Kinh nói tất cả chúng ta
đang ở trong pháp tánh, hay tánh Không, Chân Như, tánh Giác… dù chúng ta có
biết hay không, có tu hay không, có thường nhớ nghĩ đến nó hay không. Pháp
tánh ấy không ngăn ngại chúng ta, trái lại nó luôn luôn hiện tiền, toàn khắp.
Chỉ có vô minh vọng tưởng phân biệt của chúng ta chia chẻ “pháp giới Một
Tướng” thành một thế giới chia cách, mâu thuẫn, xung đột của riêng mỗi chúng
ta, mà chúng ta gọi là thế giới sanh tử.
Để thế giới sanh tử do chính mình
tạo dựng hoàn nguyên lại thế giới Một Tướng, chúng ta có những pháp thực hành
để chuyển hóa tâm thức của mình. Ví dụ Chỉ hay Định là
sự lắng sâu, chìm sâu, đi sâu vào pháp tánh hay bản tánh của tâm, cái này vốn
sẵn hiện diện thường xuyên bao bọc chúng ta. Dần dần chúng ta đạt đến một cái
biết trong đó không có sự phân chia giữa chủ thể và đối tượng, không có sự
chia cắt giữa con người và thế giới. Điều này ý thức không thể làm được vì ý
thức bao giờ cũng là ý thức về cái gì (Edmund Husserl), do đó ý thức là sự
chia cách căn bản giữa một chủ thể và một đối tượng. Nói cách khác, ý thức
chỉ tồn tại và hoạt động trong sự phân chia giữa chủ thể và đối tượng, giữa
tâm và cảnh. Ý thức là tác nhân tạo ra một thế giới phân mảnh. Đó là chưa kể
đến theo vật lý học hiện đại, người quan sát ảnh hưởng đến vật thể được quan
sát, thì khoa học cũng không thể nào xóa bỏ được vực thẳm ngăn cách giữa
người quan sát và vật thể được quan sát. Ngược lại, Định đưa
đến một cái biết không phân chia giữa chủ thể và đối tượng, giữa phần tử này
và phần tử khác, một cái biết toàn thể, đó là sự bắt đầu của trí huệ.
Trong pháp giới Một Tướng, không
có vấn đề đốn hoặc tiệm, nhanh hoặc chậm, tức thời hoặc tiến theo thứ lớp.
Vấn đề đốn hoặc tiệm, tức thời hoặc tiến theo thứ lớp là do vô minh nghiệp
thức của chúng ta nhiều hay ít, sự phá tan vô minh che chướng ấy nhanh hay
chậm. Nhưng vô minh thì có thể phá tan được vì vô minh là duyên sanh hợp tạo,
ngoại sanh, hiện hữu tạm thời (vô thường), không có thật tánh (vô tự tánh,
Không), không có bản thể riêng (vô ngã) và là nguyên nhân khởi thủy của khổ
đau (khổ).
Kinh
Viên Giác nói
về vô minh:
“Sao gọi là vô minh? Thiện nam tử,
tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay có đủ thứ điên đảo, như người mê
lầm lộn bốn phương, vọng nhận bốn đại làm tướng thân mình, những hình ảnh âm
thanh… duyên theo sáu trần làm tướng tâm mình. Ví như người bị bệnh mắt kia,
thấy trong hư không có hoa đốm hoặc thấy có mặt trăng thứ hai. Thiện nam tử!
Hư không thật ra không có hoa đốm, đó chỉ là vọng chấp của người bệnh mắt. Do
vọng chấp ấy nên không những chỉ mê muội không biết tự tánh của hư không
(tánh Không) mà lại còn mê lầm là hoa kia có thật sanh ra. Do cái có hư vọng
này mà có sanh tử luân chuyển, nên gọi là vô minh.
Thiện nam tử! Cái vô minh này
không có thật thể, như người trong mộng, khi đang mộng thì chẳng phải không
có, đến lúc tỉnh dậy thì mới biết là chẳng có gì cả. Như các hoa đốm diệt mất
giữa không trung, không thể nói rằng hoa kia có chỗ diệt mất. Vì sao thế? Vì
đã không từng có chỗ sanh ra vậy.” (Chương Văn Thù).
Sự thực hành Đại thừa khởi phát và
dựa trên niềm tin trực tiếp vào pháp tánh. Tin vào chính pháp tánh là tin
rằng pháp tánh ấy có mặt ở bất cứ thời gian không gian nào (châu biến), rằng
chúng ta có ở đâu, có làm gì thì chúng ta cũng chưa từng cách hở rời lìa pháp
tánh ấy một mảy may. Pháp tánh ấy không vì chúng ta khởi sanh thiền định
thiền quán mà nó có sanh, không vì chúng ta thôi thiền định thiền quán mà nó
có diệt (không sanh không diệt). Pháp tánh ấy không vì sự thấy nhiều thấy ít,
chứng nhiều chứng ít của chúng ta mà có tăng có giảm. Pháp tánh ấy không vì
sự tịnh hóa điên đảo vọng tưởng được nhiều hay ít, sự phá trừ phiền não
chướng và sở tri chướng của chúng ta được nhiều hay ít mà có sạch có dơ.
Chính trên nền tảng pháp tánh này
mà mọi pháp môn thực hành được thiết lập.
Sau đây chúng ta nghiên cứu ba
pháp môn căn bản được nói trong chương Oai Đức Tự Tại, Kinh Viên Giác.
Mục tiêu của ba pháp môn ấy là trực tiếp thấy và chứng ngộ pháp tánh, hay
thật tướng của tất cả các pháp, đồng thời giải tan những che chướng vô minh
đang chướng ngại chúng ta với thực tại tối hậu ấy. Ba pháp môn này phối hợp
với nhau, tùy theo căn cơ khuynh hướng của mỗi chúng ta, mà thành 25 pháp tu.
1. Chỉ hay Định
“Thiện nam tử! Nếu các Bồ-tát ngộ
được tánh Viên Giác thanh tịnh, thì dùng lấy cái tâm giác thanh tịnh này mà
giữ cái hạnh tĩnh lặng. Do lắng các niệm nên biết cái thức là phiền nhiễu
loạn động, trí huệ tĩnh lặng hiện ra, thân tâm là khách trần từ đây vĩnh viễn
diệt mất. Lúc bấy giờ bên trong tịch tĩnh trong nhẹ và bình an khai phát. Do
tịch tĩnh này nên tâm của chư Như Lai khắp mười phương thế giới hiển hiện
trong ấy như bóng hiện trong gương.
Phương tiện này gọi là Xa-ma-tha
(Samatha)”. Chúng ta trích thêm đoạn “Riêng tu một pháp Xa-ma-tha” trong
chương Biện Âm:
“Nếu các Bồ-tát chỉ dùng cực tĩnh,
do sức tĩnh lặng mà vĩnh viễn đoạn trừ phiền não được thành tựu rốt ráo,
chẳng rời khỏi chỗ ngồi mà chứng ngộ Niết-bàn. Bồ-tát tu như vậy gọi là chỉ
tu một pháp Xa-ma-tha”.
Vì pháp tánh là tịch diệt, nên để
tương ưng với sự tịch diệt của pháp tánh, hành giả phải giữ tâm tĩnh lặng. Vì
pháp tánh là vô sanh, nên để thấu rõ pháp tánh, tâm hành giả phải không sanh
các ý tưởng, làm bình lặng các niệm tưởng. Đây là pháp môn Chỉ, hay Thiền
Định.
Theo Đại Ấn của phái Kagyu Tây
Tạng, những bằng chứng đi vào Chỉ hay Định là sự sáng tỏ, vô niệm, và an lạc.
Miễn là người ta không lạc vào, không dừng lại một trong ba điều này xem
chúng như là mục tiêu đã đạt được, mà tiếp tục xuyên qua những tấm màn che,
thì cuối cùng người ta đạt đến pháp tánh hay tánh Không. Pháp tánh hay tánh
Không thì thường sáng tỏ, thường vô niệm, thường an lạc.
Chỉ hay Định là lắng yên các niệm,
vượt khỏi các phiền nhiễu loạn động, những ý niệm của thân tâm chỉ là những
bụi bặm từ bên ngoài đến (khách trần phiền não) để an trụ thật sâu bên trong
những chiều sâu của tâm mình. Tâm càng an trụ, càng tịch tĩnh thì người ta
càng chứng nghiệm được tâm của tất cả chư Như Lai (hay Pháp thân của chư Như
Lai) hiện ra trong ấy như bóng hiện trong gương, như mặt trăng hiện ra trong
nước đứng lặng. Tận cùng sự tịch tĩnh của tâm mình là tâm của chư Như Lai,
một cái tâm toàn thể, không phân chia và trùm khắp mà kinh điển gọi là Pháp
giới Một Tướng. Bằng pháp Chỉ, người ta có thể chứng nghiệm tâm mình và tâm
của chư Như Lai là một.
Chỉ hay Định là tập trung để đi
sâu vào chính pháp tánh hay tánh Không “vốn tự tịnh tự định” này, và không bị
những ý tưởng thô hay tế làm xao lãng. Quá trình đi vào Chỉ hay Định là một
quá trình vượt lên khỏi những đám mây tư tưởng, từ thô đến tế, cho đến khi ra
ngoài không gian, nơi không còn một cái gì làm ô nhiễm được. Điều nàyKinh Lăng Già gọi
là “vượt khỏi tâm, ý, ý thức”. Nhưng trong quá trình vượt lên ấy, người ta
luôn luôn biết rằng dù có mây hay không mây, mây ít hay mây nhiều, thì đó vẫn
chính là không gian. Mây chỉ là những che lấp, những che chướng tạm thời và
vô thường, còn không gian thì mãi mãi vẫn vậy.
Lấy một ví dụ về Định từ Kinh Kim Cương.
Chỉ hay Định là an trụ sâu vào pháp tánh hay tánh Không mà không xao lãng.
Pháp tánh hay tánh Không thì không chỗ trụ, nên trụ vào pháp tánh hay tánh
Không nghĩa là trụ vào cái không chỗ trụ: “hãy trụ tâm vào cái không chỗ trụ”
(ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm). Như vậy người ta đi dần vào pháp tánh hay
tánh Không vốn không chỗ trụ.
2. Quán
“Thiện nam tử! Nếu các Bồ-tát ngộ
được tánh Viên Giác thanh tịnh, dùng cái tâm giác thanh tịnh này quan sát
thức, căn, trần đều là huyễn hóa, bèn khởi cái trí biết các huyễn để trừ các
huyễn. Ứng hiện các việc làm như huyễn để khai thị cho chúng sanh như huyễn.
Do thấy là huyễn mà bên trong đại bi trong nhẹ và bình an khai phát.
Tất cả các Bồ-tát từ việc khởi
hạnh quán huyễn này mà dần dần tăng tiến. Người quán huyễn kia ban đầu chẳng
đồng với cảnh huyễn, cũng chẳng đồng với sự quán huyễn, sau rồi cả ba, người
quán, cảnh được quán và hành động quán đều đồng là huyễn. Các tướng huyễn
được vĩnh viễn xa lìa. Sự thực hành kỳ diệu của các Bồ-tát như đất làm cho
mầm mộng tăng trưởng.
Phương tiện này gọi là
Tam-ma-bát-đề (Samapatti)”. Chương Biện Âm nói:
“Nếu các Bồ-tát chỉ quán như huyễn, dùng Phật lực biến hóa ra đủ thứ tác dụng
của thế giới, làm đầy đủ các diệu hạnh thanh tịnh của Bồ-tát, mà trong Tổng
trì chẳng mất niệm tịch diệt và các huệ tĩnh lặng, Bồ-tát như vậy gọi là chỉ
tu một pháp Tam-ma-bát-đề”.
Khi nhìn lại những biến cố vui
buồn lớn lao trong quá khứ, chúng ta thấy chúng không còn có thể nắm bắt (bất
khả đắc); chúng như một giấc mộng đã qua, như một trải nghiệm huyễn ảo. Nhưng
đạo Phật chỉ cho chúng ta ngay hiện tại đây, những trải nghiệm cũng chỉ là
như mộng như huyễn. Thực hành như huyễn như vậy (ba cõi duy chỉ là tâm, muôn
pháp duy chỉ là thức), không phải để chán đời, để rơi vào thái độ hư vô chủ
nghĩa. Thực hành quán sát vô thường, như huyễn như vậy là để xa lìa vô
thường, như huyễn và đạt đến, an trụ vĩnh viễn trong tánh Viên Giác “vốn
chẳng phải huyễn, vốn bất diệt. Ví như lau gương, bụi hết thì tánh sáng tự
hiện bày. Phải biết thân tâm đều là huyễn, như bụi dơ, khi tướng dơ đã vĩnh
viễn diệt mất thì mười phương đều thanh tịnh”(Chương Phổ Nhãn).
Tóm lại, quán huyễn là để giải tan
các tướng huyễn đang che lấp tánh Viên Giác vốn có của chúng ta. Các tướng
huyễn càng được nhận ra thì càng tiêu tan và tánh Viên Giác phi huyễn và bất
diệt càng hiện bày.
Ở đây chúng ta trích một đoạn
trong chương Phổ Nhãn để
biết về một phương pháp quán huyễn:
“Thiện
nam tử! Các Bồ-tát mới học và chúng sanh đời mạt thế muốn cầu tâm Viên Giác
thanh tịnh của Như Lai, phải nên chánh niệm, xa lìa mọi tướng huyễn. Trước
hết nương vào hạnh Tĩnh của Như Lai, kiên trì giới cấm, sắp xếp hoàn cảnh
chung quanh cho yên ổn, ngồi yên nơi tĩnh thất, thường khởi niệm như vầy: Cái
thân của ta đây do bốn đại đất nước lửa gió hòa hợp mà có. Tóc, lông, móng,
răng, da thịt, gân xương, tủy não… các vật thể dơ bẩn, đều thuộc địa đại;
nước miếng, nước mắt, mồ hôi, máu, tinh khí, đại tiểu tiện… là thuộc về thủy
đại; sức nóng trong thân thuộc về hỏa đại; hơi thở, các chuyển động trong
thân thuộc về phong đại. Nếu bốn đại lìa nhau, bấy giờ cái thân hư vọng này
hiện hữu ở chỗ nào? Bèn biết thân này rốt ráo không có thật thể, do hòa hợp
mà có tướng, quả là đồng như huyễn hóa.
Do bốn
đại giả hợp mà có ra một cách hư vọng sáu giác quan (mắt tai mũi lưỡi thân
ý). Sáu giác quan và bốn đại, trong và ngoài hợp thành, vọng có bóng dáng do duyên
sanh, tích tụ ở trong tợ như có tướng của cái duyên theo, giả gọi đó là tâm.
Thiện nam tử! Cái tâm hư vọng này nếu không có sáu trần thì không thể có (vì
chẳng có cái gì để duyên theo phân biệt cả). Cái tâm bên trong duyên theo
bóng dáng của trần (ở bên trong) đều tan diệt hết, rốt cuộc cái tâm bám níu
theo duyên không còn tìm thấy ở đâu cả.
Thiện
nam tử! Nơi chúng sanh kia vì thân huyễn diệt nên tâm huyễn cũng diệt. Vì tâm
huyễn diệt nên trần huyễn cũng diệt. Vì trần huyễn diệt nên sự việc các huyễn
tiêu diệt cũng tịch diệt. Vì sự việc các huyễn tiêu diệt cũng tịch diệt nên
cái chẳng phải huyễn vốn bất diệt (hiện ra). Ví như lau gương, bụi hết thì
tánh sáng của gương tự hiện bày. Thiện nam tử! phải biết thân tâm đều là bụi
dơ nhưng hư huyễn khi tướng dơ đã vĩnh viễn diệt mất thì mười phương đều
thanh tịnh (vì đều là tánh Giác quang minh thanh tịnh). Ví như bảo châu ma-ni
thanh tịnh, tùy mỗi phương mà chiếu hiện ra năm màu. Những người vô minh
không biết nhìn ngọc ma-ni kia, cho là ngọc ma-ni có thật năm màu (đây là
phương diện Chiếu của tánh Giác)”.
Khi nhờ quán mà thấy được thân tâm
mình là giả hợp như huyễn thì tánh Viên Giác “chẳng phải huyễn, bất diệt”
hiện ra. Cũng chính do thân tâm như huyễn đó mà mình đã tạo dựng một sanh tử
như huyễn cho chính mình. Sự thực hành quán này “như lau gương”, quán huyễn
được đến đâu, bụi huyễn sạch đến đâu thì gương sáng hiện ra đến đó, như “mầm
mộng dần dần lớn lên” thành cây, và rồi cây này lớn lên trùm hết ba cõi, để
tánh Giác bày hiện trùm hết ba cõi.
Khi thấy sự điên đảo đáng thương
ấy ở nơi chính mình, rồi nhìn ra những người khác cũng đang điên đảo đáng
thương như vậy, hành giả tự nhiên phát ra đại bi khinh an, đại bi mà giải
thoát. Quán như huyễn mà khởi từ những căn bản sai lầm thì lọt vào hư vô chủ
nghĩa. Còn quán như huyễn trên những căn bản đúng thì kỳ diệu thay,
người ta hợp nhất được những đối cực, những cái tưởng chừng như đối
nghịch loại bỏ lẫn nhau, là tánh Không và đại bi, như huyễn và cứu giúp, trên
con đường Bồ-tát đạo.
Chúng ta cũng tìm sự thực hành
quán huyễn ở kinh khác, chẳng hạn Kinh Kim Cương.
Nếu ở Kinh Kim Cương,
định là trụ vào cái không chỗ trụ, thì quán là “Thấy tất cả tướng chẳng phải
là tướng, tức là thấy Như Lai”. Hoặc quán là thấy “Tâm quá khứ chẳng thể đắc,
tâm hiện tại chẳng thể đắc, tâm vị lai chẳng thể đắc”. Bài kệ chấm dứt Kinh
là dạy về Quán:
Tất cả
pháp hữu vi Như mộng, huyễn, bọt, ảnh Như sương, như
điện chớp Phải nên quán như vậy.
3. Chỉ Quán song tu
“Thiện nam tử! Nếu các Bồ-tát ngộ
được tánh Viên Giác thanh tịnh thì y vào tâm giác thanh tịnh này, chẳng nắm
giữ sự huyễn hóa (pháp Quán) và các tướng tĩnh (pháp Chỉ). Rõ biết thân tâm
đều là ngăn ngại, còn tánh Giác sáng tỏ không phân biệt thì không bị ngăn
ngại, vĩnh viễn siêu vượt khỏi mọi cảnh giới chướng ngại và không chướng
ngại. Nó vẫn thọ dụng tướng thân tâm và thế giới ở nơi trần thế (mà không bị
ngăn che ràng buộc), như tiếng boong của chuông, tuy ở nơi chuông mà vẫn
thoát ra ngoài.
Bấy giờ phiền não cùng Niết-bàn
đều chẳng lưu ngại nhau, bên trong phát ra tịch diệt khinh an. Đó là cảnh
giới tùy thuận Diệu Giác tịch diệt: thân tâm, mình người, hoàn toàn chẳng có;
chúng sanh, thọ mạng đều là ý tưởng hão huyền.
Phương tiện này gọi là Thiền-na
(dhyana)”. Chương Biện Âm nói:
“Nếu các Bồ-tát chỉ diệt các huyễn
(không quán huyễn), không giữ lấy tác dụng (không tĩnh chỉ), chỉ đoạn trừ
phiền não. Phiền não đoạn hết bèn chứng thật tướng. Bồ-tát này gọi là riêng
tu Thiền-na”.
Thiền-na hay Thiền dịch từ chữ
Dhyana. Chữ Thiền của Thiền tông cũng chính là chữ Dhyana này. Thiền có nghĩa
là “tùy thuận”, tương ưng.
Trong pháp môn này, hành giả không
theo “tướng tĩnh” (Chỉ), là một đặc tính (tướng) của tánh Giác. Cũng không
theo quán huyễn, huyễn là một tướng khác của tánh Giác (Quán). Mà hành giả
tùy thuận hay tương ưng trực tiếp với bản tánh của tánh Giác. Tự thân tánh
Giác là vừa tịch diệt vừa chiếu soi, nghĩa là vừa Chỉ vừa Quán, vừa Định vừa
Huệ. Tương ưng với “tánh Giác sáng tỏ không phân biệt, không bị ngăn ngại,
vĩnh viễn siêu vượt khỏi mọi hình tướng ngại hay không ngại”. Nói cách khác,
tương ưng với tánh Giác, trong đó vốn không có phiền não, sanh tử, động hay
tịnh, tăng hay giảm…
Để có thể thiết lập được sự tương
ưng với tánh Giác vốn giải thoát này, tâm phải bớt phiền não do loạn động hay
do chấp các tướng là có thật. Khi có được sự tương ưng thật sự rồi
(nhất niệm tương ưng), người ta thường trực tương ưng (niệm niệm tương ưng),
thường trực an trụ càng lúc càng sâu cho đến lúc hành giả với tánh Giác là
một. Càng tương ưng, càng an trụ vào cái chân thật (thật tướng của tất cả các
pháp) thì những cái giả huyễn, những phiền não khách trần càng rơi rụng.
Nếu như pháp Chỉ nhắm vào sự tĩnh
lặng của tánh Giác (Tịch), pháp Quán nhắm vào sự chiếu soi của tánh Giác
(Chiếu), thì Thiền nhắm trực tiếp vào tánh Giác (trực niệm Chân Như), mà tánh
Giác thì vừa Tịch vừa Chiếu.
Lục Tổ Huệ Năng chỉ dạy rằng Chỉ
(Định) và Quán (Huệ) là một trong Thiền (chương Định Huệ),
là một trong tánh Giác:
“Thiện tri thức! Pháp môn đây lấy
Định Huệ làm gốc. Đại chúng chớ mê mà nói định huệ là riêng biệt và khác
nhau. Định và Huệ là một thể, chẳng phải hai. Định là thể của Huệ, Huệ là
dụng của Định. Ngay khi là huệ thì định tại huệ. Ngay khi là định thì huệ tại
định. Nếu rõ nghĩa này, tức là Định Huệ bình đẳng mà tu. Các người học đạo,
chớ nói trước có định rồi sau phát huệ, trước có huệ rồi mới phát định, mỗi
thứ riêng biệt…
“Thiện tri thức! Chân Như tự tánh
khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe chạm biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, chân
tánh vẫn thường tự tại. Thế nên Kinh nói: ‘Vẫn thường khéo phân biệt tướng
các pháp, mà trụ trong đệ nhất nghĩa (tánh Giác) nên chẳng động’”.
Tìm sự tương đương của Thiền ở một
Kinh khác, như Kinh Kim Cương,
chúng ta thấy:
“Tất cả các pháp là Phật pháp”,
“Như Lai là nghĩa Như của tất cả các pháp”…Thiền là trực tiếp thấy và thâm
nhập sự thật của giác ngộ là“tướng tức là tánh”,“tánh tướng bất nhị”, “tất cả
sóng là nước”, “tất cả bóng là gương”…
Tóm lại, Chỉ là lìa các tướng và
tưởng để đi sâu vào tánh Không. Quán là thấy các tướng và tưởng là như huyễn
để tánh Không hiễn lộ. Chỉ Quán song tu là ngay nơi tướng và tưởng mà thấy
tánh Không của tất cả các tướng và tưởng.
Ba pháp ấy, hoặc một hoặc hai hoặc
ba, chuyển đổi lẫn nhau theo thứ tự trước sau tạo thành 25 pháp tu của Kinh Viên Giác.
Mỗi người chúng ta cần tùy theo khuynh hướng của mình mà thực hành, tốt nhất
là có sự chỉ dạy của những vị thầy có kinh nghiệm.
Cần thiết là phải thực hành thường
xuyên liên tục, để càng lúc càng đi sâu vào tánh Giác bổn lai diện mục của
mình (Chỉ), càng lúc càng thoát khỏi những hình tướng như huyễn do thức tạo
(Quán), càng lúc càng tương ưng tùy thuận tánh Giác (Thiền) để tánh Giác càng
ngày càng hiển lộ, hiện tiền.
Càng thực hành thường xuyên chúng
ta càng tiến gần đến cái đời sống “chẳng phải huyễn, bất tử”, cái đời sống
đích thật dành cho mỗi số phận chúng ta. Và chúng ta sẽ tìm ra ý nghĩa của
đời sng đích thật, ý nghĩa ấy kinh Đại Bát Niết
Bàn gọi là Chân Thường, Chân Lạc, Chân Ngã, Chân
Tịnh. (TC. Văn Hóa Phật Giáo 161)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét