Thiền Quan Sách Tấn
"Thiền Quan Sách Tấn" do
ngài Châu Hoằng rút những chuyện cốt yếu, xếp theo loại, biên thành tập từ hai
quyển Thiền Môn Phật Tổ Cương Mục và Ngữ Đăng Chư Ngữ Lục. Trong ấy ghi chép
những lời tường thuật của các vị Tôn túc về sự tham học, tu chứng của mình.
Dù đi đâu ở nơi nào thì ngài cũng để
nó trên bàn, đi đâu thì mang theo trong bị, mỗi lần đọc cảm thấy kích lệ tâm
chí, tinh thần khoáng đạt, như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy gắng tiến. Có
thể nói quyển sách này rất cần thiết đối với người chưa vượt qua khỏi cửa.
Thiền Quan Sách Tấn
Tuyển Giả: Sa môn Châu Hoằng
Dịch giả: Thích Thanh Từ
Nhà Xuất Bản Thiền Học 2507 – DL. 1963
(Chánh tân tu đại tạng, quyển 48, Chư Tông Bộ, số hiệu
2024, 1 quyển, Thiền Quan Sách Tấn, Minh Châu Hoằng Tập, dtkvn)
Mục Lục
Tựa
Chương I: Rút Gọn Lời Dạy Chư Tổ.
1. Hoàng Bá Vận Thiền sư dạy Chúng.
2. Triệu Châu Thẩm Thiền sư dạy
Chúng.
3. Huyền Sa Bị Thiền sư dạy Chúng.
4. Đại Nghĩa Thiền sư răn dạy.
5. Vĩnh Minh Thọ Thiền sư răn dạy.
6. Tử Tâm Tân Thiền sư tiểu tham.
7. Đông Sơn Diễn Thiền sư tiễn đệ tử
đi hành khước.
8. Ghi Am Chơn Thiền sư dạy.
9. Đại Huệ Cảo Thiền sư đáp lời hỏi.
10. Mông Sơn Dị Thiền sư dạy Chúng.
11. Tố Am Điền Đại sĩ dạy Chúng.
12. Vô Lượng Thương Thiền sư dạy.
13. Cương Nhu Thiền sư đáp thơ
người.
14. Tuyết Nham Khâm Thiền sư dạy.
15. Cao Phong Diệu Thiền Sư dạy
Chúng.
16. Thiết Sơn Ái Thiền sư dạy.
17. Đoạn Nhai Nghĩa Thiền sư dạy
Chúng.
18. Trung Phong Bổn Thiền sư dạy
Chúng.
19. Thiên Như Tắc Thiền sư dạy.
21. Vô Văn Thông Thiền sư dạy.
22. Độc Phong Hòa thượng dạy Chúng.
23. Bát Nhã Hòa thượng dạy Chúng.
24. Tuyết Đình Hòa thượng dạy Chúng.
25. Cổ Mai Hữu Thiền sư dạy Chúng.
26. Kiệt Phong Ngu Thiền sư dạy
Giảng sư Ngũ Đài.
27. Hạt Đường Thiền sư đáp lời Vua
hỏi.
28. Đoạn Ngạn Hòa thượng dạy Chúng.
29. Cổ Chuyết Thiền sư dạy Chúng.
30. Thái Hư Thiền sư dạy Chúng.
31. Sở Thạch Kỳ Thiền sư dạy Chúng.
32. Phổ Tế Thiền sư đáp thơ Lý Tướng
Quốc.
33. Sở Sơn Kỳ Thiền sư giải chế.
34. Độc Phong Thiện Thiền sư dạy
Chúng.
35. Không Cốc Long Thiền sư dạy
Chúng.
36. Thiên kỳ Hòa thượng dạy Chúng.
37. Cổ Âm Cầm Thiền sư dạy Chúng.
38. Dị Nham Đăng Thiền sư thích
nghi.
39. Nguyệt Tâm Hòa thượng dạy Chúng.
Chương II: Sự Khổ Công Tu Tập Của Chư Tổ
1. Một mình ngồi trong tịnh thất.
2. Ngồi trên cây dựa mé hố.
3. Ăn rau ngủ dưới gốc cây.
4. Không giải y.
5. Lấy dùi chích vào mình.
6. Trong thất tối không quên.
7. Chiều về rơi nước mắt.
8. Tám năm nỗ lực tu hành.
9. Đánh thức bằng cách kê đầu gối
tròn.
10. Bị mưa không hay.
11. Thề không xổ mền.
12. Ném thơ không xem.
13. Do kiên thệ được giác ngộ.
14. Không lúc nào duyên cảnh khác.
15. Giây phút không quên.
16. Quên đò đến bến.
17. Quên cả ăn ngủ.
18. Thân miệng đều quên.
19. Bỏ hết muôn việc.
20. Bế cửa nỗ lực tham cứu.
21. Đụng đầu vào cột.
22. Trong thất khắc khổ.
23. Quên nằm.
24. Giữ độn công phu.
Chương III: Dẫn Các Kinh
1. Im lặng chuyên cần tu tập.
2. Không thấy Đạo thề không nằm
nghỉ.
3. Vì chuyên cần cam chịu mọi khó
khổ.
4. Hông không bén chiếu.
Tựa
Thiền lại có cửa (quan) sao? Đạo vốn
không có trong, ngoài, ra, vào; nhưng người hành đạo bởi có mê, ngộ nên bậc đại
thiện tri thức giữ cửa không thể không có khi mở, đóng. Các Ngài giữ khóa chốt
kỹ càng, tra hỏi nghiêm ngặt, khiến những kẻ loạn ngôn, tà ý muốn vượt qua bị
cửa ngăn cản không thể thực hiện được mưu gian, cũng là cái kế giữ lâu dài vậy.
Tôi khi mới xuất gia được gặp một
pho sách để trong phòng tên THIỀN MÔN PHẬT TỔ CƯƠNG MỤC. Trong ấy ghi chép
những lời tường thuật của các vị Tôn túc về sự tham học, tu chứng của mình. Nào
lúc mới tham học khó khăn thấu hiểu, lúc thực hành công phu nhọc nhằn khổ sở,
đến sau cùng bỗng nhiên thấu ngộ. Tôi đọc qua, lòng rất kính mộ, nguyện học
theo gương các Ngài. Bộ sách này các nơi khác không thấy có. Kế tôi đọc bộ Ngũ
Đăng Chư Ngữ Lục trong Tạp truyện, không luận những vị xuất gia hay tại gia có
thật tham, thật ngộ, tôi đều góp nhặt thêm vào phần trước pho sách.
Tôi chọn rút những chuyện cốt yếu,
xếp theo loại, biên thành tập lấy tên là THIỀN QUAN SÁCH TẤN. Ở nơi nào thì tôi
để nó trên bàn, đi đâu thì mang theo trong bị, mỗi lần đọc cảm thấy kích lệ tâm
chí, tinh thần khoáng đạt, như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy gắng tiến.
Có thể nói quyển sách này rất cần
thiết đối với người chưa vượt qua khỏi cửa, nếu với kẻ vượt khỏi cửa đã xa thì
đâu còn cần dùng? Tuy nhiên, ngoài cửa này còn lớp cửa khác, chẳng qua giả mượn
tiếng gà, tạm rời miệng cọp mà thôi. Được ít cho là đủ là người tăng thượng
mạn. Sông chưa cùng, núi chưa tột vẫn phải gắng tiến. Chạy mau, đi mãi bao giờ
vượt khỏi cái cửa đen tối sau cùng, chừng ấy sẽ chậm rãi nghỉ ngơi không muộn.
Niên hiệu Vạn Lịch năm thứ 28, đầu
mùa Xuân
Chùa Vân Thê
Sa môn Châu Hoằng
Cẩn chí
ChươngI. Rút Gọn Lời Dạy Chư
Tổ:
Phần này, tôi không biên những lời
cao siêu của chư Tổ, chỉ rút những chỗ thực hành công phu khẩn thiết. Lại rút
gọn những chuyện cốt yếu cho tiện hằng ngày đọc qua để kích lệ thân tâm.
1. Hoàng Bá Vận Thiền sư dạy Chúng:
Về trước tu tập nếu chưa thấu triệt,
một phen lưỡi hái tử thần kề cổ, sẽ thấy trăm mối rối ren. Thế mà, có một bọn
ngoại đạo vừa thấy người hạ thủ công phu, bèn cười lạt, bảo rằng: Còn có cái ấy
nữa. Ta thử hỏi ông: Nếu khi thần chết đến, ông lấy cái gì để chống cự lại? Vậy
lúc rảnh rang lo giải quyết cho xong, đến khi gấp rút được ít nhiều tỉnh lực.
Chớ đợi khát nước mới lo đào giếng, khi tay chân co rút, đường trước mịt mờ,
trăn trở rối loạn, khổ thay! Khổ thay! Bình nhựt chỉ học Tam muội ngoài môi,
nói Thiền, nói đạo, trách Phật, chê Tổ, đến lúc này tất cả buông xuôi. Chỉ
tưởng dối với người, đâu ngờ ngày nay dối mình.
Tôi khuyên hết thảy huynh đệ, lúc
thân thể còn tráng kiện nên chọn lấy những điều mình đã hiểu, làm động cơ tu
tiến thì rất dễ dàng. Tự các ông không chịu lập chí quyết chết thực tập công
phu, chỉ nghĩ là khó thì lại càng thấy khó. Nếu là bậc trượng phu hãy khán công
án. Có vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: "Con chó có Phật tánh không?"
Ngài Triệu Châu đáp: "Không". Suốt 12 thời (24 tiếng đồng hồ) khán một
chữ KHÔNG. Ngày tham, đêm tham, đi, đứng, ngồi, nằm, mặc áo, ăn cơm, đại tiểu
tiện v.v… đều dồn hết tinh thần khán một chữ KHÔNG. Lâu ngày chầy tháng kết
thành một khối, bỗng nhiên tâm hoa khai phát, ngộ được cái máy nhiệm mầu của
Phật, Tổ, sẽ không còn ngờ vực câu nói của Lão Hòa thượng, thấu triệt đại ngộ.
Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ đến, không gió đã làm dậy sóng. Đức Thế Tôn đưa cành hoa cả
hội đều ngơ ngác. Lý này, dù nói đến chết, cả ngàn vị Thánh còn chẳng biết thế
nào, chưa tin được cái đạo quá kỳ đặc như thế. Việc này chỉ ngại người hữu tâm.
2. Triệu Châu Thẩm Thiền sư dạy
Chúng:
Các ông chỉ thấu đạt lý tọa Thiền,
chuyên khán hai ba mươi năm, nếu không hội ngộ chặt đầu Lão Tăng đi. Lão Tăng
ngót 40 năm chuyên khán không dụng tâm tạp loạn, trừ hai thời cơm và cháo mới
tạp dụng tâm.
3. Huyền Sa Bị Thiền sư dạy Chúng:
Phàm người học Bát nhã Bồ tát phải
đủ đại căn cơ, đại trí tuệ mới được. Nếu căn cơ trì độn, phải chuyên cần khổ
nhọc, nhẫn nại đêm ngày quên mệt, giống như người đi đưa đám ma mẹ, cần cù cấp
bách sẽ có người phụ lực. Ghi tạc trong lòng chuyên tâm thật cứu, ắt có ngày
hội ngộ.
4. Đại Nghĩa Thiền sư răn dạy:
Chớ có quên mình với tử tâm,
Bệnh này khó trị thật quá thâm,
Mau mau đề khởi tâm suy xét,
Cần kiếm Tổ sư nghĩa nhiệm mầu
Lỡ khi ngủ gật, liền trợn mắt,
Xem thử kèo nhà, nó là gì?
Nếu người tịnh tọa chẳng dụng công,
Bao giờ mới được ngộ tâm không?
5. Vĩnh Minh Thọ Thiền sư răn dạy:
Cửa học đạo không có gì kỳ đặc, chỉ
cần gột sạch căn, trần và những chủng tử nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến giờ.
Các ông nếu tiêu trừ hết tình niệm, đoạn dứt vọng duyên, đối với tất cả thứ ái
dục ở thế gian tâm không động nhiễm như cây đá, dù đạo nhãn chưa sáng, tự nhiên
thân tâm an tịnh. Nếu gặp bậc đạo sư chân chánh phải thiết tha thân cận, giả sử
tham chưa thấu triệt, học chưa thành tài, một phen tai nghe đạo vị tạo thành
chủng tử đạo trong tàng thức, kiếp kiếp không sa vào ác thú, đời đời không mất
thân người, vừa sanh ra một nghe ngàn ngộ.
6. Tử Tâm Tân Thiền sư tiểu tham:
Chư Thượng tọa! Thân này khó được,
Phật pháp khó nghe, chính đời này không lo độ, mong đời nào độ thân này? Các
ông thích tham Thiền ư? Phải buông bỏ hết. Buông bỏ cái gì? Buông bỏ tứ đại,
ngũ uẩn, buông bỏ những nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến nay. Nhìn xuống gót
chân mình suy cùng, xét tận xem nó là cái gì? Xét qua xét lại, bỗng nhiên tâm
hoa phát sáng, chiếu khắp cõi nước mười phương.
Có thể nói được tại tâm, nắm trong
tay, mới hay biến quả đất thành vàng ròng, khuấy nước sông làm tô lạc, thật
khoái chí thay! Chớ nên cắm đầu trên sách vở, xét lời bàn chữ, nói Thiền luận
đạo, Thiền đạo không có ở trên sách vở. Dù nhớ hết Đại tạng kinh thuộc lòng
Bách gia chư tử, cũng chỉ là luận bàn suông chơi, đến khi chết trọn không lợi
ích gì.
7. Đông Sơn Diễn Thiền sư tiễn đệ tử
đi hành khước:
[Hành khước: Đi khắp nơi tìm thầy,
tìm bạn học hỏi, cốt yếu không ở lâu một chỗ để dứt tâm quyến luyến nhiễm
trước.]
Ông nên ghi hai chữ Sanh Tử trên
trán, xét nét tìm hiểu. Chớ có kết bè, hiệp bọn cười giỡn qua ngày. Lúc Diêm
vương đến không thể đem cơm tiền đút lót được. Chớ bảo rằng ta chưa từng nhắc
ông.
Nếu thực tập công phu, phải luôn
luôn kiểm điểm thường thường xét nét, thế nầy là chỗ đắc lực, thế kia là chỗ
không đắc lực, thế này là chỗ được, thế kia là chỗ mất. Có một bọn vừa lên Bồ
đoàn [Bồ đoàn: Đồ lót ngồi trong lúc tọa Thiền lạnh. Thực tập công phu như vậy,
quyết định có ngày đạt đạo.] liền ngủ gật, đến lúc tỉnh thì tâm tưởng lăng
xăng, vừa xuống Bồ đoàn là nói chuyện vang rân. Biện đạo như thế đến Đức Phật
Di Lặc ra đời cũng chưa kết quả. Phải sáng suốt, mạnh mẽ đề khởi câu thoại đầu,
sáng tham, tối tham cùng với thùy miên, loạn tưởng chống nhau, không nên tọa
trong vô sự. Lại không nên trên Bồ đoàn ngồi như chết. Nếu tạp niệm dấy khởi,
càng tranh đấu càng nhiều chi bằng nhẹ nhàng buông xả, bước xuống đất đi một
vòng. Lại lên bồ đoàn mở mắt, để hai bàn tay ngón cái gối đầu nhau, xương sống
thẳng lên, y như trước đề khởi thoại đầu, liền có cảm giác mát mẻ, in như trả
nước sôi vừa đổ vào một gáo nước.
8. Ghi Am Chơn Thiền sư dạy:
Tin có 10 phần, nghi cũng có 10
phần; nghi 10 phần, ngộ cũng 10 phần. Hãy đem những cái đã nghe, đã thấy, biết
quấy, hiểu lầm, câu hay, lời diệu, Thiền đạo, Phật pháp, tâm cống cao ngã mạn …
trong lúc bình sanh trút đổ triệt để. Chỉ để lại công án còn chưa minh liễu, an
định tại gót chân, ngồi thẳng xương sống, không phân biệt ngày đêm, liền được
quên lửng đông, tây, nam, bắc, tợ hồ như người chết. Tâm tùy cảnh hóa, tự nhiên
bên trong quên suy nghĩ, bặt tâm thức, chợt phá vỡ đầu lâu, xưa nay không phải
do ai mà được. Bấy giờ đâu không thỏa chí bình sanh sao!
9. Đại Huệ Cảo Thiền sư đáp lời hỏi:
Thời nay có những kẻ tự mắt chưa
sáng, chỉ biết dạy người tu tâm như ngây, như chết là hết việc. Hoặc dạy người
tùy duyên quán xét, mang vọng tình lặng lẽ chiếu soi. Hoặc dạy người việc ấy
chớ soi xét. Các bệnh như thế, dụng công phu rất uổng không bao giờ liễu ngộ.
Chỉ cần an tâm một chỗ, không việc gì chẳng được, một khi thời tiết nhơn duyên
đến, tự nhiên xúc chạm liền thấy khắp nơi đều bừng sáng.
Đem tâm thức duyên việc thế gian
trần tục của mình, xoay lại để trên lầu Bát nhã, dù đời này chưa triệt ngộ,
nhưng khi chết nhất định không bị ác nghiệp kéo lôi. Kiếp sau, vừa ra đời là
được ở trong nhà Bát nhã, thấy nghe liền được thọ dụng. Việc này quyết định như
vậy không thể nghi ngờ.
Chỉ phải tự luôn luôn đề khởi thoại
đầu, khi vọng niệm dấy khởi không cần dụng tâm đàn áp, nên khán câu thoại đầu.
Đi cũng đề khởi, ngồi cũng đề khởi, đề khởi qua, đề khởi lại, không cần xét ý
nghĩa, nơi nào cũng là chỗ tốt, không nên phóng xả. Bỗng nhiên tâm hoa khai phát
chiếu soi khắp mười phương cõi nước, hay ở trong đầu mảy lông hiện các cõi
Phật, ngồi trong hạt bụi chuyển đại pháp luân.
10. Mông Sơn Dị Thiền sư dạy Chúng:
Tôi năm 20 tuổi mới hiểu đạo, đến
năm 32 tuổi đi thưa hỏi 17, 18 vị Trưởng lão, thế nào thực hành công phu, đều
không ai chỉ ra manh mối. Sau đến tham học với Hoàng Sơn Trưởng lão, dạy khán
chữ KHÔNG. Suốt cả ngày đêm chăm chăm khán nó như mèo rình chuột, như gà ấp
trứng, không cho gián đoạn. Khi chưa thấu triệt phải như chuột khoét rương chưa
phủng thì không dời chỗ khác. Thực hành công phu như vậy nhất định có ngày phát
minh. Tôi y lời dạy, ngày đêm chăm chăm thể cứu trải 18 hôm, sau khi uống trà,
chợt ngộ "Đức Thế Tôn đưa cành hoa, Ngài Ca Diếp mỉm cười", vui mừng
vô hạn. Đi cầu 4, 5 vị Trưởng lão quyết nghi, các ngài đều không dạy một lời.
Hoặc bảo dùng Hải ấn tam muội [Hải ấn Tam muội: Chánh định trong lặng tâm suốt
thấu vạn vật, như biển nước yên lặng vạn tượng đều in hình không sót. tục.],
nhất ấn mà ấn định, ngoài ra chớ để lòng. Tôi tin lời nầy hơn hai năm. Nhằm năm
Cảnh Định thứ 5 tháng sáu, tại Tứ Xuyên phủ Trùng Khánh, tôi bị bệnh kiết nặng,
ngày đêm đi cả trăm lần, nguy kịch sắp chết. Tất cả công phu đều không đắc lực,
đến Hải ấn Tam muội cũng không dùng được. Những điều hiểu ngộ ngày trước dùng
cũng không được, có miệng không thể nói ra lời, có thân không thể cử động, chỉ
chờ chết mà thôi. Tôi cố sức gắng gượng làm chủ, phân phó mọi việc xong xuôi,
bước lên bồ đoàn, sửa soạn một lò trầm, chậm rãi ngồi định. Thầm khấn:
"Tam bảo Long Thiên chứng giám, con xin sám hối các nghiệp ác về trước.
Nếu đại hạn con đã đến, nguyện nương sức Bát nhã chánh niệm thác sanh, sớm được
xuất gia. Nếu bệnh được lành, con xin xả tục làm Tăng, mau được giác ngộ, rộng
độ những kẻ sau". Khởi nguyện nầy rồi, tôi đề khởi chữ KHÔNG hồi quang tự
khán, không bao lâu nghe trong tạng phủ động ba bốn lần, không quan tâm đến nó,
chập lâu mí mắt không động. Lại lâu lâu không thấy có thân, chỉ có thoại đầu
thầm thầm liên
Đến chiều mới xuất định, bệnh bớt
được phân nửa. Lại tọa Thiền đến cuối canh ba, các bệnh đều dứt, thân tâm nhẹ
nhàng. Đến tháng 8, tôi sang Giang Lăng xuất gia.
Qua một năm, tôi rời đây đi hành
khước, giữa đường dừng lại thổi cơm, hiểu được công phu một mạch liên tục không
gián đoạn. Đến Huỳnh Long, vào tạm trú. Một hôm, đang tọa Thiền ma ngủ đến,
liền tại tòa chấn chỉnh tinh thần, ma ngủ nhẹ nhẹ rút lui. Lần thứ hai, ma ngủ
lại đến, cũng làm như lần trước chúng thối lui. Lần thứ ba, ma ngủ rất trầm
trọng, bèn bước xuống tòa đi lễ Phật, chúng liền tiêu tán. Lại lên Bồ đoàn
ngồi, y như nghi thức đã định trước, tinh tấn mãnh liệt đuổi bọn ma ngủ đi mất.
Ban đầu khi ngủ dùng gối ngắn kê đầu, sau dùng cánh tay gối đầu, sau nữa giữ
không cho thân xoay trở. Qua hai ba đêm, ngày đêm đều nhọc nhằn mỏi mệt, dưới
chân bức bách khó chịu, bỗng nhiên trước mắt như mây mù tan, tự thân như tắm
mới ra nhẹ nhàng mát mẻ. Trong tâm nghi tình càng mạnh, không cần dụng công mà
thầm thầm hiện tiền. Tất cả thinh sắc, ngũ dục, bát phong đều không thể xâm
nhập, trong sạch tợ như tách pha lê đựng tuyết, như bầu trời trong tạnh buổi
sáng mùa thu. Tự suy nghĩ công phu tuy khả quan, nhưng không thể quyết trạch.
Tôi liền từ giã đi Chiết Giang.
Dọc đường quá nhọc nhằn nên công phu
thối thất. Đến Thừa Thiên, chỗ Cô Thiềm Hòa thượng tạm dừng. Tự thệ: "Nếu
không được hội ngộ, quyết không đi đâu". Hơn một tháng công phu phục hồi
như cũ. Bấy giờ khắp mình sanh ghẻ lở, tuy thế không để ý đến, quyết tâm liều
chết sấn sướt công phu, tự nhiên được đắc lực. Thế là, thực hành được công phu
trong lúc bệnh. Một hôm nhơn đi thọ trai, vừa ra khỏi cửa đề khởi thoại đầu, đi
mà không hay mình đi cho đến nhà trai chủ. Lại thực hành được công phu trong
lúc động. Công phu đến chỗ này như trăng hoa dưới đáy nước, tuy sóng gió ầm ầm
ở trên mà vẫn không tan, không mất, hoạt bát linh động.
Ngày mùng 6 tháng 3, tôi trong khi
tọa Thiền đề khởi chữ KHÔNG, bỗng ngài Thủ tọa vào Thiền đường thắp hương, đụng
hộp nhang khua lên tiếng, hốt nhiên như dưới đất động một tiếng, chợt ngộ được
chính mình, thấu đạt được ý ngài Triệu Châu. Liền đắc ý một bài tụng:
Chớ bảo cuối đường cùng,
Dẫm ngược sóng là nước.
Lão Triệu Châu siêu quần,
Diện mục chỉ như thế.
Nguyên văn:
Một hưng lộ đầu cùng
Đạp phiên ba thị thủy
Triệu Châu lão siêu quần
Diện mục chỉ như thị.
Khoảng mùa thu đến yết kiến các vị
Đại lão: An Kiến, Tuyết Nham, Thối Tỉnh, Thạch Khanh, Hư Chu. Hư Chu khuyên trở
về Hoàng Sơn. Tôi y lời trở về Hoàng Sơn.
Vừa vào chùa gặp Hoàng Sơn Trưởng
lão hỏi: "Quang minh tịch chiếu biến hà sa, đâu không phải lời của Tú Tài
Trương Chuyết?". Tôi vừa mở miệng, Ngài nạt một tiếng, rồi đi. Từ đây, đi,
ngồi, ăn uống đều không còn ý tứ, trải qua sáu tháng. Đến năm sau vào mùa xuân,
nhơn ra ngoài thành trở về, lên bực thang đá, bỗng nhiên nghi ngại trong lòng
đều tiêu tan, không còn biết có thân đi trên đường. Tôi vào yết kiến Hoàng Sơn.
Ngài hỏi lại câu trước. Tôi bèn lật ngược Thiền sàng. Về trước những phương
pháp thực hành, bao nhiêu công án, giờ này mỗi mỗi đều minh liễu.
11. Tố Am Điền Đại sĩ dạy Chúng:
Gần đây những người dốc chí tham
Thiền rất ít, vừa tham câu thoại đầu liền bị ma hôn trầm, tán loạn lôi cuốn.
Không biết hôn trầm, tán loạn với nghi tình chống đối nhau. Tín tâm nặng thì
nghi tình nhiều, nghi tình nhiều thì hôn trầm, tán loạn tự mất.
12. Vô Lượng Thương Thiền sư dạy:
Suốt cả ngày đêm đều ôm câu thoại
đầu mà đi, mà đứng, mà ngồi, mà nằm, tâm dường như dẫm lên gai nhọn, không bị
tất cả vô minh, ngũ dục tam độc …, nuốt sống. Đi đứng ngồi nằm toàn thân là
nghi tình, nghi qua, nghi lại, trọn ngày như ngây ngốc, thấy sắc, nghe tiếng,
chỉ giữ một tiếng động ấy thôi.
13. Cương Nhu Thiền sư đáp thơ
người:
Thực tập công phu cần phải khởi đại
nghi tình. Ông tập công phu chưa đầy một tháng đã kết thành khối. Nếu chơn nghi
hiện tiền thì dù khuấy cũng không động. Cần phải dõng mãnh tiến tới, trọn ngày
như kẻ ngây khờ, khi thời tiết đến, không còn sợ con qui trong vò chạy mất.
14. Tuyết Nham Khâm Thiền sư dạy:
Thời giờ không đợi người, một chớp
mắt đã qua đời khác, lúc thân thể còn tráng kiện sao không dốc chí học hỏi cho
thấu nguồn tột đáy. Chúng ta có cái diễm phúc gì mà ngày nay được ở trong Tăng
đường ấm cúng, tại pháp hội của Tổ sư, trên ngọn danh sơn Đại trạch Thần long
thế giới này. Ăn thì cơm cháo ngon lành, uống thì nước nôi ấm áp. Nếu không dốc
chí học hỏi giáo lý cho tận cùng, triệt để, là các ông tự thả trôi đời mình cam
chịu trôi lăn, thật là kẻ hạ liệt ngu si! Nếu thật là mờ mịt không biết, sao
không thưa hỏi các bậc tiên tri? Phàm những khi có người hỏi đạo, các bậc
Trưởng lão chỉ dạy, hoặc nói ngang nói dọc sao không ghi nhớ xét nghĩ rốt ráo
thử cái đó là cái gì?
Sơn tăng (Ngài tự xưng) xuất gia lúc
năm tuổi, làm Thị giả thượng nhơn, mỗi khi Ngài cùng khách luận đạo đều lặng
tâm lóng nghe, liền biết có việc này, lòng tin chắc chắn khởi sự học tọa Thiền.
Năm 16 tuổi làm Tăng, 18 tuổi đi hành khước. Đến chỗ Hòa thượng Song Lâm Viễn,
thực tập công phu từ sáng đến chiều không ra khỏi ngõ, dù vào liêu của chúng
cũng chỉ đi đến giá phía sau. Vòng tay trước ngực, không ngó hai bên, chỉ nhìn
trước không hơn ba thước. Ban đầu khán chữ KHÔNG, chợt niệm đầu phát khởi, liền
phản quán trở lại, bỗng được một niệm như băng lạnh, tâm lóng lặng trong trẻo
không diêu động, hơn một ngày và khoảng một khắc (15 phút) không nghe tiếng
chuông trống.
Năm tôi 19 tuổi dừng tại Linh Ẩn, được
thơ Xử Châu gởi đến. Trong thơ nói: "Nghe ông thực tập công phu như nước
lạnh, việc ấy không hay, hai tướng động và tịnh phải đoạn dứt. Phàm tham Thiền
phải khởi nghi tình, nghi ít ngộ ít, nghi nhiều ngộ nhiều…". Được Xử Châu
chỉ bảo, tôi liền đổi thoại đầu khán "càn niệu quyết" [Càn niệu
quyết: có người hỏi Tổ Vân Môn: "Thế nào là Phật?" Tổ đáp: "Càn
niệu quyết" (đồ hốt phẩn)]. Một bề đông nghi tây nghi, khán ngang khán
dọc, lại bị hôn trầm, tán loạn giao công, không được một khắc yên tịnh. Tôi bèn
dời sang Tịnh Từ. Được bảy huynh đệ kết bạn tọa Thiền, giao ước không đấp mền
và không kề lưng xuống chiếu. Ngoài ra, có Tu Thượng tọa mỗi ngày ngồi trên bồ
đoàn in tuồng "thiết quyết tử" [Thiết quyết tử: Dáng sừng sừng chăm
chăm đáu đáu in tuồng cây giá áo sắt.] khi bước xuống đi mở đôi mắt, xuôi hai
tay cũng tợ "thiết quyết tử". Muốn gần gũi Ngài để hỏi thoại đầu, mà
không được. Nhơn hai năm thân không nằm, bị hôn trầm hành rất khổ sở. Bèn một
buông, tất cả đều buông. Sau hai tháng, mới chỉnh đốn được sự tu tập trước, lần
lần tinh thần hồi phục. Lâu nay cốt mong đạt được bản hoài, nên không nằm quên
ngủ; nhưng không ngủ không được, đến giữa đêm buồn ngủ muồi phải ngủ một giấc,
thức dậy mới có tinh thần.
Một hôm, bên hành lang gặp Tu Thượng
tọa, mới một lần được gặp Ngài. Tôi liền hỏi: "Năm rồi, muốn nhờ thầy dạy
câu thoại đầu, tại sao thầy cứ tránh tôi?". Thượng tọa bảo: "Người
chơn chánh biện đạo không có rảnh mà cắt móng tay, huống là dạy thoại
đầu". Tôi hỏi: "Hiện giờ tôi bị hôn trầm, tán loạn đuổi không đi,
phải làm sao?". Thượng tọa dạy: "Tại ông không mãnh liệt, phải lên Bồ
đoàn ngồi thẳng xương sống, gom toàn lực vào câu thoại đầu, không màng đến hôn
trầm, tán loạn". Tôi y lời dạy của Thượng tọa thực hành công phu, bỗng
nhiên quên cả thân tâm, trong trẻo sáng suốt cả ba ngày đêm, hai con mắt không
nhắm. Ngày thứ ba, sau buổi ngọ trai, tôi kinh hành ngoài tam môn, chợt gặp
Thượng tọa. Thượng tọa hỏi: "Ông thực hành công phu thế nào?". Tôi
thưa: "Được đạo". Thượng tọa hỏi: "Ông nói thế nào được
đạo?". Tôi lặng thinh không thể trả lời, lại tăng thêm mê muội. Toan quay
vào Thiền đường tọa Thiền, chợt gặp Thủ tọa. Thủ tọa bảo: "Ông chỉ mở sáng
đôi mắt, xem thử cái ấy là cái gì?". Tôi lại bị đề thêm một câu thoại đầu,
vội vã vào Thiền đường tọa Thiền. Vừa lên ngồi Bồ đoàn, bỗng nhiên trước mặt mở
sáng như tuồng đất lỡ. Trạng thái này không thể trình bày cho người hiểu được,
không thể lấy các tướng thế gian thí dụ được. Tôi bèn bước xuống đơn tìm Thượng
tọa. Thượng tọa thấy, liền bảo: "Tốt lắm! tốt lắm". Rồi nắm tay tôi
dẫn đi một vòng trên bờ liễu trước cửa chùa. Ngước nhìn trời đất xum la vạn
tượng, những vật mắt thấy tai nghe xưa nay là đáng chán, đáng bỏ, cho đến vô
minh, phiền não từ trước đến giờ đều là Diệu minh của mình, lưu xuất từ chơn
tánh. Hơn nửa tháng không khởi xao động. Rất tiếc! không gặp bậc Tôn túc sáng
suốt hướng dẫn nên không tiến lên được, phải dừng trụ nơi đây. Không thể vượt
được chỗ thấy biết, làm ngăn ngại chánh tri kiến, mỗi khi ngủ cảnh khác lúc
thức. Chỉ thú của công án thì lý hội, còn "núi bạc vách sắt" [Núi bạc
vách sắt: Linh tánh cao vút khó với tới, thí dụ như núi bạc vách sắt khó vịn
được.]thì không hiểu. Tuy gần gũi những vị Tiên sư chưa đạt đạo, cũng nhiều năm
nhập thất, thăng tòa, mà không có một lời nào giải quyết được sự nghi ngại
trong tâm. Trong kinh giáo và những lời Ngữ lục cũng không cứu được bệnh này.
Ôm ấp cái nghi này trong lòng ngót 10 năm.
Một hôm, ở Thiên mục, tôi kinh hành
trên điện Phật, mắt chợt thấy một gốc Bá cổ, vừa thất liền phát tỉnh, cảnh giới
được lâu nay là vật ngăn ngại, chợt nhiên tiêu tán, như trong nhà tối hiện mặt
trời. Từ đây không còn nghi sanh, nghi tử, nghi Phật, nghi Tổ mới được thấy chỗ
đứng của Kính Sơn Lão Nhơn, vui vẻ an trụ nơi đây 30 năm.
15. Cao Phong Diệu Thiền Sư dạy
Chúng:
Việc này chỉ cần người có tâm tha
thiết, vừa phát tâm tha thiết chơn nghi liền khởi. Nghi qua, nghi lại, không
nghi tự nghi, từ sáng đến chiều vuốt đầu rút đuôi làm thành một khối. Khuấy
không động, đuổi không đi, sáng suốt linh diệu, thường hiện ở trước, đây là khi
đắc lực. Lại phải sát định chánh niệm, cẩn thận không khởi nhị tâm, đến đi mà
không biết mình đi, ngồi không biết mình ngồi, lạnh, nóng, đói, khát, tất cả
đều không biết, cảnh giới này hiện tiền tức là tin tức sắp đến nhà. Nắm thì
tới, bắt thì được, chỉ còn đợi thời khắc mà thôi. Lại không nên nghe nói như
thế, rồi khởi tâm tinh tấn cầu nó, cũng không được đem tâm đợi nó, không được
buông, không được bỏ, chỉ cần ngưng đọng chánh niệm, lấy ngộ làm qui tắc. Chính
khi ấy, có tám muôn bốn ngàn quân ma rình rập trước căn môn [Căn môn: Ngoài cửa
sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).] của ông, tất cả việc kỳ quái, thiện ác
… tùy tâm ông mà hiện. Ông vừa khởi một mảy may tâm nhiễm trước, liền rơi vào
rọ của ma, bị chúng làm chủ, chịu chúng chỉ huy, miệng nói lời ma, thân làm
việc ma, chánh nhơn Bát nhã từ đây hằng mất, hạt giống Bồ đề không thể nẩy mầm.
Chỉ dừng khởi tâm như quỷ giữ thây ma, giữ qua giữ lại, khối nghi bỗng nhiên nổ
một tiếng kinh thiên động địa.
Tôi 15 tuổi xuất gia, 20 tuổi được
đắp y, đến Tịnh Từ lập nguyện bốn năm liều chết học Thiền. Ban đầu học với Đoạn
Kiều Hòa thượng, dạy tham cứu "sanh từ đâu đến, chết trở về đâu?" Ý
phân hai đường, tâm không qui nhất. Sau yết kiến Tuyết Nham Hòa thượng, dạy
khán chữ KHÔNG. Lại dạy mỗi ngày đến trình một lần, như người đi đường mỗi ngày
cần thấy công trình, nhơn thấy nói mới có thứ tự. Rốt sau, đến Ngài không hỏi
chỗ công phu. Một hôm vào cửa, Ngài hỏi: "Ai cùng ông kéo tử thi
đến?" [Nguyên văn: Thùy dữ nê dà giá tử thi lai?] Tiếng chưa dứt, Ngài
liền đi ra. Sau đến Kinh Sơn, vừa vào Thiền đường, tôi như trong mộng chợt nhớ
câu "Muôn pháp về một, một về chỗ nào?". Từ đây nghi tình phát hiện,
không còn phân biệt đông, tây, nam, bắc. Ngày thứ sáu ở đây, theo chúng lên gác
tụng kinh, vừa ngước đầu nhìn lên chợt thấy bài Chơn tán của Ngũ tổ Diễn Hòa
thượng, hai câu sau:
"Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày,
Gắng công suy xét nguyên lai là
gì?"
Nguyên văn:
Bách niên tam vạn lục thiên triêu.
Phản phú nguyên lai thị giá hán?
Câu "kéo tử thi…" ngày
trước, bỗng nhiên thấu triệt, liền hồn phi đảm tán, chập sau tỉnh lại, khác nào
người buông gánh nặng 120 cân. Khi đó, tôi được 24 tuổi. Mãn nguyện ba năm, sau
bị Hòa thượng hỏi: "Những ngày này tu tập đã làm chủ được chưa?" Tôi
thưa: "Đã làm chủ". Lại hỏi: "Trong khi ngủ nằm mộng có làm chủ
được không?". Thưa: "Làm chủ được". Lại hỏi: "Khi ngủ mê
không mộng chủ ở chỗ nào?". Câu hỏi này không có lời để đáp, không có lý
lẽ trình bày, Hòa thượng dạy: "Từ nay ông không cần học Phật pháp cùng cổ
tột kim, chỉ cần đói thì ăn, mệt thì ngủ, ngủ vừa thức dậy chấn chỉnh tinh
thần, tự hỏi cái ta thức này chủ nhân rốt ráo tại chỗ nào? An thần lập mạng, tự
thể chuyển một đời ngu si, quyết định phải thấy rõ ràng cái ấy".
Trải qua năm năm, một hôm đang ngủ
chợt thức giấc, vẫn ôm lòng hoài nghi việc này, bỗng một đạo hữu cùng ngủ đẩy
rớt cái gối xuống đất, động một tiếng, ngẫu nhiên tan vỡ khối nghi, như chim
thoát khỏi lưới. Bao nhiêu công án của Phật tổ, những nhơn duyên sai biệt nay
đều thấu đạt. Từ đây, nhà yên nước thạnh, thiên hạ thái bình, nhất niệm vô vi
mười phương đều dứt.
16. Thiết Sơn Ái Thiền sư dạy:
Sơn tăng 13 tuổi biết được Phật
pháp, 18 tuổi xuất gia, 20 tuổi làm Tăng. Trước đến Thạch Sương, được Am chủ
dạy luôn luôn quán chót mũi trắng, tâm được thanh tịnh. Sau có vị Tăng từ Tuyết
Nham đến, trình bày phương pháp tọa Thiền do Ngài Tuyết Nham dạy. Xét lại công
phu của tôi chưa từng được qua lối ấy. Nhơn đó, tôi đến Tuyết Nham. Ngài dạy
thực hành công phu chỉ đề một chữ KHÔNG. Tôi y đó tu tập, đến đêm thứ tư toàn
thân mồ hôi ra ướt dầm, được mười phần trong sáng. Kế vào Tăng đường, tôi không
nói chuyện với ai, chỉ chuyên tâm vào sự tọa Thiền.
Sau đến yết kiến Diệu Cao Phong.
Ngài dạy: "Suốt cả ngày đêm thoại đầu chớ cho gián đoạn. Canh tư thức dậy
theo đuổi thoại đầu sẽ được hiện trước mắt. Vừa biết ma ngủ đến, liền đứng dậy
đi kinh hành vẫn giữ thoại đầu, khi đi mỗi bước không rời thoại đầu. Dọn đơn,
rửa bát, cất muỗng, dẹp đũa, theo chúng làm việc… đều không rời thoại đầu. Ban
ngày, ban đêm đều cũng như vậy, nhào nặn thành một khối, chắc chắn sẽ được phát
minh". Theo lời dạy của Ngài Cao Phong, tôi thực hành công phu quả nhiên
kết thành một khối.
Ngày 20 tháng 3, Ngài Tuyết Nham lên
Thiền đường bảo: "Chư huynh đệ! Nếu ngồi lâu trên bồ đoàn bị ngủ gật, nên
bước xuống đất, đi một vòng, lấy nước lạnh súc miệng, rửa hai con mắt, lại lên
bồ đoàn ngồi thẳng xương sống như vách đứng ngàn trượng, đề khởi câu thoại đầu.
Dụng công như thế quyết định 7 ngày được ngộ. Lối đó là 40 năm về trước, Sơn
tăng đã áp dụng công phu".
Tôi y lời dạy này thực hành, liền
biết có công phu dị thường. Ngày thứ hai, cặp mắt muốn nhắm mà không thể nhắm.
Ngày thứ ba, thân này như đi giữa hư không. Ngày thứ tư, không còn biết tới
việc thế gian. Đêm ấy, đứng dựa lan can một chút, lặng nhiên không biết, kiểm
điểm lại thoại đầu vẫn không mất. Trở vào lên bồ đoàn ngồi chợt nghe từ đầu đến
chân tợ như đầu lâu chẻ vỡ, in tuồng dưới đáy giếng sâu muôn trượng được đưa
lên hư không. Khi ấy, vui mừng vô hạn. Tôi đem việc này thuật lại Ngài Tuyết
Nham. Ngài bảo: "Chưa phải". Lại trở về thực hành công phu, mong được
pháp ngữ. Chuyến sau, Ngài bảo:
"Nối dòng Phật, Tổ việc hướng
thượng,
Sau ót trước đây thiếu một
chùy".
Nguyên văn:
Thiệu long Phật, Tổ hướng thượng sự,
Não hậu y tiền khiếm nhất chùy.
Trong tâm tự hỏi, tại sao lại
"thiếu một chùy?". Không tin việc này, liền khởi nghi, không thể tự
giải quyết được. Mỗi ngày chồng chập tọa Thiền sắp được nửa năm. Một hôm, nhơn
nhức đầu chưng thuốc, gặp Giác Xích Tỷ, tri khách, hỏi: "Thái tử Na Tra
lóc thịt trả cho mẹ, cắt xương trả cho cha là sao?". Nghe hiểu mà không
thể đáp, bỗng nhiên phá vỡ khối nghi.
Sau đến tham học với ngài Mông Sơn.
Sơn hỏi: "Tham Thiền công phu đến chỗ nào là cùng tột?". Liền im lặng
không biết mối manh. Sơn dạy: "Lại phải thực hành định lực công phu, gột
sạch tập tục thế gian". Mỗi khi vào thất chỉ nhớ "thiếu một
chùy". Một hôm, từ ban mai tọa Thiền đến suốt đêm, dùng định lực dồn ép,
liền được thấy u vi. Khi xuất định gặp Sơn, bèn thuật lại cảnh này. Sơn bảo:
"Cái ấy là bản lai diện mục của ông". Vừa muốn nói, Sơn liền đóng
cửa. Từ đây, công phu mỗi ngày càng đến chỗ mầu nhiệm. Bởi vì rời ngài Tuyết
Nham sớm quá, nên thực hành công phu chưa từng đến chỗ tế mật. Rất may! Lại
được gặp bậc Thầy khuôn mẫu, mới đạt đến chỗ này. Lâu nay nhờ thực hành công
phu khẩn thiết cùng cực, nên hiện tại giờ giờ ngộ nhập, bước bước sạch trong.
Một hôm, nhìn trên vách thấy bài Minh Tín Tâm của Tam tổ rằng: "Về nguồn
được ý chỉ, Tùy chiếu mất chơn tông"
Nguyên văn: “Qui căn đắc chỉ, Tùy
chiếu thất Tông.”
Lại gọt thêm một lớp nữa. Ngài Mông
Sơn bảo: "Việc này in như mài giũa hạt châu, càng giũa thì càng sáng, càng
sáng thì càng trong sạch. Giũa một lần, hơn nhiều đời khác thực hành công
phu". Nhưng, tuy nói vậy, chữ "thiếu" vẫn còn ở trong tâm. Một
hôm trong định, chợt chạm đến chữ "thiếu", bỗng nhiên thân tâm rỗng
rang, triệt xương thấu tủy, như tuyết đọng hốt nhiên chảy tan, siêu việt không
còn ngăn ngại. Liền bước xuống đất tìm Mông Sơn thưa: "Tôi thiếu cái
gì?" Sơn đánh ba cái, tôi lễ ba lễ. Sơn bảo: "Thiết Sơn chỉ một cái
đó mà mấy năm rồi, đến nay mới liễu ngộ".
Chư huynh đệ! Nếu tạm thời câu thoại
đầu không còn, có khác gì người chết. Tất cả cảnh giới đến bức bách thân, chỉ
lấy câu thoại đầu chống lại. Luôn luôn kiểm điểm thoại đầu, xét trong động,
trong tịnh và đắc lực hay không đắc lực. Trong định cũng không nên quên thoại
đầu, quên thoại đầu thì thành tà định. Không được khởi tâm mong chờ được ngộ.
Không nên tìm hiểu trên văn tự. Đừng thấy xúc chạm chút ít cho là đã liễu ngộ.
Chỉ nên như si như ngốc, Phật pháp, thế pháp nhồi thành một khối. Thi vi động
tác chỉ là tầm thường, chỉ cần thay đổi đường lối của ngày xưa. Cổ nhơn nói:
Đại đạo xưa nay chẳng dụng lời,
Nghĩ bàn huyền diệu cách vực trời,
Chi bằng quên cả năng và sở,
Mới khá đói ăn, mệt nghỉ ngơi.
Nguyên văn:
Đại đạo tùng lai bất thuộc ngôn
Nghĩ đàm huyền diệu cách thiên uyên
Trực tu năng sở câu vong khước
Thủy khả cơ xan khốn tắc miên.
17. Đoạn Nhai Nghĩa Thiền sư dạy
Chúng:
Nếu muốn siêu phàm nhập thánh thoát
khỏi trần lao, phải nên lột da, chẻ xương, dứt hẳn tái sanh, như trong tro lạnh
phát lửa, cây khô nảy chồi, đâu phải là việc dễ dàng. Tôi trước kia hầu hạ Tiên
sư đã nhiều năm, mỗi khi bị đánh phạt, tâm không khởi một niệm xa lìa. Cho đến
ngày nay khi gặp những việc đau khổ, bất giác nhớ đến Thầy mà rơi nước mắt! Đâu
phải như các ông hiện giờ, gặp một việc khổ nhỏ là bỏ Thầy ra đi không thèm ngó
trở lại!
18. Trung Phong Bổn Thiền sư dạy
Chúng:
Tiên sư Cao Phong Hòa thượng dạy
người, chỉ dạy tham câu thoại đầu, ôm ấp trong lòng, đi tham như thế, ngồi cũng
tham như thế. Khi tham đến chỗ dụng lực không tới, lưu ý không được, chợt nhiên
thấu đạt, mới biết thành Phật đã tự bao giờ. Một việc ấy, là do Phật, Tổ đã
kinh nghiệm được cái tam muội liễu sanh thoát tử vậy. Chỉ quí ở chỗ tin quả
quyết và trải thời gian lâu xa không thối chuyển, quyết định sẽ được tương ưng.
Khán thoại đầu thực hành công phu là
chỗ đứng rất ổn đáng, gần gũi bờ giác ngộ. Dù đời nầy không ngộ, tín tâm vẫn
không lui sụt, ắt đời sau hoặc đời sau nữa sẽ được khai ngộ.
Hoặc hai ba mươi năm mà chưa khai
ngộ, không cần tìm phương tiện nào lạ, chỉ giữ tâm không duyên cảnh khác, ý dứt
các vọng, chăm chăm không bỏ, một bề chú ý vào câu thoại đầu đang tham, đứng
thẳng tại cuối đầu, giữ vững sống cùng sống, chết cùng chết. Đâu quản ba đời,
năm đời, mười đời, một trăm đời, nếu chưa triệt ngộ, quyết định không thôi. Có
cái chánh nhơn như thế rồi, lo gì đại sự không có ngày minh liễu.
Trong lúc bệnh thật hành công phu,
không cần ông tinh tấn dõng mãnh, cũng không cần mày chau, mắt trợn, chỉ cần
tâm ông như cây như đá, tợ hồ như đống tro tàn. Đem thân tứ đại huyễn hóa này
gởi tận thế giới bên kia. Dù nó bệnh cũng được, chết cũng được, có người săn
sóc cũng được, không ai săn sóc cũng được, thơm sạch cũng được, lầy thúi cũng
được, có thầy trị lành bệnh sống đến 120 tuổi cũng được, nếu như chết liền bị
nghiệp trước lôi vào vạc dầu sôi, lò lửa đỏ cũng được. Trong những cảnh giới
như thế, đều không làm lay động được tâm, chỉ thiết tha đem câu thoại đầu
(không cần xét ý nghĩa) để bên lò thuốc, gối trên đầu nằm, thầm thầm tham
chiếu, không nên lơi lỏng.
19. Thiên Như Tắc Thiền sư dạy:
Sanh không biết từ đâu đến, gọi là
sanh đại. Tử không biết về đâu, gọi là tử đại. Khi tử thần đến chỉ còn biết co
tay giựt chơn. Huống nữa, đường trước mịt mờ theo nghiệp thọ báo, thực là cái
việc rất khẩn cấp vậy. Cái đó là cảnh quả báo của sanh tử. Nếu luận về gốc
nghiệp sanh tử, tức là ngày nay phóng tâm chạy theo thinh, sắc khiến phải thất
điên bát đảo, chính là gốc ở nó. Do đó, Phật, Tổ vận đại từ bi hoặc dạy ông
tham thoại đầu, hoặc dạy niệm Phật, khiến ông quét sạch vọng niệm, nhận ra mặt
thật xưa nay (bản lai diện mục), làm cái việc khoáng đạt đại giải thoát.
Nhưng, người nay tu không linh
nghiệm bởi ba thứ bệnh:
1) Không gặp Thiện tri thức chỉ dạy.
2) Không thống thiết ghi nhớ việc
lớn sanh tử, lửng lơ thong thả không ngờ mình ở trong vô sự.
3) Đối với danh hư, lợi ảo ở thế
gian quán không tan, buông không rời, lên ngồi trên bồ đoàn mà vọng duyên ác
tập đoạn không được, bỏ không khỏi. Chỗ phong ba dấy động, bất giác thân này
lăn vào trong biển nghiệp, trôi dạt đông tây.
Người chơn chánh học đạo đâu có cam
chịu như vậy. Phải tin quyết lời Tổ sư dạy: "Tạp niệm lăng xăng làm sao hạ
thủ công phu? Chỉ một câu thoại đầu như cầm cây chổi sắt quét dọn, càng quét nó
càng nhiều, càng nhiều lại càng quét, quét xuôi không được thì quét ngược, hốt
nhiên quét tận thái hư không, muôn sai ngàn biệt một đường suốt thấu". Chư
thiện đức! nỗ lực đời này cho liễu ngộ, đừng để vĩnh kiếp thọ tai ương.
Có người tự nghi niệm Phật cùng tham
Thiền không đồng? Đâu biết rằng, tham Thiền chỉ mong biết được tâm, thấy được
tánh; niệm Phật ngộ tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh độ, làm gì có hai lý. Kinh nói:
"Nhớ Phật, niệm Phật hiện tiền và đời sau quyết định thấy Phật". Đã
nói hiện tiền thấy Phật thì cùng với tham Thiền ngộ đạo, đâu có cái gì là khác?
Chỉ đem bốn chữ A Di Đà Phật làm câu
thoại đầu, suốt 12 thời (24 giờ) luôn luôn đề khởi, đến chỗ một niệm không
sanh, không mắc trong giai cấp vượt thẳng đến cõi Phật.
20. Trí Triệt Thiền sư bàn Tịnh độ
huyền môn:
Niệm Phật một, hoặc ba, năm, bảy tiếng,
thầm tự hỏi: tiếng niệm Phật này từ đâu khởi? Hoặc hỏi: Niệm Phật là ai? Có
nghi chỉ giữ lấy cái nghi đó. Nếu chỗ hỏi không thiết tha thì nghi tình không
tha thiết. Hỏi trở lại cái câu cứu kính "niệm Phật là ai?". Hỏi ít
thì nghi ít. Chỉ lấy câu "niệm Phật là ai?" xét mãi hỏi hoài.
21. Vô Văn Thông Thiền sư dạy:
Sơn tăng ban đầu yết kiến Độc Ông
Hòa thượng, dạy tham "không phải tâm, không phải vật, không phải
Phật". Sau, cùng với Vân Phong, Nguyệt Sơn v.v… sáu người lập nguyện tương
trợ nhau đến cứu kính. Thứ, yết kiến Hoài Tây, dạy về công năng chữ KHÔNG, bảo
đề một chữ KHÔNG. Kế đi đến Trường Lô, kết bạn miệt mài điêu luyện. Sau, gặp sư
huynh Hoài thượng Kỉnh. Kỉnh hỏi: "Ông sáu bảy năm rồi có thấy được cái
gì?". Tôi đáp: "Mỗi ngày chỉ tâm ấy không trước một vật". Kỉnh
hỏi: "Một cái ấy bị ràng buộc ở đâu ra đó?". Tôi trong tâm in tuồng
biết mà không biết, không dám mở miệng. Kỉnh thấy tôi chỗ thực hành chưa phát
tỉnh, bèn bảo: "Ông trong định công phu không mất, chỗ động liền mất".
Bị chỉ trúng bệnh, lòng kinh sợ, tôi hỏi: "Phải làm thế nào thấu đạt được
việc lớn ấy?" Kỉnh bảo: "Ông không nghe Xuyên Lão Tử nói: Cần biết ý
đoan chánh, xây mặt về hướng Nam xem sao Bắc đẩu" [Nguyên văn: Yếu tri
đoan đích ý, Bắc đẩu diện nam khán.]. Nói xong, liền bỏ đi. Tôi bị câu nói này,
lòng nghi ngờ càng tăng, đi không biết mình đi, ngồi không biết mình ngồi,
khoảng năm bảy ngày như vậy. Không đề chữ KHÔNG nữa, chuyên khán "cần biết
ý đoan chánh, xây mặt về hướng Nam xem sao Bắc đẩu". Đến liêu Tịnh đầu
cùng chúng ngồi trên một cái cây, chỉ vì nghi tình không giải, độ khoảng bữa
ăn, chợt biết trong tâm rỗng rang trong nhẹ, thấy tình tưởng đổ vỡ giống như
lột da, người, vật tất cả cảnh trước mắt đều không thấy cũng như hư không. Ngủ
khoảng nửa giấc thức dậy, toàn thân đều ra mồ hôi, liền ngộ được câu "Xây
mặt về hướng Nam xem sao Bắc đẩu". Bèn đến gặp Kỉnh, nói bài tụng:
"Đều không ngăn ngại,
Chỉ có một đường hướng thượng.
Chưa được khoáng đãng"
Nguyên văn:
Đô vô đới ngại
Thượng hữu hướng thượng nhấùt lộ,
Bất đắc sái lạc.
Sau, vào trong núi Hương Nham qua
một mùa hạ, bị muỗi cắn hai tay nát bấy. Nhơn nhớ đến cổ nhơn vì pháp quên
mình, tại sao ta lại sợ muỗi? Chí tâm quên tất cả, ngậm khít hai hàm răng, ấn
mạnh hai bàn tay, chỉ đề một chữ KHÔNG, nhẫn lại càng nhẫn. Bất giác thân tâm
vắng lặng, như tòa nhà đổ vỡ bốn vách, in tuồng hư không, không có một việc gì
phải nghĩ ngợi. Giờ thìn tọa Thiền, đến giờ mùi xuất định, tự biết Phật pháp
không dối người, tại mình công phu chưa đến. Tuy kiến giải rõ ràng, mà còn vọng
tưởng ẩn kín chưa dứt. Bèn vào núi Quang Châu tập định sáu năm. Đến núi Lục An
trụ sáu năm. Sau lại về núi Quang Châu ở ba năm, mới chứng đến chỗ siêu thoát.
22. Độc Phong Hòa thượng dạy Chúng:
Kẻ học đạo lấy cái gì làm chỗ nắm
chắc trong tay? Chỉ đề một câu thoại đầu là cái nắm chắc trong tay.
23. Bát Nhã Hòa thượng dạy Chúng:
Chư huynh đệ! có người thực hành
công phu ba năm, năm năm mà chưa được cái gì, liền đem câu thoại đầu ấy ném đi,
đâu biết thế là đi được nửa đường vội bỏ. Đáng tiếc! từ trước đến đây, trong tâm
chứa đầy máy móc.
Lại kẻ có chí, thấy trong chúng sẵn
củi khô, nước đầy, nhà ấm, phát nguyện ba năm không ra khỏi cửa, quyết định
được thọ dụng mới chịu. Sau khi được chút ít thọ dụng, lại gắng sức thực hành
công phu, tâm địa được thanh tịnh, thấy cảnh vật hiện tiền liền thành tứ cú
(pháp kệ) tự cho là đại liễu ngộ. Rồi ngon mồm, thích ý lầm mất một đời, khi
tắt ba tấc hơi lấy gì bảo đảm? Quí Phật tử! Nếu muốn giải thoát, tham phải bền
chí tham, ngộ phải chơn thật ngộ.
Hoặc thoại đầu thầm thầm liên tục, không
gián đoạn, không biết có thân, gọi đó là quên thân, chớ pháp chưa quên. Có
người đến chỗ quên thân, chợt nhớ tìm lại, như trong mộng thấy trợt chân rơi
xuống vực sâu muôn tượng chỉ lo vớt vát cứu mạng, liền mắc bệnh điên cuồng. Đến
đây, phải khẩn thiết đề thoại đầu, bỗng nhiên cả thoại đầu cũng quên, gọi là
thân pháp đều quên. Thình lình trong tro lạnh nghe đậu nổ, mới biết Trương Công
uống rượu, Lý Công say (đạt đến chỗ giao cảm không thể nghĩ bàn). Lâu nay ở
trong cửa Bát nhã hoặc nạt, hoặc đánh là tại sao? Vì phải đập phá lớp cửa chót
của chư Tổ vậy. Phải đi khắp tham vấn các bậc Thiện tri thức để được biết chỗ
cạn sâu, sau sẽ đến bên bờ suối, dưới cội cây bảo dưỡng thánh thai, đợi đến khi
nào Long Thiên đuổi ra, mới nên đi xiển dương chánh pháp, khắp độ quần sanh.
24. Tuyết Đình Hòa thượng dạy Chúng:
Suốt 12 thời (24 giờ) tẩy sạch mọi
việc, chỉ khán câu "trước khi cha mẹ chưa sanh, cái gì là mặt thật xưa nay
(bản lai diện mục) của ta?" Không quản đắc lực hay không đắc lực, hôn trầm
tán loạn hay không hôn trầm tán loạn, chỉ chuyên đề khởi thoại đầu.
25. Cổ Mai Hữu Thiền sư dạy Chúng:
Phải cần phát tâm dõng mãnh, lập chí
cương quyết, đem những điều đã học, đã hiểu trong thuở bình sanh, tất cả Phật
pháp, văn chương, thi phú, Tam muội trên ngữ ngôn, quét sạch, quét ra tận bể
đại dương, không bao giờ nhắc đến. Trong khi tọa Thiền đoạn sạch tám muôn bốn
ngàn niệm đầu vi tế. Lại đem câu thoại đầu đã tham, một bề đề khởi, nghi qua
nghi lại, đè tới ép lui, thân tâm lóng lặng, xét phần đã hiểu lấy liễu ngộ làm
qui tắc. Không nên trên công án xét nét, trên kinh sách tìm kiếm, chỉ phải đoạn
dứt mọi việc xao động mới mong đến nhà. Nếu thoại đầu đề không khởi, liên tiếp
đề khởi ba lượt liền thấy có sức mạnh. Nếu thân thể mỏi mệt, tâm thức xao động,
nên nhẹ nhẹ bước xuống đi một vòng, lại lên Bồ đoàn, đem câu thoại đầu cũ như
trước mà nhào nặn.
Nếu vừa lên Bồ đoàn liền bị ngủ gật,
mở được mắt ra thì nghĩ Đông tưởng Tây, xuống Bồ đoàn thì đi cặp đôi, cặp ba,
kề tai giao đầu, nói to nói nhỏ, ghi một bụng kinh, sách, ngữ lục trên văn tự,
thuật hay luận khéo, dụng tâm như thế, đến phút lâm chung đều không thể nương
cậy.
26. Kiệt Phong Ngu Thiền sư dạy
Giảng sư Ngũ Đài:
Giả sử Đức Văn Thù phóng hào quang
kim sắc đến xoa trên đảnh ông, ông được cỡi trên mình con sư tử, Đức Quan Âm
hiện thiên thủ thiên nhãn, ông nắm được chim Anh ca, đều là chạy theo thinh
sắc, nơi ông có lợi ích gì? Cốt suốt thấu việc lớn nơi bản thân mình, vượt khỏi
ngục tù sanh tử, trước phải dứt tất cả những cái hiểu biết hư vọng Thánh, Phàm,
suốt 12 thời (24 giờ) hồi quang phản chiếu, chỉ khán cái "không phải tâm,
không phải vật, không phải Phật", cái đó là cái gì? Cần thiết không chạy
ra ngoài bàn luận tìm kiếm. Dù có một mảy thần thông, Phật pháp, thánh giải lớn
bằng hạt gạo, hạt lúa, hạt bắp, đều là tự dối mình, thảy đều khinh Phật, chê
pháp. Phải tham đến thân trần không áo, chỗ một mảy nhỏ không lập, liền được
thấy trước mắt Thanh Châu mặc áo vải, Trấn Châu ăn rau bặc, đều là vật của mình
dùng, lại không riêng cầu thần thông thánh giải.
27. Hạt Đường Thiền sư đáp lời Vua
hỏi:
Hoàng đế Tống Hiếu Tôn hỏi:
"Làm sao thoát khỏi vòng sanh tử?"
Đáp: "Không ngộ Đạo Đại thừa
trọn không thể thoát khỏi".
Hỏi: Làm sao được ngộ?
Đáp: "Tánh bản hữu dùng năm
tháng mài nó, sẽ được ngộ".
28. Đoạn Ngạn Hòa thượng dạy Chúng:
"Muôn pháp về một, một về chỗ
nào?" Không thể ngồi yên lặng rỗng không, không quán thoại đầu. Không được
niệm thoại đầu, ngồi mà không nghi. Như có hôn trầm, tán loạn không nên khởi
niệm đuổi dẹp, tiện lợi nhất là đề khởi thoại đầu, chấn chỉnh thân tâm, dõng
mãnh tinh tiến. Nếu không có hiệu quả, nên bước xuống đi kinh hành, chừng biết
hôn, tán hết sẽ lên Bồ đoàn. Bỗng nhiên không đề cử mà tự đề, không nghi mà tự
nghi, đi không biết mình đi, ngồi không biết mình ngồi, chỉ có nghi tình vọi
vọi thẳm thẳm rõ ràng sáng suốt. Đó gọi là chỗ đoạn phiền não, cũng gọi là chỗ
ngã tiêu tan.
Tuy nhiên, như thế chưa phải là cứu
kính, lại thêm cố gắng khán "một về chỗ nào?". Đến cái chỗ đề cử
thoại đầu không còn thứ tự, duy có nghi tình, nếu quên liền đề khởi, thẳng đến
tâm phản chiếu dứt, ấy gọi là quên pháp. Đến cái chỗ vô tâm, chớ cho là cứu
kính. Cổ nhơn nói:
"Chớ bảo vô tâm ấy là đạo,
Vô tâm còn cách một lớp rào"
Nguyên văn:
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm du cách nhứt trùng quang
Chỗ này, chợt gặp thinh gặp sắc chống
chọi nhau soang soảng. Phải cười to một tiếng chuyển mình vượt qua, mới là cái
đạo con trâu Hoài Châu ăn lúa, mà con ngựa Ích Châu đầy bụng (đạo giao cảm
không thể nghĩ bàn).
29. Cổ Chuyết Thiền sư dạy Chúng:
Chư Đại đức! Sao không khởi đại tinh
tấn, ở trước Tam bảo tha thiết phát trọng nguyện: "Nếu không rõ suốt việc
sanh tử, không vượt khỏi cửa chư Tổ, thệ không xuống núi". Đến trước cái
đơn bảy thước, trên liên sàng dài, treo cao đảy bát, ngồi thẳng như vách cao
ngàn trượng, trọn một đời này thực hành cho thấu triệt giáo pháp. Nếu đạt được
tâm này, quyết không dối nhau. Bằng người phát tâm không chơn, chí không mãnh
liệt, bên này ở mùa Đông, bên kia ở mùa Hạ, ngày nay tiến tới, ngày mai thối
lui, nhớ một bụng, sao một bộ, hôi như hèm đựng trong hũ người nghe đâu khỏi
chán ghét ụa mửa, dù đến Đức Phật Di Lặc ra đời cũng không can thiệp gì. Khổ
thay!
30. Thái Hư Thiền sư dạy Chúng:
Nếu chưa liễu ngộ, phải lên Bồ đoàn
ngồi, tâm như tro lạnh, mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm cũng phải khán,
khán cái "mặt thật trước khi cha mẹ chưa sanh".
31. Sở Thạch Kỳ Thiền sư dạy Chúng:
Huynh đệ! Mở miệng liền nói ta là
người tham Thiền và hỏi kẻ khác thế nào là Thiền? Xem Đông, ngó Tây, miệng như
tuồng vác tấm biển. Khổ thay! Dốt thay! Aên cơm của Phật, Tổ mà không lý hội
việc bổn phận, đua học văn chương thế tục, giọng cao nói to, lỗi lầm mà không
kiêng sợ, hoàn toàn không biết hổ thẹn. Có một bọn thôi không chịu đến Bồ đoàn
tham cứu cho rõ "cái mặt thật xưa nay trước khi cha mẹ chưa sanh",
chỉ bắt chước theo người làm công quả, mong cầu phước báo, sám trừ nghiệp
chướng, thật là cách đạo rất xa.
Hoặc một bọn lóng lòng kềm niệm,
nhiếp sự về không, niệm tưởng vừa sanh liền đè bẹp, cái thấy biết như vậy tức
là đã rơi vào không, là người chết, học theo ngoại đạo. Lại có một bọn vọng
chấp cái hay giận, hay mừng, hay thấy, hay biết nhận được rõ ràng liền cho là
sự tham học một đời đã xong. Ta hỏi ông: khi ngọn lửa vô thường thiêu đốt thành
một đống tro tàn, cái hay giận, hay mừng, hay thấy, hay biết ấy đi đến chỗ nào?
Giả sử ông tham đến Dược Hống Ngân Thiền (lối tu Thiền của Tiên gia), thứ ngân
này không phải chơn thật, một phen bị nấu liền chảy.
Nhơn tôi hỏi: Ông bình thường tham
cái gì? Đáp rằng: Có thầy dạy tham "muôn pháp về một, một về chỗ
nào", lại dạy chỉ như thế mà hội. Ngày nay mới biết không phải, đến cầu
xin Hòa thượng dạy câu thoại đầu. Tôi nói: Công án của Cổ nhơn có cái nào không
phải, tại mắt ông không chánh, nên thấy thầy dạy tà, rồi đi cầu thỉnh mãi không
thôi. Vậy nên tham câu "con chó không có Phật tánh", sẽ có ngày đập
bể thùng sơn (đại ngộ), từ trước đến giờ Sơn tăng nhờ đó mà đạt được. Tham đi!
32. Phổ Tế Thiền sư đáp thơ Lý Tướng
Quốc:
Đã lâu tham chữ KHÔNG, không cần
thay đổi thoại đầu khác, huống là đề cử thoại đầu khác. Tham chữ KHÔNG đã lâu,
ắt nơi chữ KHÔNG có chút ít thuần thục, cần thiết chớ di động, chớ tham thoại
đầu khác. Chỉ suốt 12 thời (24 giờ) trong bốn oai nghi luôn luôn đề cử thoại
đầu. Chớ trông đợi bao giờ ngộ hay không ngộ, chớ nghĩ thấm nhuần mùi vị hay
không mùi vị, cũng chớ quản đắc lực hay không đắc lực, dồn ép cho đến chỗ tâm
nghĩ không tới, ý bàn không đến, tức là chỗ thân mạng của chư Phật, Tổ vậy.
33. Sở Sơn Kỳ Thiền sư giải chế:
Chư Đại đức! Trong 90 ngày qua đã
được chứng ngộ hay chưa? Nếu như chưa ngộ thì thêm một mùa Đông sẽ được tan
biến ấy vậy. Nếu là người đống lương Phật pháp, lấy mười phương pháp giới làm
hạn kỳ hoàn toàn giác ngộ. Một trăm ngày, một ngàn ngày, kiết chế, giải chế chỉ
lấy đề cử thoại đầu làm gốc. Nếu một năm chưa ngộ tham thêm một năm, mười năm
chưa ngộ tham thêm mười năm; hai chục năm chưa ngộ tham thêm hai chục năm, trọn
đời chưa ngộ, quyết định không đổi chí; cần phải thấy được chỗ chơn thật cứu
kính mới là ngày nghỉ tham.
Nếu như không thể trên lời nói thấu
đạt ý chỉ, nên đem một câu A Di Đà Phật ôm ấp trong lòng thầm thầm thể cứu,
thường thường đề khởi nghi tình "niệm Phật là ai?". Mỗi niệm tiếp
nối, tâm tâm không gián đoạn, như người đi đường đến chỗ cùng nguồn, tột núi,
tự nhiên có cái việc chuyển thân, động đất một tiếng liền khế nhập tâm thể.
34. Độc Phong Thiện Thiền sư dạy
Chúng:
Nếu thật muốn liễu thoát sanh tử,
trước phải phát tín tâm to, lập thệ nguyện lớn. Nguyện: "Nếu không phá vỡ
công án đang tham, thấy suốt mặt thật trước khi cha mẹ chưa sanh, ngồi đoạn
sanh tử hiện hành vi tế, thệ không bỏ thoại đầu đang tham, không xa lìa chơn
thiện tri thức và không tham mê danh lợi; nếu cố trái nguyện này, sẽ đọa ác
đạo". Phát đại nguyện này rồi, để phòng ngừa tâm, nhiên hậu mới kham lãnh
thọ công án.
Hoặc khán chữ KHÔNG, cần yếu vận
dụng tâm lực để tại "con chó không có Phật tánh". Hoặc khán muôn pháp
về một, cần yếu tại "một về chỗ nào?". Hoặc tham cứu niệm Phật cần
yếu tại "niệm Phật là ai?". Xoay lại phản chiếu cho thâm nhập nghi
tình. Nếu thoại đầu không đắc lực, trở lại đề trọn câu khiến đầu đuôi nhất
quán, mới dễ khởi nghi. Nghi tình không dứt, khẩn thiết dụng tâm, bất giác bước
đi ngã nhào, liền nhảy vọt tận hư không xa thẳm. Trở lại tham đi!
35. Không Cốc Long Thiền sư dạy
Chúng:
Không nên dại khờ niệm thoại đầu,
cũng chớ suy xét thoại đầu, chỉ nên hoài nghi mong thấu rõ việc này. Bỗng nhiên
buông tay đi trên dốc đứng, một phen chuyển thân liền thấy chót vót rực rỡ. Đến
đây không nên đắm trước, còn một chùy rốt sau thật là khó vượt. Ông hãy như thế
tham đi!
Không tham mà tự ngộ, thượng cổ còn
có thể có, hiện nay chưa có ai không nỗ lực tham mà được ngộ.
Ưu Đàm Hòa thượng dạy tham
"niệm Phật là ai?". Ông nay không cần dùng những pháp này, chỉ cốt
bình thường niệm Phật. Niệm mãi không quên, bỗng nhiên chạm duyên, xúc cảnh chỉ
do một câu thấu đạt, mới biết Tịch quang Tịnh độ không rời chỗ này, Phật A Di
Đà không rời tự tâm.
36. Thiên kỳ Hòa thượng dạy Chúng:
Các ông từ nay phải phát tâm quyết
định, ngày ba thời, đêm ba thời đề cử an định câu thoại đầu đã tham, xem nó đạo
lý thế nào? Cần thiết phán xét cái mình đã hiểu, lâu ngày nhiều năm không lọc
luyện hôn trầm mà hôn trầm tự mất, không trừ tán loạn mà tán loạn tự tiêu,
thuần nhất không tạp loạn. Tâm niệm không sanh, bỗng nhiên được ngộ, như mộng
chợt tỉnh, xem lui về trước đều là hư huyễn, chính nơi đây bộ máy xưa nay hiện
thành sum la vạn tượng hoàn toàn hiện bày. Như thế, mới không uổng làm người
sanh trên đất nước, cũng không uổng làm vị Tăng ở trong pháp môn này, từ đây
tùy duyên qua ngày, chẳng sướng sao! chẳng khoái sao!
37. Cổ Âm Cầm Thiền sư dạy Chúng:
Trong khi tọa Thiền thấy những cảnh
giới thiện, ác đều do lúc ngồi không khởi quán sát, không suy xét chân chánh,
chỉ ngồi nhắm mắt yên lặng, tâm không tinh tấn biện biệt, ý thả trôi theo cảnh,
nửa mộng nửa tỉnh, hoặc vì tham trước cảnh tịnh, bởi thích nên mới thấy các
cảnh.
Người chơn chánh thực hành công phu,
thấy buồn ngủ nhiều thì đi ngủ một giấc, khi thức giấc liền dậy, chấn chỉnh
tinh thần, xoa tay áp vào mắt, ngậm khít hàm răng, để hai tay chồng lên nhau,
thẳng khán thoại đầu rơi tại chỗ nào? Cần yếu chớ theo hôn trầm, một mảy may
ngoại cảnh không thể dính mắc.
Trong lúc đi, đứng, ngồi, nằm một
câu A Di Đà Phật không cho gián đoạn, phải tin nhơn sâu thì quả dày, cho đến
không niệm mà tự niệm. Nếu chuyên niệm thì niệm chẳng phải không, cần nhào nặn
niệm lại thành một khối. Chính khi niệm, nhận được người niệm Phật, Đức Phật A
Di Đà cùng ta đồng hiện.
38. Dị Nham Đăng Thiền sư thích
nghi:
Học nhơn tham cầu Thiện tri thức,
hoặc vị dạy đề câu thoại đầu, hoặc vị dạy nghi thoại đầu, như vậy là đồng hay
khác? Vừa cử thoại đầu, liền đó khởi nghi, đâu có hai lý. Một niệm đề khởi nghi
tình liền hiện. Lật tới, trở lui chuyên cần nghiên cứu, công sâu sức mạnh tự
nhiên được liễu ngộ.
39. Nguyệt Tâm Hòa thượng dạy Chúng:
Ý chí phấn khởi, tinh thần sáng suốt
đề cử thoại đầu, quan trọng trên chữ sau chót, nghi tình còn mãi thống thiết
thầm thầm. Hoặc ngậm miệng tham thầm, hoặc nói ra tiếng theo đuổi, như mất vật
quí, cần phải gặp trước mắt, nắm được trong tay mới chịu. Những ngày dụng công,
tất cả giờ, tất cả chỗ đều không khởi hai niệm.
Chương II. Sự Khổ Công Tu Tập Của Chư Tổ
1. Một mình ngồi trong tịnh thất:
Đạo An Đại sư một mình ngồi trong
tịnh thất ngót 12 năm, chuyên gạn lọc tâm tư, mới được ngộ đạo.
2. Ngồi trên cây dựa mé hố:
Tịnh Lâm Thiền sư, sau khi nghỉ diễn
giảng để tu tập Thiền định, thường bị bệnh ngủ làm mê loạn tâm. Ngài cố hết sức
trấn tỉnh, nhưng cứ mỗi lần ngồi được một lúc, lại mơ màng hồi nào không hay.
Gần chỗ Ngài ở có một cây đại thọ nghiêng mình ra giữa hố đá sâu thăm thẳm.
Muốn đuổi con ma ngủ đi, Ngài leo lên cây ngồi Thiền. Trải mấy ngày đêm, vì sợ
hơ hỏng sẽ té nát thây, Ngài giữ tâm định tỉnh không dám chợp mắt. Nhờ thế,
Ngài được đại ngộ.
3. Ăn rau ngủ dưới gốc cây:
Thông Đạt Thiền sư vào núi Thái Bạch
tu, không có cơm gạo, đói thì ăn rau, nghỉ thì nằm dưới gốc cây. Ngài tọa Thiền
tư duy năm năm liền không dừng. Do sự cố gắng đó, nhào nặn tâm tư thành một
khối; một hôm, bỗng nhiên khối ấy tan vỡ, Ngài đại ngộ.
4. Không giải y:
Kim Quang Chiếu Thiền sư xuất gia
hồi 13 tuổi, 19 tuổi vào núi Hồng Dương, nương theo Ca Diếp Hòa thượng tu tập.
Ngài chuyên cần ngót ba năm chưa bao giờ giải y, ngủ không đặt lưng xuống
chiếu. Sau, Ngài đến núi Cô Xạ cũng chuyên cần như thế, bỗng nhiên khai ngộ.
5. Lấy dùi chích vào mình:
Từ Minh, Cốc Tuyền, Lang Hương ba
người kết bạn đến Phần Dương tham học. Bấy giờ ở Hà Đông lạnh tột độ, mọi người
đều kinh sợ thối lui. Duy có Từ Minh quyết chí cầu đạo cam chịu lạnh ở lại đây,
sớm chiều bền chí tinh tấn tu tập. Ban đêm tọa Thiền ma ngủ đến, Minh lấy dùi chích
vào mình khiến ma ngủ tan mất. Sau này, Từ Minh thay thế Tổ Phần Dương đạo
phong phát triển, được hiệu là Sư Tử Tây Hà.
6. Trong thất tối không quên:
Hoằng Trí Thiền sư đến tham học nơi
Tổ Đơn Hà. Một hôm, nhơn cùng bạn đồng tu gạn hỏi nhau về công án, Thiền sư
bỗng cười to lên. Tổ nghe, trách "một tiếng cười của ông đã mất bao nhiêu
việc tốt. Nếu tạm thời tâm không định, đồng như người chết!". Hoằng Trí
Thiền sư bái tạ, ghi lòng. Từ đấy về sau, dù ở trong thất tối, Ngài cũng không
bao giờ quên.
7. Chiều về rơi nước mắt:
Y Am Thiền sư tu hành rất tinh tấn.
Mỗi khi trời ngã bóng về chiều, Ngài sa nước mắt, than: "Ngày nay vẫn chưa
được gì, ngày mai chưa biết công phu ra sao!". Ở trong Tăng chúng, không
bao giờ Ngài thốt ra một lời vô ích.
8. Tám năm nỗ lực tu hành:
Hối Đường Tâm Thiền sư tự nói: Lúc
mới vào đạo trong tâm thầm nghĩ việc tu rất dễ dàng. Đến khi gặp Tổ Huỳnh Long,
nghĩ lại tâm niệm ngày trước rất mâu thuẫn với lý đạo. Tôi bèn nỗ lực tu hành,
suốt ba năm, nhiều lúc lạnh như cắt, nóng như thiêu vẫn không lay chuyển chí
nguyện, mới được mọi việc hợp lý đạo. Hiện nay, dù tôi vung tay, tằng hắng đều
là trúng ý Tổ Sư từ Ấn Độ truyền sang.
9. Đánh thức bằng cách kê đầu gối
tròn:
Thị giả Triết khi ngủ lấy cây tròn
làm gối, gối đầu. Ngủ vừa trở mình thì đầu rớt xuống chiếu, Ngài giựt mình thức
dậy tu tập. Ngài lấy đó làm qui tắc nhất định hằng ngày trong việc tu hành. Có
người bảo: "Dụng tâm như thế là thái quá". Ngài đáp: "Tôi duyên
trong đạo Bát nhã rất mỏng manh, nếu không cố gắng như vậy, e bị vọng tập lôi
cuốn".
10. Bị mưa không hay:
Am chủ Toàn dụng công tu tập rất
mãnh liệt, đến bỏ ăn quên ngủ. Một hôm, Ngài đứng dựa lan can khán câu
"con chó không có Phật tánh", mưa đến bao giờ không hay, khi ướt cả
áo mới biết.
11. Thề không xổ mền:
Phật Đăng Tuần Thiền sư học đạo với
Tổ Phật Giám. Tham hỏi mãi mà không khế ngộ, Ngài than: "Nếu đời này không
tỏ ngộ, ta thề không xổ mền ra nằm nghỉ". Phát thệ rồi, ngót 49 ngày,
Thiền sư chỉ đứng dựa cột chuyên tâm tham cứu, trạng như ngây dại, không khác
nào người mất mẹ. Do đó, Ngài được đại ngộ.
12. Ném thơ không xem:
Thiết Diện Bỉnh Thiền sư đi hành
khước, ly hương chưa bao lâu, được thơ nhà gửi đến, Ngài ném thơ, nói:
"Đây là việc làm rối loạn ý người".
13. Do kiên thệ được giác ngộ:
Linh Nguyên Thanh Thiền sư ban đầu
đến tham học với Tổ Huỳnh Long, nhiều lần thưa hỏi mà vẫn mờ mịt không biết
manh mối. Đêm lại, Ngài đến trước bàn Phật phát thệ: "Con nguyện trọn đời
phụng sự chánh pháp, cầu mong sớm được khai ngộ". Sau này, Ngài xem bản
Ngữ lục của Tổ Huyền Sa, xem xong cuốn lại để dựa vách, đứng dậy đi kinh hành.
Ngài vừa bước đi sút chiếc dép, cúi đầu xuống tìm, chợt đại ngộ.
14. Không lúc nào duyên cảnh khác:
Viên Ngộ Cần Thiền sư trở lại tham
học với Tổ Đông Sơn Diễn. Ngài làm Thị giả, ngày đêm chuyên cần gắng sức tham
cứu. Thiền sư tự nói: "Sơn tăng ở trong Chúng không lúc nào tâm duyên cảnh
khác, ngót mười năm mới được thấu đạt".
15. Giây phút không quên:
Mục Am Trung Thiền sư lúc đầu học
tập Thiên Thai giáo, sau chuyên về Thiền tông. Ngài đến tham học với Tổ Long
Môn Nhãn. Ở đây, Thiền sư không một phút giây quên phản tỉnh. Một hôm, Ngài đến
chỗ quay nước, thấy trên ngạch đề "Pháp luân thường chuyển", chợt đại
ngộ.
16. Quên đò đến bến:
Khánh Thọ Hưởng Thiền sư đến tham
học với Tổ Bảo Công, chuyên cần quên cả sớm chiều. Một hôm, có duyên sự đến Huy
Dương, qua bến đò Triệu, nghi tình chưa tan, Thiền sư quên đò đã cập bến. Người
đồng hành thấy thế, gọi: "Đò đến bến rồi, sao không lên?". Bỗng
nhiên, Thiền sư buồn vui lẫn lộn. Trở về, Thiền sư đem việc ấy bạch lại Bảo
Công. Công nói: "Đó là kẻ nằm cứng đờ, chưa phải ngộ". Lại dạy khán
"Mặt trời lời Phật". Một đêm, cùng Chúng họp lên Thiền đường, tịnh
tọa, nghe tiếng bảng cây, Thiền sư đại ngộ.
17. Quên cả ăn ngủ:
Tùng Nguyên Nhạc Thiền sư lúc còn
làm cư sĩ đến tham vấn Ưng Am Hoa, không khế hội, nhưng vẫn cố gắng tinh tấn.
Sau Ngài đến học với Mật Am Kiệt. Kiệt hỏi đâu, Ngài trả lời suốt thông cả.
Kiệt than: "Thiền như cây Hoàng Dương!". Ngài càng cố gắng tinh tấn
hơn, cho đến quên ăn, quên ngủ. Một hôm, Mật Am Kiệt vào thất một vị Tăng bên
cạnh hỏi: "Không phải tâm, không phải vật, không phải Phật?". Ngài
nghe lóm liền đại ngộ.
18. Thân miệng đều quên:
Cao Phong Diệu Thiền sư ở trong
Chúng lưng không bén chiếu, thân miệng đều quên. Có khi, Ngài ngậm miệng bụm
mũi đi như người trong nhà vệ sinh mới ra; hoặc khi, Ngài hả hoát miệng như cửa
không gài. Sau đến Kinh Sơn, Ngài vừa vào đến nhà, liền đại ngộ.
19. Bỏ hết muôn việc:
Kiệt Phong Ngu Thiền sư trước tiên
học đạo với Tổ Thạch Môn. Sư vâng giữ pháp ngữ của Tổ, ngày đêm mải miết tham
cứu. Về sau, Sư đến tham vấn Tổ Chỉ Nham, tham câu "không phải tâm, không
phải vật, không phải Phật". Lúc ấy lòng nghi càng tăng, Sư bỏ hết muôn
việc, quên cả ăn, ngủ. Hết mai lại chiều, Sư ngồi sững như tượng gỗ. Một đêm,
Sư nghe vị Tăng ở phòng cạnh bên ngâm câu: "Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng
cầu chơn" trong bài CHỨNG ĐẠO CA, bỗng nhiên thấy tự do như người trút
gánh nặng. Sư đắc ý hai câu:
"Đêm vắng bỗng quên tay chỉ
nguyệt,
"Hư không thoát lộ bóng dương
hồng.
Nguyên văn:
Dạ bán hốt nhiên vong nguyệt chỉ
Hư không tịnh xuất nhật luân hồng.
20. Bế cửa nỗ lực tham cứu:
Thừa tướng Di Thích Sở Tài đến tham
học với Vạn Tùng Lão nhơn. Ông bỏ hết việc nhà bế cửa thất không tiếp khách. Dù
những khi giá lạnh, nóng bức, không ngày nào ông dừng nghỉ tham cứu. Đêm đến,
ông thắp đèn sáng kế tiếp mặt trời để bỏ ngủ. Ban ngày thì ông quên ăn. Như
vậy, suốt ba năm, ông mới được ấn chứng.
21. Đụng đầu vào cột:
Trung Phong Bổn Thiền sư theo hầu
Ngài Tử Quan. Ngày đêm chuyên cần tu tập, mỗi khi buồn ngủ lắm, Sư đụng đầu vào
cột nhà cho ma ngủ tan biến. Một hôm, Sư tụng kinh Kim cang đến câu "Hà
đảm Như Lai sứ" (gánh vác việc Như Lai) bỗng nhiên thấu đạt. Sư tự cho
rằng chỗ chứng chưa cùng tột, càng cố gắng tinh tấn, thưa hỏi không dám bê trễ.
Một lúc nọ, Sư nhìn dòng nước chảy, chợt đại ngộ.
22. Trong thất khắc khổ:
Độc Phong Thiện Thiền sư bế quan ở
Dục Khê. Trong thất, Ngài không kê giường, chỉ để một cái ghế ngồi. Ngài tự
nguyện: "Nếu chẳng tỏ ngộ, ta không rời khỏi chỗ này". Một đêm, hành
đạo quá mỏi mệt, Ngài vừa lại ghế ngồi, bất giác ngủ quên đến canh ba.
Tự trách mình, Ngài chỉ đi đứng chớ
không ngồi nữa. Nhưng một hôm, Ngài lại dựa vách ngủ quên. Sau khi thức giấc,
rất hối hận, Thiền sư lập thệ: "không nương tựa vách". Chừng ấy, thân
thể nặng nề mỏi mệt, mí mắt chỉ muốn sụp xuống, Ngài khóc lóc lễ Phật sám hối,
tìm đủ cách để đánh đuổi ma ngủ đi. Nhờ thế, công phu của Ngài càng lúc càng
tăng tiến thêm. Một đêm, nghe tiếng chuông, Ngài bỗng cảm thấy thân tâm vắng
lặng không còn chỗ nương tựa, liền đắc ý bài kệ:
Thầm thầm lặng lặng bặt duyên ngàn,
Một tiếng chày kình tợ sấm vang!
Manh mối khôn tìm, tin tức vắng,
Đầu xương sọ nát, mộng vừa tan.
Nguyên văn:
Trầm trầm tịch tịch tuyệt thi vi,
Xúc trước vô đoan, hầu tợ lôi.
Động địa nhất thinh tiêu tức tận,
Độc lâu phấn túy mộng sơ hồi.
23. Quên nằm:
Bích Phong Kim Thiền sư tham học với
Ngài Phổ Vân Hải. Phổ Vân dạy khán công án "muôn pháp về một, một về chỗ
nào?". Ngài nghi đến ba năm. Một hôm, nhơn đi hái rau với Phổ Vân, Ngài
chợt im lặng rất lâu. Phổ Vân hỏi: "Ông định sao?". Ngài thưa:
"Định và động không quan hệ". Phổ Vân hỏi: "Định động không quan
hệ, ấy là người gì?". Ngài lấy cái sọt đựng rau đưa lên. Phổ Vân không
chịu. Ngài ném cái sọt xuống đất. Phổ Vân cũng không chịu. Từ đó về sau, Ngài
càng thiết tha công phu, đến lưng không bén chiếu, một lần tọa Thiền đến bảy
ngày mới xuất. Một hôm, nghe tiếng bảng cây, Ngài đại ngộ.
24. Giữ độn công phu:
Vô Tế Thiền sư lúc mới thực hành
công phu không đọc đến bốn quyển Kinh Lăng Già, và những bản Ngữ lục cũng không
xem. Ngài cam chịu mù tối chuyên ròng thực hành độn công phu. Thế mà sau này,
Ngài vẫn được đại ngộ.
Chương III. Dẫn Các Kinh
Phần này tôi chỉ trích dịch chớ
không dịch tất cả.
1. Im lặng chuyên cần tu tập:
Tôn giả A Na Luật Đà, Tôn giả Nan Đề, Tôn giả Kim Tỳ La ở chung trong rừng chuyên tu
Thiền định. Sáng các Ngài trước sau đi khất thực, trở về thọ trai xong, mỗi vị
đều tọa Thiền đến chiều mới dậy. Vị nào dậy trước, thấy trong hũ hết nước, nếu
mạnh thì một mình đi xách, nếu yếu lấy tay ra dấu gọi một vị nữa cùng xách, mỗi
người không nói chuyện với nhau. Đến năm ngày mới họp một lần, hoặc hai người
thuyết pháp, hoặc như Thánh im lặng. (Kinh Trung A Hàm)
2. Không thấy Đạo thề không nằm
nghỉ:
Một vị xuất gia ở nước Ba La Nại, tự
thệ: "không khế hội chơn lý, thệ không nằm nghỉ". Ngày đêm đều đi
kinh hành, trải ba năm như vậy, liền đắc đạo.
Một vị Sa môn ở nước La Duyệt Kỳ,
trải cỏ làm nệm ngồi. Ngài tự thệ: "không đắc đạo, quyết không rời chỗ
này". Những khi buồn ngủ quá, Ngài lấy dùi chích vào vế cho mất buồn ngủ.
Trong vòng một năm như vậy, ngài ngộ đạo. (Kinh Tạp Thí Dụ).
3. Vì chuyên cần cam chịu mọi khó
khổ:
Giả sử thân ta máu thịt khô kiệt,
chỉ còn da bọc xương, nếu chưa đạt được thắng pháp, quyết không dừng nghĩ. Vì
tinh tấn cam chịu những việc nóng, lạnh, đói, khát, gió, mưa … lại cam chịu
người khác hành hạ thân thể đau đớn, cam chịu mọi sự mắng nhiếc, hủy nhục của
người. (A Tỳ Đàm Tập Dị Môn Túc)
4. Hông không bén chiếu:
Ngài Hiếp Tôn giả 80 tuổi mới xuất
gia. Những vị Tăng thiếu niên hỏi Ngài: "Cái việc của người xuất gia, một
là tập tu Thiền định, hai là học tụng Kinh điển, mà ông nay tuổi già yếu làm
sao tu tiến được?". Tôn giả nghe rồi, liền phát thệ: "Tôi nếu không
thông ba Tạng kinh, không đoạn được ái dục trong ba cõi và chứng được sáu pháp
thần thông, đầy đủ tám món giải thoát, thệ không để hông bén chiếu". Từ
đấy, Tôn giả ban ngày thì nghiên cứu giáo lý, ban đêm thì tọa Thiền an định,
suốt ba năm như vậy, liền chứng đầy đủ như sở nguyện. Người thời bấy giờ kính
trọng hạnh tinh tấn của Ngài, nên đặt hiệu là "Hiếp Tôn giả" (Tôn giả
hông không bén chiếu). (Tây Vức Ký)
(Hết)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét