Hiển thị các bài đăng có nhãn Viên Quang. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Viên Quang. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 13 tháng 5, 2024

Hoa Nghiêm- Bài 43- “Nhập Pháp Giới” :

là phẩm tâm cao nhất của toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm. Mà nhân vật chính là Thiện Tài Đồng Tử, một mẫu người lý tưởng có chí tiến thủ sắt đá, nguyện hiến dâng suốt đời mình để phụng sự đạo vô thượng. Đồng Tử đã chẳng từ nan đi khắp đó đây tìm cho được minh sư, thiện hữu, tham học đủ với mọi hạng người, từ bậc thượng trí thượng căn đến những người thấp hèn trong xã hội, nguyện dốc lòng hướng thượng cầu được Giác Ngộ, hướng hạ rãi tâm đại từ rộng phắp bốn phương, mong cứu độ toàn thể chúng sanh trong cõi Ta Bà đầy thương đau khổ luỵ. Hay nói khác hơn “Nhập pháp giới” là đi vào thế giới bao la của tình thương và trí tuệ. Nhập vào cảnh địa Tỳ Lô Giá Na pháp thân chứng được nhất tâm chơn như vô chướng ngại pháp giới, hay lìa thế gian sai biệt giả tướng bề ngoài mà nhập vào thế giới thể tánh bình đẳng vô sai biệt tướng bên trong, nhập vào tâm đại đồng của vũ trụ, thấy mình với người, tâm và cảnh, tuy hai mà một, một mà hai.
Trong thời gian hai mươi mấy năm trời, không ngại sương sa tuyết lạnh, mưa dầm nắng hạn, Thiện Tài lê gót khắp nơi tìm cầu Thiện Tri Thức để tu Bồ Tát Hạnh trải qua tất cả năm mươi ba vị. Điều này có ý nghĩa:
Mục đích của Thiện Tài là “Nhập Pháp Giới”, vì vậy trên lộ trình từ thế gian giới đến Pháp Giới Phật phải trải qua quá trình gian nan cam go đầy thử thách, với người có ý chí kiên cố, nguyện lực vững vàng của một hành giả mang hoài bão to lớn nối truyền mạng mạch Phật Pháp mới có thể gánh vác nổi. Trải qua 53 vị Thiện Tri Thức (vị thầy học đạo), Thiện Tài đã đạt được 53 quả vị từ Thiện đến Thánh đến Bồ Tát mà trong Hoa Nghiêm Tông đã vạch ra để dẫn dắt Thiện Tài hay người học Phật đến quả vị Phật. Năm mươi ba quả vị gồm có:
Thập Tín
Thập Trụ
Thập Hạnh
Thập Hồi Hướng
Thập Địa
+ Vị thầy đầu tiên của Thiện Tài là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tượng trưng cho trí tuệ, với nhiệm vụ hóa đạo. Hết thảy cái gì tiêu biểu cho Đại Trí Tuệ bất khả tư nghì của Như Lai đều được Ngài Văn Thù lãnh hội. Do đó ta có thể nói Văn Thù là vị Bồ Tát tiêu biểu Đại Giác của Phật Thích Ca. Vị Thầy sau cùng là Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, tượng trưng cho hạnh nguyện. Đây là sự phối hợp hài hòa giữa Tri và Hành. Người muốn tu học Bồ Tát Đạo phải có trí tuệ sáng suốt, phải tìm mọi cách để phát huy nguồn linh quang sẵn có nơi mình. Trí tuệ tượng trưng cho lý tánh, là ngọn đuốc soi đường cho hành giả, còn hạnh nguyện tượng trưng cho sự tướng, ví như đôi chân. Bao giờ “Lý sự viên dung”, “Tri hành hợp nhất” thì tánh tướng vô ngại dung thông, hành giả ung dung bước vào tòa nhà Như Lai.
+ Thiện Tài là một Phật Tử tha thiết tìm chân lý mà chân lý là một thực thể tuyệt đối, tuy thường hằng nhưng đa dạng, tuy chói sáng nhưng lại ảo diệu lung linh, ví như một viên như ý bảo châu, tuy bản thể của nó chỉ là một nhưng lại tỏa ra muôn ngàn tia sáng long lanh và chiếu ra muôn màu sắc. Muốn nhận ra nó và muốn nắm giữ được nó phải trải công tìm hiểu chân lý muôn mặt là tránh đi cái lỗi lầm của những “người nấu cát mà muốn thành cơm”. Chính vì lẽ đó mà Thiện Tài không quản bao công lao khó nhọc đi hỏi đạo khắp nơi, tuy biết rằng lẽ đạo nhiệm mầu nhưng trước sau chỉ có một.
+ Tốn công lao trong mấy chục năm trời, lặn lội chân trời góc biển, hết thọ giáo với vị này lại theo lời chỉ dẫn tìm đến vị khác, chẳng phải Thiện Tài chỉ cầu nghe Đạo mà thật ra trong thời gian đó Thiện Tài đã thực hành đủ 3 phương pháp Văn – Tư – Tu. Chính nhờ thực hành phương pháp Văn – Tư – Tu một cách nhuần nhuyễn mà Thiện Tài đã nắm được chìa khóa mở cửa ngôi nhà Chánh Pháp.
+ Vai trò quan trọng của Thiện Tri Thức: Người cầu đạo Bồ Tát là người đã biết phát tâm Bồ Đề, tức là đã có một yếu tố tiên quyết để thành đạo, nhưng nếu không có sự giúp đỡ của Thiện Tri Thức thì chẳng thể nào tiến tu được. Do đó vai trò của Thiện Tri Thức rất quan trọng đối với hành giả. Vì Thiện Tài chính nhờ vào năm mươi ba vị Thiện Tri Thức mới thành tựu sự tu học. Chúng ta có thể tóm tắt vai trò của Thiện Tri Thức như sau:
Thiện Tri Thức là người chỉ đường cho hành giả, vì họ là những người đã có kinh nghiệm đi trước. Muốn tìm đường lên núi phải hỏi những người đang xuống núi. Muốn tu pháp Thiền phải thỉnh cầu vị Thiền Sư … Nếu như hành giả tự mình vạch lối, rẽ lau thì chẳng những hao tốn nhiều công phu mà đôi khi còn lầm đường lạc lối.
Thiện Tri Thức là người tạo cho hành giả một môi trường tốt đẹp để tiến tu. Bởi vì nếu hằng ngày hành giả chỉ giao tiếp với các Thiện Tri Thức, thường được nghe giảng những lời kim ngọc thì chủng tử thiện ngày càng tăng trưởng, làm cho các chủng tử ác phải tiêu hao. Cũng như ở cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà sự tu tập luôn thuận lợi … hành giả dễ chứng đắc tiến lên địa vị Bất Thối.
Thiện Tri Thức là những người có cái nhìn khách quan nên dễ nhận ra những thiếu sót, sơ hở của hành giả để kịp thời chỉ bảo cho hành giả sửa đổi. Nếu một mình ẩn tu, hành giả rất khó bỏ ngã chấp-vị kỷ. Tục ngữ có câu “Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì quáng”. Cho nên người tu cần phải can đảm đón nhận những lời phê bình quý giá của các bậc Thiện Tri Thức.
Qua 53 tiến trình tu học của Thiện Tài Đồng Tử, ta thấy Kinh Hoa Nghiêm lập ra cho ta nền giáo dục vững chắc, giáo dục từ thô đến vi tế pháp từ cách ăn nói (ái ngữ), hành xử (lợi hành đồng sự) …cho đến thái độ (Hoan hỷ địa) và vi tế sâu sắc hơn là giáo dục về trí tuệ Bát Nhã giải thoát. Đạo Phật chủ trương giải thoát ngay trong hiện tại (Hiện tiền địa) nương vào Phật lực để hành đạo Bồ Tát (Thiện Huệ địa) và luôn nhấn mạnh việc lấy đức làm đầu (Pháp vân địa). Kinh Hoa Nghiêm cũng như các Kinh Đại Thừa đều lấy trí tuệ chỉ đạo cho mọi hành động và để mở rộng phương tiện làm đạo Bồ Tát không khép kín trong mô hình cố định nào. Điều này nổi bật tính “Bất định” trong Phật Giáo, đồng thời những hành giả Đại Thừa rất tôn trọng ý chí tự do, có như vậy mới thấy hết khả năng của con người để tận dụng vào công việc một cách chính xác hợp với khả năng của họ. Hơn nữa Đạo Phật thường chủ trương “tri hành hợp nhất” nghĩa là cái biết đi trước, việc làm theo sau, người có trí tuệ rồi, có đủ tri thức mới có thể làm đạo được. Theo Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đã trải qua học hơn 50 cái biết đạt đến chỗ Nhất Thiết Trí, khi ấy Bồ Tát Phổ Hiền mới ấn chứng cho Thiện Tài hành Bồ Tát hạnh. Từ ngoài thế gian giới Thiện Tài học hỏi để biết Nhập Pháp Giới rồi từ trong Pháp Giới Thiện Tài trở lại thế gian giới để kiểm chứng lại mình.
Qua sự cọ xát với cuộc đời mới đánh giá được thực chất của con người đã có trình độ, có Kinh nghiệm tu chứng thật sự. Cho nên Đạo Phật giáo dục con người cốt là đào tạo về chất lượng trí tuệ, phẩm hạnh giới đức, thái độ giải thoát và cách hành xử bình đẳng không thiên vị. Học hỏi nghiên cứu giáo lý Đạo Phật mới thấy được những điểm nổi bật này vượt trội hơn các đạo khác ở bốn yếu tố đó. Ngoài ra đạo Phật còn chủ trương tinh thần vô chấp thủ qua pháp môn hồi hướng, đây là một dạng “cho” triệt để không mong cầu trả lại, nhưng xét kỹ đó chẳng qua đó là trao đổi vật thể vô hình, đổi cái hữu lậu để lấy cái cao quý vô lậu. Qua đó ta thấy Đạo Phật chỉ cốt giáo dục bằng tâm, một nền giáo dục siêu hình nhưng bám sát thực tại mà lại siêu thực và trở thành nền giáo dục siêu thế gian không một đạo giáo nào có thể sánh kịp. Vì vậy Giáo Sư Lý Kim Hoa, một học giả nổi tiếng khoa sử Việt Nam nhận định về giáo dục Phật Giáo như sau:
“Nền giáo dục Phật Giáo là một nền giáo dục của khối óc và con tim quả cảm. Tư tưởng giáo dục Phật Giáo là tư tưởng giáo dục hiện thực và hành động”.
C. KẾT LUẬN
Kinh Điển tùy duyên tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Đến nay tính lợi đà quên hết
Chỉ nhớ trên đầu một chữ Như.
(Cố Hòa Thượng Phước Hậu, Chùa Báo Quốc)
Đây chính là tư tưởng chung của những hành giả học Kinh Điển Đại Thừa và họ có lối nhìn phóng khoáng của người ngộ đạo. Hoa Nghiêm gắn liền với lối sống thực tại dù là một thực tại nay đau thương nhưng nó vẫn thực tế hơn và sự hiện hữu của nó là sự hiện hữu của bức thông điệp ngàn đời bất hủ. Vì vậy hành giả phải lấy cái xấu của cuộc đời để quan sát, thấy cái ác để tránh, thấy cái tội lỗi để răn mình. Cho nên khi đối diện với nghịch cảnh trái ngang, hành giả không cảm thấy chán chường hay thất vọng, sự mất mát đau thương của kiếp sanh lão bệnh tử là cái “Bi” của thế gian đối nghịch với cái “Hỷ” của xuất thế gian là vô sinh và bất diệt. Hành giả học Phật là giữ được tính thăng bằng của nội tâm, vì nội tâm an lạc là nội tâm tràn ngập “Từ, Bi, Hỷ, Xả” vượt khỏi bản ngã nhỏ hẹp, vị kỷ mà vị tha, xem nhẹ cái riêng mà đặt nặng cái chung. Khi hành giả đạt đến trạng thái tâm ấy thì sẽ dung hòa được tất cả pháp, đạt đến chỗ “Một là tất cả, tất cả là một” đó chính là tâm vô phân biệt của lý tưởng sự sự vô ngại pháp giới của Tông Hoa Nghiêm “Nhất tức nhất thế”. Như vậy hành giả đã thể nhập vào pháp giới Hoa Nghiêm và cảm nhận được:
Đây là tịnh độ tịnh độ là đây
Mỉm cười chánh niệm
An trú hôm nay
Bụt là chín, Pháp là mây bay
Tăng thân khắp chốn
Quê hương nơi này
Thở vào hoa nở
Thở ra trúc bay
Tâm không ràng buộc
Tiêu dao tháng ngày
(Đây là Tịnh Độ – Thiền sư Nhất Hạnh)
Đúng như lời Thiền sư Vạn Hạnh đã dạy;
Trời tam muội bao la vô cùng tận
Trăng tứ trí viên mãn chiếu sáng ngời
“Có còn chi để kiếm tìm
Niết Bàn rõ ràng trước mặt
Cõi giới này là cõi Liên Hoa
Chính thân này là thân Phật”.
(lượt trích Luận văn tốt nghiệp. Thích Nữ Tâm Thảo.)
Không có mô tả ảnh.
Tất cả cảm xúc:
3

Hoa Nghiêm- Bài 42- Tinh thần cầu học của Thiện Tài Đồng Tử:Văn - Tư - Tu. -“Lý sự viên dung”, “Tri hành hợp nhất”

Thiện Tài Đồng Tử tiêu biểu cho Bồ Đề trí giác hay Bồ Đề tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc giáo hóa của Chư Phật. Vì Bồ Đề tâm là đối tượng chính để Phật thị hiện khai thị, khơi dậy tiềm năng giác ngộ sẵn có trong mỗi con người.

Thiện Tài là một Phật tử tha thiết đi tìm chân lý, là một thực thể tuyệt đối, tuy thường hằng nhưng đa dạng, tuy chói sáng nhưng ảo diệu lung linh. Vì thế đề tránh đi lỗi lầm của “người mù sờ voi” mà Thiện Tài đã không quản khó nhọc gian lao đi hỏi đạo khắp nơi.
Suốt mấy mươi năm lặn lội chân trời góc bể tìm thiện tri thức để học hỏi pháp môn tu Bồ Tát Đạo và Bồ Tát Hạnh, Thiện Tài đã thực hành đầy đủ ba phương pháp Văn - Tư - Tu.
Lãnh hội những lời kim ngọc của các bậc thiện tri thức là Văn.
Nghe xong lại lên đường, trên quãng đường dài, thuận tiện cho Thiện Tài có đủ thời gian chiêm nghiệm những bài học đã qua, ngõ hầu thâm đạt ý nghĩa sâu xa là Tư.
Đồng Tử lắm lúc gian nan lại thêm những cảnh trạng bày ra trước mắt, khi ở chốn hoang vu lâm sơn, khi ở chốn phồn hoa đô hội nhiều sự phân biệt hơn thua tranh giành cấu xé lẫn nhau, tiếp xúc đủ hạng người trong xã hội, việc đối đãi qua lại lắm lúc Thiện tài cảm thấy chán nản mệt mỏi buồn thảm. Nhưng khi ấy Thiện Tài vội định tâm không để thất tình lục dục chi phối. Thiện Tài quán cuộc đời qua các pháp môn đã học để chặn đứng những ý nghĩ đen tối của mình đó là Tu.
Chính nhờ thực hành nhuần nhuyễn phương pháp Văn - Tư - Tu. Thiện Tài đã nắm được chìa khóa mở được ngôi nhà chánh pháp. Nhờ quá trình tu học hoàn mãn, Thiện Tài đã thể nhập đến chỗ “Lý sự viên dung”, “Tri hành hợp nhất” từ lúc nào không hay biết.
Trong quá trình tu học, Thiện Tài biết kết duyên với các bậc Thiện Tri Thức, những người thông đạt giáo lý, có trình độ tu chứng đắc các pháp môn Tam Muội, giải thoát thiền định, trí tuệ. Đó là những người đã trợ giúp cho mầm giác ngộ của Thiện Tài được tăng trưởng. Cho nên Thiện Tri Thức là yếu tố thứ hai sau yếu tố tiên quyết của Bồ Đề Tâm là người trợ duyên đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo tri thức cho Thiện Tài Đồng Tử. Họ là những người có Kinh nghiệm đi trước chỉ phương cho hành giả đi đến đích. Như người leo núi phải hỏi những người đang xuống núi. Hơn nữa, Thiện Tri Thức là người tạo môi trường tốt đẹp để hành giả tiến tu.
Thiện Tài Đồng Tử là người có ý chí nghị lực phi thường và những đức tính sáng ngời về phương diện tinh thần nên Thiện Tài có đủ khả năng vượt qua mọi gian lao thử thách, những cám dỗ của cuộc đời và những chúng sanh cang cường.
Thiện Tài học đạo với tinh thần khiêm cung tự hạ:
“Ai cũng có thể là thầy ta” với tâm niệm tha thiết cầu tiến, Thiện Tài học đạo với đủ mọi thành phần trong xã hội. Với ai, Thiện Tài cũng một lòng kính cẩn ngưỡng mộ, từ các đồng tử cho đến trưởng lão … người nào cũng có cái hay để Thiện Tài học hỏi. Dù ở giai cấp nào, nam nữ, thương gia, thuyền chủ, kỹ nữ … cho đến các bậc quyền quý cao sang như quốc vương, trưởng giả… ai cũng có thể dạy cho Thiện Tài những bài học vô giá.
Tinh thần cầu học của Thiện Tài Đồng Tử trong Kinh Hoa Nghiêm giống Bồ Tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa.
Trên tinh thần toàn diện đó, Hoa Nghiêm đúc kết những tinh hoa của cuộc đời để lập thành mẫu người lý tưởng là Thiện Tài có đầy đủ Kinh nghiệm thiện xảo về cuộc đời để nhập thế hành đạo Bồ Tát, như vậy mới đem lại lợi ích thiết thực hơn.
Học đạo với tinh thần không chấp :
Khác hẳn với chúng ta, Thiện Tài không bao giờ đặt ra khuôn mẫu cố định về Thiện Tri Thức. Còn chúng ta luôn nghĩ rằng Thiện Tri Thức là những người phải học cao đức rộng, tinh thông tam tạng. Thiện Tài quan niệm Thiện Tri Thức rất rộng rãi, ai là người tỉnh thức chỉ bảo cho mình đều là thiện hữu cả. Tuy nhiên người học Phật phải luôn cảnh giác nếu không khéo sẽ tự đồng hóa mình với ngoại đạo nên Phật dạy: “Y pháp bất y nhân” .
Cho nên khi bái kiến Bà La Môn Thắng Nhiệt ở nước Y Sa Na vị này bảo Thiện Tài trèo lên núi đao, nhảy xuống hầm lửa đỏ, hay lúc gặp quốc vương Vô Túc đang tra tấn tội nhân “Tiếng la dậy đất, tiếng kêu thấu trời” và đầy những cực hình hung tợn … thử hỏi gặp những người và cảnh như thế Thiện Tài làm sao không cảnh giác cho được? Còn khi đến nhà kỷ nữ Bà Tu Mật Đa, một giai nhân tuyệt sắc, Thiện Tài phải cố gắng giữ lòng, đầy đủ oai nghi giới hạnh mới học được pháp môn “ly tham dục tế”.
Đại thừa chủ trương “Phật Pháp là bất định pháp” cho nên ngoài việc bất định khuôn mẫu Thiện Tri Thức mà những pháp học cũng đều mang tính bất định pháp. Vì pháp môn nào cũng hàm ẩn chân lý giải thoát cả, tư tưởng này phá bỏ những cố chấp theo một chiều của những người tu tiểu thừa khép kín trong giáo lý nguyên thủy. Thiện Tài Đồng Tử học đạo như con ong bay đi khắp nơi để hút chất ngọt trong các nhụy hoa tinh luyện thành thứ mật thơm quý. Cũng vậy, Thiện Tài biết dung hợp các môn phái dù là không môn, hữu môn, Pháp tánh, Pháp tướng hoặc Thiền hay Tịnh, Hiển hay Mật, Tiểu Thừa hay Đại Thừa, tất cả đều tương dung tương nhiếp trong ánh sáng chan hòa của Phật Pháp, nên Thiện Tài đã lần lượt học các pháp môn một cách thông đạt.
Thiện Tài phát Bồ Đề Tâm cốt để “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” là chí nguyện của một vị Bồ Tát nên Thiện Tài vừa trau dồi trí tuệ vừa mở rộng tâm bi, đồng thời học đủ vạn hạnh của một vị Bồ Tát như: lục độ, tứ nhiếp pháp, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, lục thông, ngũ minh … Có khi một pháp môn mà Thiện Tài phải học nhiều lần với nhiều vị thầy khác nhau.
Về giáo dục tri thức để đào tạo Ngũ Minh cho một vị Tu Sĩ là một hệ thống giáo dục tốt đẹp của Phật giáo trong bất cứ thời đại nào, ở bất cứ nền văn hóa nào....
+ Ba vị Bồ Tát sau cùng là Di Lặc, Văn Thù và Phổ Hiền là những vị Bồ Tát thượng thủ thừa hành Phật ấn chứng cho vị “Tân Bồ tát” chính là Thiện Tài Đồng Tử. Đến đây Thiện Tài Đồng Tử cảm thấy sung sướng vì “Công viên quả mãn” cả một đời hy sinh cho lý tưởng giác ngộ được thành công tốt đẹp.
Tinh thần cầu học của Thiện Tài được Kinh Hoa Nghiêm ghi nhận một cách rất tỉ mỉ và logic từ sự đến lý, từ tướng đến tánh trong một hệ thống phân tầng từ thấp đến cao, từ thế gian đến xuất thế gian. Qua đó ta thấy việc giáo hóa hay mục đích khai thị giác tâm cho chúng sanh và tính giác ngộ tự nguyện của con người có sự thông nhiếp với nhau gọi là “tâm cảm tâm” . Thiện Tài được Bồ Tát Văn Thù khai tâm qua lời thuyết pháp mà sanh niềm tin gọi là “tùng Phật khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh”.
Cho nên phải biết người đó từ trong Phật pháp mà sanh ra và kết tinh thành con người sống động, đầy đủ Bồ Tát hạnh làm lợi lạc cho đời. Đây chính là hình ảnh cao quý cho những hành giả có tâm nguyện Đại Thừa. Thật đúng là :
Hoa lòng đã sớm nở rồi
Thì hoa Bát Nhã kịp thời nở đơm
Gió làn hương dịu mát thơm
Mới hay thịnh đức, chứa dồn từ lâu.
(Văn thơ Phật giáo – nhiều tác giả)
Ý nghĩa tìm cầu Năm Mươi Ba vị Thiện Tri Thức:

Hoa Nghiêm- Bài 39.40.41- Tham vấn 53 Thiện tri thức

+ Kế tiếp gặp Đức Vân Tỳ Kheo, sau khi đi vòng chậm rãi đi Kinh hành ở đỉnh núi, toát ra đức hạnh cao cả như ngọn núi cao vời Ngài đang sống. Nhằm nhắc nhở chúng ta sơ tâm học Đạo cần phải tìm một người đức hạnh để nương theo. Bước đầu tu tập mà không gần gũi người đức hạnh, thì sau này dù giỏi cách mấy cũng không dùng được. Vì “Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không giá trị”.
+ Rời Đức Vân, đồng tử đến tham vấn Tỳ Kheo Hải Vân . Nơi đây Ngài dạy đồng tử ngồi trên bờ biển quán sát chúng sanh, tức quán chiếu căn cơ chúng sanh trong biển sanh tử, trong sáu nẻo luân hồi, thấy rõ cạm bẫy của cuộc đời để đi vào đời không bị vướng mắc. Đến chỗ Thiện Trụ Tỳ Kheo học về pháp vô ngại, trụ tâm ở ngoài vòng phân biệt của phàm phu.
Đây là giai đoạn tu chùa, trang bị tâm thật an định, trí tuệ cao và đức hạnh lớn, đầy đủ ba tư cách này mới dám dấn thân vào đời.
+ Đồng Tử tiếp tục tham vấn với Y Sư Di Già và trưởng giả giải thoát. Gặp Di Già tại chợ lục đạo hay là cuộc đời. Tu trong chùa là tu lý thuyết Kinh điển, cần phải tiếp cận cuộc đời cho lý sự viên dung. Ở đời ta có dịp quan sát cách đối xử của mọi người để tích lũy những Kinh nghiệm, tăng bản lĩnh, từ đó việc đem đạo vào đời dễ dàng hơn. Nhờ quán sát biết ai căn cơ Thanh Văn thì dạy pháp Thanh Văn, ai căn cơ Đại Thừa thì truyền Đại Thừa giáo, do đó ta mới dễ thành công.
+ Di Già dạy đồng tử tất cả kinh nghiệm ở đời và khuyên gặp Trưởng giả giải thoát để học về pháp xả tránh sự trói buộc của các pháp thế gian.Trưởng giả giàu là nhờ thiện phước, lại không bị của cải ràng buộc thì phải là bậc trí tuệ, làm chủ và chuyển được vật. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bị vật chuyển là vô minh, chuyển được vật tức là Như Lai”. Giải thoát còn hàm nghĩa: “Bỏ tất cả mà được tất cả”.
Các vị thầy của Thiện Tài từ bước khởi đầu cho đến giờ không có vị nào muốn giữ chân Thiện Tài, mà còn bảo Thiện Tài tiếp tục học con đường riêng để tiến xa hơn. Điều này đã làm nổi bật tư tưởng Đại Thừa Phật Giáo. Dạy người để giúp người ngày một tiến lên, không phải bắt họ phải lệ thuộc mình, từ đó chính chúng ta cũng được giải thoát tự tại. Sau khi thọ học trưởng giả giải thoát, Thiện Tài nghe lời chỉ dạy của trưởng giả đã tiếp tục đến cầu đạo với
+ Hải Tràng Tỳ Kheo tiêu biểu cho mẫu Tỳ Kheo Bồ Tát giới vào đời độ sanh, giải thoát ngay trong trần thế. Thiện Tài đến đúng lúc Hải Tràng đang nhập thiền định, Thiện Tài kiên trì đứng chờ, nhưng càng chờ thì ông càng nhập thiền lâu hơn, chịu đựng đến sáu tháng chợt bừng ngộ, sáu tháng mà Thiện Tài cố công mài dũa hay nói cách khác đó là để Hải Tràng luyện tập cho Thiện Tài tu thiền định. Cách truyền đăng tiếp tâm này cũng được Đạt Ma tổ sư thể hiện qua chín năm ngồi quay mặt vô vách tạo thành sức thu hút Ngài Huệ Khả cao độ đến mức ông đứng ngoài vách băng giá ngập đến đầu gối mà không hay biết.
+ Kế tiếp gặp Đức Vân Tỳ Kheo, sau khi đi vòng chậm rãi đi Kinh hành ở đỉnh núi, toát ra đức hạnh cao cả như ngọn núi cao vời Ngài đang sống. Nhằm nhắc nhở chúng ta sơ tâm học Đạo cần phải tìm một người đức hạnh để nương theo. Bước đầu tu tập mà không gần gũi người đức hạnh, thì sau này dù giỏi cách mấy cũng không dùng được. Vì “Trí tuệ ngoài đạo đức là một thứ trí tuệ không giá trị”.
+ Rời Đức Vân, đồng tử đến tham vấn Tỳ Kheo Hải Vân . Nơi đây Ngài dạy đồng tử ngồi trên bờ biển quán sát chúng sanh, tức quán chiếu căn cơ chúng sanh trong biển sanh tử, trong sáu nẻo luân hồi, thấy rõ cạm bẫy của cuộc đời để đi vào đời không bị vướng mắc. Đến chỗ Thiện Trụ Tỳ Kheo học về pháp vô ngại, trụ tâm ở ngoài vòng phân biệt của phàm phu.
Đây là giai đoạn tu chùa, trang bị tâm thật an định, trí tuệ cao và đức hạnh lớn, đầy đủ ba tư cách này mới dám dấn thân vào đời.
+ Đồng Tử tiếp tục tham vấn với Y Sư Di Già và trưởng giả giải thoát. Gặp Di Già tại chợ lục đạo hay là cuộc đời. Tu trong chùa là tu lý thuyết Kinh điển, cần phải tiếp cận cuộc đời cho lý sự viên dung. Ở đời ta có dịp quan sát cách đối xử của mọi người để tích lũy những Kinh nghiệm, tăng bản lĩnh, từ đó việc đem đạo vào đời dễ dàng hơn. Nhờ quán sát biết ai căn cơ Thanh Văn thì dạy pháp Thanh Văn, ai căn cơ Đại Thừa thì truyền Đại Thừa giáo, do đó ta mới dễ thành công.
+ Di Già dạy đồng tử tất cả kinh nghiệm ở đời và khuyên gặp Trưởng giả giải thoát để học về pháp xả tránh sự trói buộc của các pháp thế gian.Trưởng giả giàu là nhờ thiện phước, lại không bị của cải ràng buộc thì phải là bậc trí tuệ, làm chủ và chuyển được vật. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bị vật chuyển là vô minh, chuyển được vật tức là Như Lai”. Giải thoát còn hàm nghĩa: “Bỏ tất cả mà được tất cả”.
Các vị thầy của Thiện Tài từ bước khởi đầu cho đến giờ không có vị nào muốn giữ chân Thiện Tài, mà còn bảo Thiện Tài tiếp tục học con đường riêng để tiến xa hơn. Điều này đã làm nổi bật tư tưởng Đại Thừa Phật Giáo. Dạy người để giúp người ngày một tiến lên, không phải bắt họ phải lệ thuộc mình, từ đó chính chúng ta cũng được giải thoát tự tại. Sau khi thọ học trưởng giả giải thoát, Thiện Tài nghe lời chỉ dạy của trưởng giả đã tiếp tục đến cầu đạo với
+ Hải Tràng Tỳ Kheo tiêu biểu cho mẫu Tỳ Kheo Bồ Tát giới vào đời độ sanh, giải thoát ngay trong trần thế. Thiện Tài đến đúng lúc Hải Tràng đang nhập thiền định, Thiện Tài kiên trì đứng chờ, nhưng càng chờ thì ông càng nhập thiền lâu hơn, chịu đựng đến sáu tháng chợt bừng ngộ, sáu tháng mà Thiện Tài cố công mài dũa hay nói cách khác đó là để Hải Tràng luyện tập cho Thiện Tài tu thiền định. Cách truyền đăng tiếp tâm này cũng được Đạt Ma tổ sư thể hiện qua chín năm ngồi quay mặt vô vách tạo thành sức thu hút Ngài Huệ Khả cao độ đến mức ông đứng ngoài vách băng giá ngập đến đầu gối mà không hay biết.
+ Trên bước đường cầu đạo, ngoài các vị Tỳ Kheo phạm hạnh, sáng suốt như Đức Vân, Hải Vân, Thiện Trụ, Hải Tràng, Thiện Tài còn tu học với hàng cư sĩ như Di Già và Trưởng Giả giải thoát là mẫu người buôn bán, giàu có nhưng ung dung tự tại, sống đức hạnh mang lợi ích đến cho người.
Những nhân vật kiểu mẫu trên mà Kinh Hoa Nghiêm đưa ra nhằm nói lên tinh thần Phật Giáo chẳng những không tiêu cực, yếm thế mà trái lại luôn mang lợi lạc cho đời. Tiến xa hơn nữa để vượt khỏi cố chấp về giới tính nhân vật kế tiếp là
+ Hưu Xá Ưu Bà Di
+ cho đến học với tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa dạy pháp môn lục độ và Thắng Nhiệt Bà Là Môn. Sự kiện này cho ta thấy tâm bình đẳng đã phát triển cao nên Đồng Tử vượt qua cái nhìn đố kỵ đối với ngoại đạo, sẵn sàng tham học với bất cứ ai, không đóng khuôn cố định như trong Kinh Pháp Hoa, Ngài Xá Lợi Phất nói người nữ có năm điều chướng ngại không thể thành Phật. Đức Phật xoá bỏ hoàn toàn cố chấp bằng cách đưa ra hình ảnh Long Nữ tám tuổi thành Phật tức khắc. Đến đây thấy rõ mối quan hệ quan trọng giữa Pháp Hoa và Hoa Nghiêm. Kinh Pháp Hoa nhờ Kinh Hoa Nghiêm giải thích làm sáng tỏ nghĩa hơn.
Rời Hưu Xã Ưu Bà Di đến học với
+ tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa và sống với ngoại đạo, những vị này nổi bật về đạo đức và trí tuệ. Ngoại đạo, cũng có người sáng suốt, như một đạo sư Ấn Độ nói: “Thượng Đế là sự phóng chiếu của tâm linh. Cho nên đối với người, Thượng Đế là một người toàn năng. Còn đối với con ếch Thượng Đế là một con ếch lớn hơn”
+ Bà La Môn Thắng Nhiệt bảo Đồng Tử trèo lên núi đao, nhảy vào hầm lửa để Bồ Tát Hạnh được thành tựu. Thiện Tài chùng bước nhưng được các vị Thiện Thần khuyên bảo. Cũng vậy, trên bước đường tu tập nhiều lúc chúng ta mỏi mệt chán nản nhưng nhờ gặp được Thiện Tri Thức làm cho chúng ta tinh tấn để vươn lên.
Đến đây Đồng Tử đã thành tựu một số điều cơ bản của một vị Bồ Tát như Phát Bồ Đề tâm, nương tựa Như Lai làm thanh tịnh ngũ uẩn thân, dấn thân vào đời tức vào chúng sanh thân, tu học Tỳ Kheo Đức Vân, hình thành Thanh Văn thân đi tiếp tục học với Tỳ Kheo Hải Vân.
+ Rồi từ đạo vào đời học với Y Sư Di Già,
+ Trưởng giả Giải Thoát,
+ kế đến học với Thiện Trụ Tỳ Kheo là từ đời trở về đạo để thấy đạo và đời không hai, tự nâng mình lên thành Tỳ Kheo Bồ Tát.
Lần lượt Đồng Tử chứng đắc pháp không, như mộng huyễn, pháp xả để bố thí, pháp hành vô hành và phá được ngã chấp tức là thành tựu Duyên Giác thân. Như vậy Đồng Tử đã hình thành được tam thừa giáo nơi bản tâm mình ở bước đầu tu học.
Rời Bà La Môn Thắng Nhiệt đến học với
+ Từ Hạnh Đồng Tử dạy pháp môn Bát Nhã, phá triệt mọi nhận thức mê mờ của ý thức về thực tại. Đây là tư tưởng tích cực nhập thế, giúp hành giả không khiếp sợ những khổ đau của cuộc đời và khi hành giả đã thấm nhuần tư tưởng “Chân không diệu hữu” thì sẵn sàng nhập vào cuộc đời để thiết lập cõi Tịnh Độ.
+ Thiện Tài tiếp tục lên đường học với Đồng Tử Tự Tại chủ dạy về pháp môn ngũ Kinh và Ưu Bà Di Cụ Túc dạy về pháp môn lục độ để tôi luyện cho mình thêm vững chí để dấn thân cứu đời bằng việc làm cụ thể.
+ Thiện Tài học với Bất Động Ưu Bà Di rồi tiến qua học với
+ Biến Hành Ngoại Đạo nay đến với
+ trưởng giả Ưu Bát La Hoa. Quá trình tu học này thể hiện ý nghĩa khi gặp hoàn cảnh động thì phải trụ tâm bất động để không bị đời làm ô nhiễm.
Rời Ưu Bát La Hoa đến gặp
+ thuyền trưởng Bà Thi La biết đủ các thời tiết nước lên xuống. Nhưng bên trong là Bồ Tát có khả năng lái thuyền Bát Nhã, dùng trí tuệ đặc thù hướng dẫn người phát huy tri thức đạo đức, ra khỏi biển sanh tử.
Đến đây chúng ta thấy Đồng Tử đã trưởng thành về mặt tâm linh, trí tuệ và tri kiến. Tuy nhiên phải cọ sát với thực tế để kiểm tra và thúc liễm thân tâm, cho nên Đồng Tử đến gặp
+ Bà Tu Mật, là một kỷ nữ chuyên mê hoặc lòng người. Đây là cảnh đọa lạc, bùn nhơ thay vì tiếp tục vào cảnh giới thánh thiện. Thường tình các vị Bồ Tát trước khi hành đạo đã được tôi luyện trong khó khăn. Thật vậy, con người nếu đã trải qua bao thử thách, sóng gió của cuộc đời thì cho dù gặp nghịch cảnh nào cũng dễ dàng vượt qua. Vì đã được tôi luyện trong mọi hoàn cảnh nên người luôn thấu hiểu và cảm thông nổi khổ đau của tha nhân. Như Chúa Jésus nếu không bị đóng đinh trên cây thập giá thì không được tôn xưng là Chúa. Còn Đức Phật của chúng ta nếu Ngài chưa từng trải qua cảnh đói rét, mưa nắng dãi dầu trong nhiều kiếp tu hành quyết không thể thành Phật được.
Rời Bà Tu Mật, Đồng Tử tiếp tục vượt qua nhiều thành còn lại, còn học với nhiều Thiện Tri Thức trong thời gian gần hai mươi năm. Tóc xanh giờ đã bạc, cơ thể hao gầy nhưng nơi tâm như núi, trí tuệ như trăng, cuối cùng Đồng Tử gặp
+ Đức Sanh Đồng Nữ và
+ Hữu Đức Đồng Nam để học pháp Huyễn Trụ chuẩn bị cho lần buông xả rốt sau để bước vào Tỳ Lô Giá Na Lâu Các. Gặp lại Đồng Nam Hữu Đức và Đồng Nữ Đức Sanh hay là gặp lại chính mình trong hồi ngây thơ, chưa nhiễm bụi trần như “Anh Nhi Hạnh” mà Thiền Tông chủ trương. Chi tiết Đồng Tử Thiện Tài râu tóc đã bạc mà lễ lạy, cung kính chấp tay chứng tỏ Thiện Tài đã đi sâu vào “Bình đẳng tánh trí”. Tinh thần vô ngã đã nâng tâm cầu đạo của Đồng Tử lên cao hơn bao giờ hết. Già mà tâm hồn tươi trẻ phải là người đã sạch phiền não, không còn chạy theo ngũ dục thế gian. Một người như thế mới gặp lại chính mình thời ngây thơ của mình mà Kinh miêu tả là gặp Đồng Nữ Đức Sanh, là sanh ra được tất cả đức hạnh. Mọi người có đức hạnh và giúp người tạo được đức hạnh thì người đó hành được Bồ Tát đạo. Chính yếu tố này,
+ Đồng Tử Thiện Tài mới gặp được Bồ Tát Di Lặc.
Thiện Tài đi qua một vòng thế giới sanh diệt, tiếp xúc với mọi giới xong, Thiện Tài được trí tuệ Văn Thù soi sáng dẫn đến gặp
+ Bồ Tát Quan Âm. Bấy giờ tâm hành giả mở rộng mới bắt gặp được tâm hồn rộng lớn của Quan Âm, đó chính là tâm đại từ đại bi rộng lớn của Ngài. Nhờ kết hợp với lòng đại bi của Quan Âm và trí tuệ của Văn Thù, Thiện Tài mới diện kiến được người thừa
+k ế Đức Phật Thích Ca là ngài Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc giữ tạng báu của Như Lai mới đủ tư cách mở cửa Tỳ Lô Giá Na Lâu Các cho Thiện Tài vào đảnh lễ Đức Phật Pháp Thân Thường Trú. Đồng Tử đi một vòng cuộc đời, khi trở lại vẫn thấy mình là Đồng Tử. Điều này chứng tỏ rằng Thiện Tài đã hình thành được Như Lai thân “Vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ, cố danh Như Lai”.
Đã chuẩn bị đầy đủ tất cả hiểu biết về các pháp và tự thân mình đã đạt đến vô ngã. Thiện Tài đã đến trước tòa lâu các nhập quán trí, suy tư về đại lâu các và nói kệ tán thán đức Bồ Tát Di Lặc thì đức Di Lặc và quyến thuộc từ nơi khác đến, tán dương công đức Thiện Tài. Nghe kệ, Thiện Tài vui mừng đến toàn thân rởn ốc và rơi lệ nghẹn ngào. Do sức tưởng niệm Đức Văn Thù đến, hoa anh lạc và báu vật đầy đủ hai tay, rãi lên cúng dường Di Lặc Bồ Tát. Kế đến, Thiện Tài thắc mắc về việc thọ ký một đời thành vô thượng chánh giác và tiếp tục nêu lên câu hỏi học Bồ Tát hạnh và tu Bồ Tát đạo. Di Lặc Bồ Tát đáp xong rồi khuyên Thiện Tài nên vào lâu các Tỳ Lô Giá Na để quán sát hiểu rõ được Bồ Tát hạnh và thành tựu vô lượng công đức. Thiện Tài cầu xin mở cửa, Bồ Tát Di Lặc liền khảy móng tay thành tiếng thì cửa mở. Đồng Tử bước vào cửa liền đóng lại. Đến đây Thiện Tài đã được nhập vào Pháp Giới. Đó là điều cần yếu cho người tu tập chúng ta ngày nay.
Sau khi học nghĩa “Huyễn Trụ” Đồng Tử dùng quán trí để tẩy sạch thân tâm lần chót. Kế đó suy tư về đại lâu các là nơi ở của các bậc giác ngộ trọn vẹn, đầy đủ những đức tính thù thắng và lầm tưởng là Di Lặc ở trong đó nên nói kệ tán thán.
Chi tiết “Bồ Tát Di Lặc từ nơi khác đến” nói lên sự sai lầm của Thiện Tài đồng thời phủ nhận toàn bộ suy tưởng của Thiện Tài đây là một sự “ngỡ ngàng” một “cú sốc” thật cần thiết để phá bỏ “Kiến, văn, giác, tri” mà Thiện Tài học bỏi bấy lâu nay.
Nghe kệ, Thiện tài vui mừng đến toàn thân rởn ốc, rơi lệ, nghẹn ngào. Đã từng học pháp huyễn trụ và nhận ra sự sai lầm của mình như trên thì kệ tán dương của Bồ Tát Di Lặc cũng chỉ là hư huyễn thôi, cho nên Thiện Tài không chạy theo “Kiến, văn, giác, tri”, đạt đến tâm bất động và trí Văn Thù xuất hiện nên mừng đến toàn thân rởn ốc, rơi lệ nghẹn ngào. Đây là cảnh giới giác ngộ chứ không phải mừng vì được khen.
“Hoa anh lạc và vật báu hiện đầy cả hai tay” nói lên sự giác ngộ thật sự mà hoa anh lạc và vật báu là bằng chứng cụ thể.
“Bồ Tát khuyên Đồng Tử vào lâu các Tỳ Lô Giá Na quan sát học hiểu Bồ Tát hạnh và thành tựu vô lượng công đức”. Chứng tỏ rằng những gì Bồ Tát Di Lặc nói về Bồ Tát hạnh cũng chỉ là ngôn ngữ. Muốn hiểu rõ phải thâm nhập pháp giới bằng sự thực chứng mới được.
“Thiện Tài cầu xin mở cửa” tức nhờ chỉ phương pháp, nghĩa là còn tìm cầu nương tựa bên ngoài.
“Bồ Tát Di Lặc liền khảy móng tay thành tiếng, cửa mở Đồng Tử bước vào, cửa đóng lại” .
“Khảy móng tay thành tiếng” có giá trị như tiếng hét của Lâm Tế, gậy đập của Đức Sơn, tiếng đá chạm trúc như trường hợp Ngài Hương Nghiêm đã khiến tâm vọng cầu vi tế còn sót lại trong tâm đồng tử dứt bặt, liền nhập vào cảnh giới vô phân biệt trí vào lâu các Tỳ Lô Giá Na hay Phật tính, không còn trở lại phàm phu nữa. Đây là “Việc đáng làm đã làm xong, không còn trở lại thế gian nữa” (Kinh A Hàm).
Gặp Bồ Tát Di Lặc và thâm nhập Tỳ Lô Giá Na rồi. Đồng Tử Thiện Tài chấm dứt giai đoạn một, khác với Văn Thù ở giai đoạn hai. Giai đoạn một hành giả gặp Văn Thù sử dụng trí tuệ căn bản để soi rọi vào giáo lý Phật, vào cuộc sống bản thân và xã hội. Nhưng giai đoạn hai, hành giả cũng gặp Văn Thù để trang bị cho mình trí tuệ vô lậu thấy biết diễn tiến sự vật bằng sự trực giác của bản tâm thanh tịnh. Cho nên Đồng Tử Thiện Tài khi an trụ nơi Phật tánh rồi vẫn thấy cảnh giới của đời thường, những vật dụng của thế gian như lầu các, tràng phan, lôỉng, châu, ngọc, lưới, lục lạc, hoa, lư hương, các loại tượng, chim, hoa sen, cây cối, nhà cửa. Nhờ có trí vô phân biệt chiếu đến nên đều bình đẳng và đẹp rực rỡ khác với cái nhìn do trí phân biệt ban đầu.
Ban đầu Thiện Tài được Văn Thù đưa vào pháp giới gặp Đức Vân Tỳ Kheo và cuối cùng Văn Thù xoa đảnh Thiện Tài nhập pháp giới để gặp Bồ Tát Phổ Hiền. Ở đây Đồng Tử Thiện Tài thấy nơi tự tâm mình mười cảnh giới, từ địa ngục cho đến cõi Phật, tất cả mọi phiền não chướng ngại đều biến mất chỉ còn nhất niệm, tâm trùm khắp và mình có mặt khắp mọi nơi. Đây cũng chính là hư không thân hay thế giới Thường Tịch Quang mà Đồng Tử chứng được.
Tóm lại: Để nhập vào pháp giới, Thiện Tài Đồng Tử phát tâm Bồ Đề, an trú với Đức Như Lai. Kế đến xuất gia học đạo với vị thầy xuất gia rồi dấn thân trong thế giới hiện tượng để học hỏi 53 vị Thiện Tri Thức gồm đủ mọi thành phần xã hội, học đủ tất cả về sắc pháp, tâm pháp và phương pháp hành Bồ Tát đạo.
Thiện Tài Đồng Tử đã lần lượt đi sâu vào thế giới hiện tượng, tâm thức, lại cọ sát thực tế kiểm nghiệm chứng đắc của mình đạt đến vô ngã, trí tuệ phát sinh. Tuy nhiên đây chỉ là cái hiểu trên lý tính, cần phải xả bỏ sạch các tri kiến để thâm nhập vào pháp giới.
Thế giới quan của chư Phật và Bồ Tát được kết tinh bằng trí tuệ và đạo đức, nó nằm trong lòng cuộc đời, một thực tại đầy sống động và mầu nhiệm vô cùng. Từ trong thế gian giới ta tìm được cái xuất thế gian và nhập pháp giới chính là nhập vào cuộc đời, tìm ra được giải thoát ngay trong cuộc đời, tìm cái cao quý trong cái bình thường. Đức Phật trở thành bậc phi thường và Thiện Tài là người nối tiếp bước chân Phật đã tìm được cái phi thường đó. Thiện Tài xứng đáng là bậc “Chân tu thực học. Nhân Thiên Sư Phạm”.
Có thể là hình ảnh về 2 người và đền thờ
Tất cả cảm xúc:
3