳng đến.
Các ông vào đến cửa này, phải nên tự
xét. Hạnh lành chẳng chứa, danh đâu thơm nức. Một pháp chóng sáng, muôn duyên
đều tỏ.
Lại, có kẻ cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa
Phật, hình tuy in tuồng hình tăng, mà chí chưa bỏ được chí tục. Đông tây rong
ruổi, thực giả khó phân. Chỉ biết tùy thuận duyên trần, bèn thành mê tối. Luống
hao của tín thí, uổng ở trong cửa không. Bỗng nhiên đầu bạc đến rồi, trở lại bị
hậu sanh chế giễu.
Nhớ xưa, thời thượng cổ xuất gia hình
hài nhọc nhằn, thân thể đói khát, cùng thân tột mạng, chỉ vì tham cứu việc này.
Sở dĩ “một ngày không làm, một ngày không ăn”, đâu giống như ngày nay, ngồi yên
không hổ thẹn. Đàn na tứ sự cúng dường cho ông, ý ở chỗ nào? Mong ông cứu bạt.
Song, đời này chẳng thông huyền diệu, đời sau lắm nỗi buộc ràng, thêm lụy thân
thuộc, đồng rơi vào địa ngục.
Người như thế, một giọt nước cũng khó
tiêu, huống nữa là lầu cao nhà lớn, ngồi nằm đâu an. Đã không một đức, tội có
muôn bề, cõi vui chưa thành, ngục A-tỳ tới trước.
Kính khuyên các thượng nhơn, cao sĩ học
pháp chốn Tòng lâm, mỗi người nên tự suy xét trong tâm não của mình. Xét nét cho
thực kỹ, mọi lẽ được mất. Chớ theo lũ hèn ngu, buông tuồng không biết. Mạnh mẽ
gắng sức tu hành, lấy ngộ làm chừng mực. Thường thưa hỏi bạn lành để mở rộng
kiến văn, càng được mài giũa thì đạo nghiệp dễ thành. Quả được như đây, dù cho
ngày tiêu muôn lạng vàng ròng, ở trong lâu đài ngọc báu, cũng chẳng phải phần
ngoài. Nếu chẳng như thế, lẫn lộn trong hàng tăng, chính nhân Phật pháp trông
cậy vào đâu mà nối thịnh?
Thăm thân thuộc, hỏi bệnh hoạn, đối với
đạo rất là ngại. Chỉ học Động Sơn chẳng về quê, thật có ích. Há chẳng thấy dây
thanh la nương thế cây tòng, cao vút ngàn tầm. Cá đuôi hồng tranh sóng Vũ-môn
giành vượt tam cấp. Vật vô tình còn tự vin nơi cao rộng, huống lại là người đã
dốc một lòng tin, đâu không thức thời vụ ư?
Chỉ tâm này vững, lo gì chẳng đạt. Đạo
chẳng phải từ bên ngoài mà được, ngay nơi chính mình mà tìm. Thầm xét cho thực
tinh vi, thông suốt đến chỗ uyên áo.
Ôi! Thời gian có hạn, mạng người khó bảo
tồn. Chuyển một hơi thở tóc bạc đầy đầu, chẳng nên dần dà để luống qua. Nguồn
tâm, nếu đục, đường trước lại mờ, cơn bệnh chợt đến, vô phương chống đỡ. Khi ấy
lo lắng ăn năn thì đã chậm mất. Hận mình, sớm chẳng lo tu, đến sông không
thuyền. Phật pháp mai một, nhân ngã lộng hành, không lúc nào thịnh bằng hiện
giờ, mỗi người hãy tự nỗ lực.
Kẻ ngu này vượt bể, vượt sa mạc, duyên
hợp triều này. Nêu xưa để rõ nay, há chẳng biết hổ thẹn! Cốt khuyên người hậu
học, đồng suy cứu tâm này, để báo ân sâu che chở của Phật Tổ, đáp lại công đức
cúng dường của thí chủ đàn na. Nói không được văn hoa, gắng dùng lời chỉ thẳng.
Như đây tu hành, mình người đều lợi.
Văn Phát
Nguyện Thiền sư Đại
Huệ
Nguyện cho đệ tử….
Tâm đạo vững bền
Đường dài không nản
Bốn thể khinh an.
Thân tâm dũng mạnh
Dứt hết các bệnh
Hôn, tán sớm tiêu
Không nạn, không tai.
Không ma, không chướng
Chẳng hướng đường tà
Thẳng vào chánh đạo
Phiền não tiêu diệt.
Trí huệ lớn dần
Mau ngộ đại sự
Nối huệ mạng Phật
Độ khắp chúng sinh.
Báo ân Phật Tổ
Lại nguyện chúng con
Đến khi mạng chung
Ít bệnh ít não.
Trước đó bảy ngày
Biết rõ lúc chết
An trú chánh niệm
Rốt sau tự tại.
Xả báo thân này
Mau sinh cõi Phật
Được gặp chư Phật.
Thọ chánh giác ký
Phân thân pháp giới
Độ khắp chúng sanh.
Lời Bạt
Tất cả công đức đều từ Phật tâm lưu
xuất. Phật tâm không một vật. Không Phật, không chúng sinh, không cả cái không.
Lặng lẽ như như chăng?
- Không biết!
Ai hay hiểu được lẽ này, mới kham gánh vác sứ mạng Như Lai.
Lặng lẽ như như chăng?
- Không biết!
Ai hay hiểu được lẽ này, mới kham gánh vác sứ mạng Như Lai.
- Hiểu cái gì?
- Chính như thế mà hiểu.
- Như thế nghĩa là sao?
- Xin đừng hành đạo tà.
- Phải đối xử cách nào?
- Như như bất động.
- Lịch sử truyền thừa mấy ngàn năm, những ai nói được một câu xuất cách?
- À cột phướn trước chùa đổ.
- Tiếng mảnh sành vang chạm cành trúc
- Một tiếng hét đinh tai…
- Chính như thế mà hiểu.
- Như thế nghĩa là sao?
- Xin đừng hành đạo tà.
- Phải đối xử cách nào?
- Như như bất động.
- Lịch sử truyền thừa mấy ngàn năm, những ai nói được một câu xuất cách?
- À cột phướn trước chùa đổ.
- Tiếng mảnh sành vang chạm cành trúc
- Một tiếng hét đinh tai…
- Trong vòng lưu chuyển không dừng, có
cái gì hay dừng chăng?
- Làm sao bảo được cái ấy?
- Tháng ngày qua Vô Sự Tăng.
- Làm sao bảo được cái ấy?
- Tháng ngày qua Vô Sự Tăng.
Mặt trời, mây xanh vẫn là đôi tri kỷ
quấn quít nhau giữa khoảng bao la.
Rừng già thăm thẳm, vách đá chơi vơi, vết chân chàng dũng sĩ chặt tay thuở nào hãy còn in rõ trên nền tuyết trắng Tung Sơn.
Một tiếng nổ, vỡ đất long trời,
Một vầng đông, vàng chói xuất hiện,
Một bài pháp an tâm bay vút,
Một kình ngư, vẫy sóng bể khơi.
Vang ra loang khắp, giọng nói ma trơi của lão Hồ [1] mắt biếc.
Truyền đi rào rạt, bài pháp an tâm của con cháu Như Lai.
Rừng già thăm thẳm, vách đá chơi vơi, vết chân chàng dũng sĩ chặt tay thuở nào hãy còn in rõ trên nền tuyết trắng Tung Sơn.
Một tiếng nổ, vỡ đất long trời,
Một vầng đông, vàng chói xuất hiện,
Một bài pháp an tâm bay vút,
Một kình ngư, vẫy sóng bể khơi.
Vang ra loang khắp, giọng nói ma trơi của lão Hồ [1] mắt biếc.
Truyền đi rào rạt, bài pháp an tâm của con cháu Như Lai.
Miền Nam này, vùng lên một gã tiều phu
miệng còn lẩm nhẩm…
- Những gì?
- Bồ-đề bổn vô thọ!
- Những gì?
- Bồ-đề bổn vô thọ!
A hay, lật ngược cả thiền sàn, dép cỏ.
Phải đấy, lũ hậu duệ Tung Sơn làm rạng rỡ cha ông.
Tràn dâng lên, chảy khắp non sông,
Vượt lấp mây ngàn cùng vũ trụ.
Chỉ một dòng sữa an tâm, thấm dịu nơi nơi…
Phải đấy, lũ hậu duệ Tung Sơn làm rạng rỡ cha ông.
Tràn dâng lên, chảy khắp non sông,
Vượt lấp mây ngàn cùng vũ trụ.
Chỉ một dòng sữa an tâm, thấm dịu nơi nơi…
Quát cho dứt bặt, vỡ óc ra,
Cười vang lên, mãi tận thôn xa,
Mới thấy lão già, không phỉnh gạt.
- Cái gì?
- Những con người, hằng xướng khúc an tâm.
Cười vang lên, mãi tận thôn xa,
Mới thấy lão già, không phỉnh gạt.
- Cái gì?
- Những con người, hằng xướng khúc an tâm.
Ô kìa, miền hải đảo!
Lớp lớp người, xông xáo hỏi tổ tông,
Bước họ đi, quyện tỏa cuồng phong,
Tay áo phất, chân hư đổ ngược.
Ai biết thế nào, những con người ấy?
- Thốt nửa lời ba gậy vào hông.
Lớp lớp người, xông xáo hỏi tổ tông,
Bước họ đi, quyện tỏa cuồng phong,
Tay áo phất, chân hư đổ ngược.
Ai biết thế nào, những con người ấy?
- Thốt nửa lời ba gậy vào hông.
Từ bình nguyên, chí dãy non xanh,
Có gì, trong dáng người lam lũ?
A đây rồi, rắn quẫy, rồng bay,
Trăng, sao rơi rụng tháng ngày say.
Say cái gì?
Say cái không say, ấy thực say,
Thực say, mới say cái không say
Say không say, cả hai ấy say.
Chính đấy thức dậy, cái không say.
Lảm nhảm gì?
- Trời xanh! ¯
Có gì, trong dáng người lam lũ?
A đây rồi, rắn quẫy, rồng bay,
Trăng, sao rơi rụng tháng ngày say.
Say cái gì?
Say cái không say, ấy thực say,
Thực say, mới say cái không say
Say không say, cả hai ấy say.
Chính đấy thức dậy, cái không say.
Lảm nhảm gì?
- Trời xanh! ¯
Có câu chuyện như thế này nhá!
Một hảo hán kia, nhân khi nhàn rỗi, đến hỏi Hồ tăng pháp an tâm.
Ông già chỉ bảo:
“Đem tâm đến”
Rồi. Trời sập!
Hảo hán cười, thưa:
- Thế, mới nhổ tận gốc lão già bị chôn cứng chín, mười năm…
Một hảo hán kia, nhân khi nhàn rỗi, đến hỏi Hồ tăng pháp an tâm.
Ông già chỉ bảo:
“Đem tâm đến”
Rồi. Trời sập!
Hảo hán cười, thưa:
- Thế, mới nhổ tận gốc lão già bị chôn cứng chín, mười năm…
Nhật Quang.
---o0o---
Nguồn: Thư Viện Hoa Sen
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 2-2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét